Lê Bích Ngọc
Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
1. Bắc Phi
Ở Ai Cập, đám cưới là một công
việc mang tính gia đình và là sự kết hợp của hai cuộc đời, hai gia đình. Trong
đám cưới, cô dâu luôn đóng vai trò đặc biệt và rất được coi trọng vì cô dâu
chính là cây cầu nối giữa tổ tiên với thế hệ tương lai. Sở dĩ cô dâu được coi
trọng hơn chú rể còn vì rất có thể sau này cô sẽ sinh ra một đứa trẻ đầy sức
mạnh, cây đại thụ của gia đình.
Người con gái Ai Cập kết hôn
rất sớm, khoảng 12-15 tuổi. Thông thường thì anh em họ lấy nhau. ở thủ đô
Cairô, đàn ông đến tuổi lấy vợ sẽ nhờ mẹ và chị em gái giúp đỡ hoặc tìm bà mối
se duyên. Khi được người con trai hỏi cưới, người con gái sẽ thuê một người phụ
nữ đứng ra thách cưới với nhà trai và thống nhất ngày tổ chức lễ cưới. .Đôi khi
ngay sau khi thỏa thuận xong, đôi trai gái lấy nhau luôn mà không cần tổ chức
lễ cưới.
Còn nếu tổ chức lễ cưới thì vào
đêm cuối của ngày được quyết định làm lễ cưới, chú rể và những người bạn sẽ
mang một phần lễ thách cưới đến nhà cô dâu và hôn lễ được cử hành. Trong lễ
thành hôn của mình, cô dâu và chú rể ngồi đối diện nhau và ngón tay cái bên
phải đặt sát nhau, người đọc kinh Coran sẽ dùng chiếc khăn quấn hai ngón tay
của cô dâu và chú rể vào với nhau và bắt đầu cầu nguyện cho họ. Tuy nhiên phải
một số ngày sau đó chú rể mới đến đón cô dâu về nhà của mình, họ mới bắt
đầu sống với nhau, khi đó bạn bè và gia đình mới đến chúc mừng họ.
Ở Môritani, con gái trước khi
lấy chồng phải ăn uống tẩm bổ thật nhiều để cơ thể phát triển đến mức
cao nhất. Một người phụ nữ to béo, eo to, cổ ngắn, ngực to, vai rộng được xem
là một phụ nữ đẹp, quyến rũ. Không cần khuôn mặt xinh đẹp, vóc dáng thon thả mà
chỉ cần có các tiêu chuẩn trên thì các cô gái Môritani được xem là những
người phụ nữ có vẻ đẹp truyền thống nơi đây. Bất kỳ người đàn ông nào cũng tự
hào khi cưới được một người vợ có đầy đủ các tiêu chuẩn này. Thậm chí, nếu cô
nào không thể béo lên được là đồng nghĩa với việc cô không lấy được chồng. Vì
vậy, những gia đình có con gái thì truớc khi con họ đến tuổi trưởng thành họ
phải cho con gái ăn thật nhiều thức ăn được chế biến từ thịt và sữa bò cho tới
khi nào thân thể cô gái phát triển rõ rệt có thể lấy chồng được mới thôi.
Đám cưới của người Môritani
không giống các nơi khác chỉ tổ chức 1-2 ngày, mà ở đây họ tổ chức liên tiếp 7
ngày và ngày nào cũng náo nhiệt, đông vui. Đám cưới chỉ kết thúc khi chú rể đưa
cho bố mẹ vợ dây màu có xâu tiền trước mặt mọi người để nhận người thân. Mẹ vợ
nhận sợi dây buộc vào cổ chân con gái để nói lên cuộc sống sau này phát đạt,
viên mãn. Sợi dây này của người Môritani cũng giống như chiếc nhẫn cầu hôn của
người phương Tây. Vì vậy, sau khi đám cưới kết thúc, cô dâu, chú rể vẫn sống
riêng, phải đợi tới hai năm sau chú rể cùng bạn bè dắt lạc đà được trang điểm
đẹp mắt tới đón, hai người mới chính thức sống bên nhau mãi mãi.
Trong thời gian hai năm này,
hai người vẫn thỉnh thoảng về ở với nhau. Sau khi cưới, hai người sống chung
một tuần rồi ai về nhà nấy. Hai tháng sau họ gặp lại sống chung hai, bốn hoặc
sáu ngày rồi lại chia tay. Hai hoặc bốn tháng sau họ lại gặp nhau sống với nhau
ít ngày rồi lại thôi. Sở dĩ như vậy vì ở Môritani các cô gái trưởng thành rất
sớm, 10 tuổi đã phát triển toàn diện và có thể lấy chồng, nhưng vì tuổi còn
nhỏ, có nhiều chuyện cô dâu chưa hiểu nên chỉ sống với chồng vài ngày rồi lại
về nhà mẹ đẻ để được mẹ dạy dỗ và hướng dẫn thêm.
Cứ như vậy trong suốt hai năm
gặp gỡ rồi lại chia tay, sống chung ít sống riêng nhiều, cô dâu đã dần dần
trưởng thành và có nhiều kinh nghiệm để tự xử lý những tình huống xảy ra trong
cuộc sống. Còn việc tại sao cô dâu, chú rể chỉ chọn các ngày tháng chẵn để gặp
và sống với nhau là vì người dân Môritani rất tin vào những con số chẵn, họ cho
rằng các số chẵn thể hiện sự may mắn, tốt lành, nên làm bất kỳ công việc gì họ
cũng nhất nhất chọn những ngày mang số chẵn.
Tại vùng Tualaji của xứ sở Libi
có một phong tục rất lạ. Phong tục này được lưu giữ từ thời xã hội mẫu hệ và
cũng ít nhiều liên quan tới hôn nhân. Đó chính là phong tục đàn ông che mạng.
Che mạng là một nét văn hoá của người châu Phi, nhưng từ trước tới nay hầu như
chỉ có người phụ nữ phải che mạng cho kín đáo để không bị người ngoài nhìn
thấy. Còn ở Tualaji, những người đàn ông nào được coi là công dân tự do
mới được che mạng.
Đàn ông ở khu vực khác khi kết
hôn với cô gái ở Tualaji phải ở rể và khi chuyển đến ở nhà vợ sẽ phải mang mạng
che mặt. Có một điều đặc biệt mang dấu ấn mẫu hệ ở đây là đàn ông dù là công
dân tự do nhưng lấy vợ nô lệ thì con cái sinh ra không đựoc coi là công dân tự
do và không được phép che mạng. Còn phụ nữ có quyền tự do dù lấy chồng nô lệ
nhưng khi sinh con thì con cái của họ vẫn được coi là công dân tự do và có
quyền che mạng.
2. Đông Phi
Ở bộ tộc người Swahili tại
Kênia, trước hôn lễ, cô dâu được tắm trong dầu và gỗ đàn hương rồi dùng nhựa
cây lá móng (một loại cây có thể chế biến thuốc nhuộm tóc) trát lên chân và
tay.
Người Swahili cho rằng làm như
vậy sẽ xua đuổi được tà ma vất vưởng bên ngoài và ngăn không cho ma nhà cô gái
đi theo. Sau khi tắm gội xong, một người phụ nữ lớn tuổi trong bộ lạc sẽ chỉ
cho cô dâu cách làm vui lòng đấng phu quân của mình, thậm chí cả mánh khóe che
dấu sự không còn trong trắng của mình trong đêm tân hôn và dạy cô dâu cách
sống, cách đối nhân xử thế với những người trong gia đình nhà chồng.
Đối với bộ tộc người Masai, hôn
nhân thường được sắp đặt trước và cô dâu phải cưới người đàn ông lớn tuổi hơn
mình mà chưa bao giờ biết mặt. Gia đình cô gái sẽ chọn những người đàn ông phù
hợp trong bộ tộc và đặt vấn đề. Nếu người đàn ông đồng ý cưới cô gái cùng với
những sính lễ nhà gái yêu cầu thì hôn lễ sẽ được tổ chức ngay sau đó. Khi cô
dâu chuẩn bị theo chú rể về nhà, bố cô dâu sẽ đặt tay lên đầu và ngực cô dâu để
cầu chúc cho đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc. Khi ra khỏi nhà, cô dâu không được phép
quay đầu lại bởi theo thần thoại cô dâu sẽ bị hóa đá. Khi cô dâu đến cổng nhà
chú rể, một người phụ nữ bên gia đình chồng đứng chờ sẵn ở cửa để mắng chửi cô
dâu. Đây chính là một nghi lễ xua điềm xấu.
Tại vùng biển phía đông Kênia
vẫn còn lưu hành tập tục hôn nhân đến ở rể nhà gái. Vì vậy, thay vì đón dâu như
các khu vực khác thì ở đây mọi người tổ chức nghi lễ đón rể ở nhà gái và lễ
tiễn chú rể ở nhà trai. Nghi lễ tiễn chú rể được tổ chức vào buổi tối. Khi
tiếng trống, tiếng hát vang lên đoàn người vây quanh chú rể đưa đến nhà gái.
Dẫn đầu sẽ là hai cô gái tay bê mâm cau trầu, mặc áo dài thật đẹp và sặc sỡ như
hai con bươm bướm dẫn đường, cuối đoàn là cha mẹ chú rể. Đến cổng nhà gái, cha
mẹ cô dâu bước ra nhận lễ và mời chú rể vào nhà.
Khi chú rể bước vào phòng, việc
đầu tiên là tìm cô dâu ngồi lẫn cùng bạn bè sau tấm rèm. Vì không nhìn thấy mặt
cô dâu cho nên có khi chú rể nhận nhầm mấy lần khiến mọi người cười lên vui vẻ;
chỉ khi thấy chú rể lo lắng và trở nên luống cuống một cô bạn sẽ giật dây bắc cầu
tác thành cho hai người. Khi hai người nắm được tay nhau tấm rèm mới được kéo
ra và khi ấy chú rể mới chính thức được xem là đã được đưa đến nhà.
Văn hóa ẩm thực của người
Êthiôpia rất đặc biệt. Vì đa số đều coi Cơ đốc giáo là quốc giáo nên số ngày ăn
chay chiếm số lượng đáng kể. Trước lễ phục sinh 40 ngày (thời kỳ đại trai),
người dân ở đây mới có thể ăn thịt và các đồ tanh. Đây là khoảng thời gian
tuyệt vời đối với những người nghiền ăn món thịt bò, đặc biệt là thịt bò sống.
Đối với những người ở đây, thịt bò ngon phải là loại thịt mềm còn nóng hổi từ
những con bò vừa bị giết. Có hai cách để ăn món thịt bò sống này. Cách thứ nhất
là thái thịt còn đang dính máu tươi thành những miếng vuông, dùng dao nhỏ cắt
lát thành miếng mỏng rồi trộn với bột ớt, để một lúc cho ngấm rồi ăn.
Cách thứ hai là băm nát thịt
tươi trộn thêm gia vị ăn kèm với bánh Inkila. Trong bữa ăn gia đình, người
Êthiôpia không dùng bàn ghế mà dùng một cái sọt đan bằng sậy, bên trên đậy cái
nắp phẳng giống như một cây nấm lớn. Trên nắp sọt bày bánh Inkila, đĩa thịt
sống, bột ớt, tương ớt. Thông thường, họ ăn thịt bò trước rồi ăn bánh có phết
tương ớt sau. Khi ăn, nếu ai để rớt tương ớt ra sọt hoặc xuống đất sẽ bị coi là
hành vi thiếu lịch sự. Dùng thịt bò sống đãi khách là một trong những lễ nghi
truyền thống của người Êthiôpia. Khi vào bữa ăn, nữ chủ nhân đưa đến trước mặt
khách một đĩa đựng đầy thịt sống rồi gắp từng miếng đút cho khách. Khách chưa
nuốt trôi miếng này chủ đã gắp miếng khác cho đến khi nữ chủ nhân cảm thấy đã
bầy tỏ hết lòng hiếu khách mới thôi. Cách tiếp đãi thịnh tình này khiến khách
không thể từ chối, bởi nếu không ăn khách sẽ bị coi là mất lịch sự với chủ
nhân.
3. Tây Phi
Tại đất nước Nigiêria xinh đẹp,
trước hôn lễ cả nhà trai và nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc lớn. Trong bữa tiệc
này, hai nhà làm quen với nhau và nhà trai tặng quà cho nhà gái. Sau bữa tiệc,
cô dâu sẽ về sống với gia đình chồng. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì hôn lễ
mới được tổ chức. ở một số bộ lạc của Nigiêria, người chồng không được phép gọi
tên thật của vợ mình mà phải gọi bằng tên của bố vợ, ngoại trừ họ hàng và mẹ
của hai người. Trước đám cưới, những người trong làng tập trung lại với nhau và
hát mừng cô dâu chính thức đi lấy chồng.
Cô dâu được đưa vào trong một
túp lều nhỏ và ở trong đó cho đến khi chú rể vào và đám cưới kết thúc. Trước
khi chú rể bước vào trong lều, chú rể còn phải làm một nhiệm vụ quan trọng:
tặng quà cho hết lượt khách còn ở lại. Ngày hôm sau, trước khi đôi vợ chồng
thức dậy và bước ra khỏi lều, người dân trong bộ tộc giết một con dê và lấy máu
của nó tưới lên ngưỡng cửa của đôi vợ chồng trẻ. Mẹ cô dâu sẽ hỏi cô dâu có hài
lòng với người chồng của mình không, sau đó mọi người ca hát, nhảy múa chúc
mừng cho hai gia đình. Ai muốn xem mặt cô dâu phải trả một xu và muốn động vào
cô dâu bằng một chiếc que đặc biệt phải trả thêm một xu nữa. Người ta cho rằng
đây là dấu hiệu của may mắn.
Ở bộ tộc người Wodaabe của
Nigiêria, khi đi hỏi vợ là những cô gái trong bộ tộc, tất cả anh em họ chưa có
vợ sẽ đeo những chiếc bùa mà họ coi là có thể tăng sức hấp dẫn nhất và cùng đi
hỏi cô gái. Đôi khi, những người anh em họ cùng được một cô gái để ý tới. Song
khi cô dâu chọn được chú rể của mình rồi, những người anh em họ không được chọn
vẫn được mời tới nhà chơi và nếu như cô dâu đồng ý, họ sẽ lên giường với nhau.
Theo cách nghĩ của người Wodaabe, việc cô dâu ngủ cùng với những người anh em
họ không có gì xấu và đáng chê trách bởi họ có cùng chung dòng máu với chú rể.
Khi cô dâu không đồng ý thì những người anh em họ cũng vui vẻ ra về và tình cảm
gia đình không hề rạn nứt.
Cách sống trọng tình nghĩa của
người Mali
còn được thể hiện qua phong tục ma chay của bộ tộc Dogon. Khi trong bộ tộc có
người chết, các thành viên trong bộ tộc quấn thi thể bằng nhiều lớp vải rồi cột
vào dây thừng, sau đó kéo lên vách núi cao hơn 90m để đến hang chôn tập thể.
Người Dogon cho rằng khi thân
thể người chết ở trên cao họ dễ dàng được siêu thoát hơn. ở trong hang chôn tập
thể, linh hồn người mới chết sẽ được các linh hồn cũ dạy cho cách sống ở thế
giới bên kia và linh hồn người mới chết sẽ không thấy cô đơn vì được sống cùng
những linh hồn của những người trong bộ tộc đã mất trước đó. Cứ 12 năm một
lần, người dân Dogon lại tổ chức lễ hội Dama kéo dài 6 tuần lễ để đưa những
vong hồn còn lưu lại trong hang và vất vưởng quanh làng trở về thế giới bên
kia.
Tại Ghana , nơi có bộ tộc Ashati –
là bộ tộc lớn nhất và mạnh nhất được hình thành như một vương quốc thống trị
tại nước này cách đây 300 năm vẫn duy trì ngôi vua. Cứ mỗi mười năm lại tổ chức
một lễ hội linh đình để tái khẳng định sức mạnh của bộ tộc mình. Trong lễ hội
này, vua Ashati đeo vàng đầy người, chỉ riêng hai cánh tay cũng phải cần bọn
tùy tùng nâng hộ bởi cánh tay nặng trĩu toàn vàng…
Khi vua đi diễu hành quanh bộ
tộc, các thần dân tung hoa lên khắp các đường rước nhà vua đi. Ghana không chỉ
đặc biệt ở lễ hội này mà ở đây còn một phong tục rất kỳ lạ: tục Trokosi (nô lệ
tế thần) – đây là một phong tục có từ lâu đời: dâng nộp gái trinh đẹp phục vụ
cho tù trưởng hoặc giáo sĩ. Phong tục này được đặt ra gần như là để xử phạt những
gia đình phạm phải các tội như: trộm cắp, ngộ sát…
Khi cống nạp thể xác một cô gái
trinh nguyên trong gia đình cho thần linh, người tin rằng tội lỗi gây ra sẽ
được gột rửa, thoát khỏi sự trừng phạt của những lời nguyền bí hiểm. ở từng
nơi, phong tục này có những nét khác biệt riêng, nhưng các Trokosi ở đâu cũng
phải chịu nỗi thống khổ như nhau. Có những gia đình không có con gái lớn phải
dâng các bé gái chỉ mới một, hai tuổi. Các Trokosi già sẽ phải nuôi các bé này
lớn lên và đến kỳ kinh nguyệt đầu tiên thì thực sự trở thành nô lệ tế thần đúng
nghĩa với buổi lễ công nhận chính thức rồi sau đó – như tập tục lâu đời, vị
giáo sĩ (được xem là hiện thân của thần) bắt đầu có quyền ăn nằm với nạn nhân
bất cứ lúc nào ông ta muốn. Tại ngôi đền của giáo sĩ, các Trokosi – thậm chí
lúc mang thai – vẫn làm lụng nặng nhọc, nai lưng làm lụng dưới cái nắng khủng
khiếp trên các nương rẫy.
Tuy làm lụng vất vả nhưng những
cô gái này không được hưởng chút thành quả lao động nào. Thức ăn cô ăn hàng
ngày và để nuôi con đều do gia đình cô chu cấp, dù đứa trẻ chính là con của
giáo sĩ. Cay đắng hơn, khi Trokosi chết, gia đình cô phải tự lo ma chay chôn
cất và trong nhiều trường hợp còn phải dâng nộp một gái trinh khác trong gia
đình mình để thay thế cho Trokosi vừa chết. Đó là trường hợp các Trokosi được
dâng nạp chưa kịp “phục vụ” giáo sĩ hoặc thời gian cô làm việc cho đền thờ chưa
được một năm…
Hiện nay trong một số ngôi đền
ở Ghana, vài phụ nữ tế thần đã là thế hệ Trokosi thứ năm, họ vẫn câm lặng làm
việc và cống nạp thân xác để trả giá cho một sai lầm hay tội lỗi gì đó mà gia
đình đã phải chịu, dù lỗi lầm đó đã trải qua hàng chục năm thậm chí hàng trăm
năm. Nếu Trokosi nào không chịu nỗi những cay đắng tủi nhục bỏ chốn mà bị bắt
lại đều phải hứng chịu những trận đòn kinh hoàng và những ngày sau đó còn hơn
sống trong địa ngục. Hiện nay ở một vài nơi tại Ghana , phong tục Trokosi đang bị
phản ánh gay gắt. Những chiến dịch chống đối và nhiều trường học dành cho
Trokosi được lập ra. Nhưng dù thế nào thì trên khuôn mặt của những cô gái nô lệ
của thần linh đã hằn sâu sự bi ai và thống khổ tột cùng mà không liệu pháp tinh
thần nào có thể xóa bỏ được. Theo thống kê, chỉ riêng ở 12 ngôi đền thuộc Ghana
và Tôgô đã có tới 10.000 cô gái nô lệ của thần linh.
Ở châu Phi nói chung và Tây Phi
nói riêng, phụ nữ luôn phải chịu những hủ tục nặng nề. Trong khi ở Ghana và một số
nơi khác, tục Trokosi chưa bị xóa sạch, thì ở Xiêra Lêôn phụ nữ lại chịu tập
tục tefoos (cắt bỏ âm vật). Tập tục này đã bám rễ rất lâu đời ở nhiều nước châu
Phi, đặc biệt là ở Xiêra Lêôn. ở đất nước này còn thành lập hẳn hội Bundo – một
tổ chức chiếm tới 90% phụ nữ ở đây. Bundo cương quyết chống lại một số ít phụ
nữ có học dám chứng minh rằng tefoos đem lại nhiều bệnh tật cho phụ nữ: nhiễm
trùng máu, uốn ván, hoại thư, tiêu khó, nhiễm trùng kinh niên bộ phận sinh dục
ngoài, đau nhức xương chậu, mất chức năng sinh hoạt tình dục và đau đớn khi
sinh…
Đối với các thành viên Bundo,
trẻ em gái phải thực hiện tefoos, nếu không họ chỉ là những người thuộc loại
Ogborraka – bẩn thỉu và chẳng xứng đáng là con cháu của thần linh. Theo ghi
nhận của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện có khoảng 130 triệu phụ nữ ở ít nhất 22
nước châu Phi bị cắt âm vật và mỗi năm chừng 2 triệu trẻ gái phải chịu hình
thức “phẫu thuật dã man này”. Tổ chức Y tế Thế giới đã chính thức xem tefoos là
hành động phi nhân quyền. Tuy nhiên cho đến nay, ở Bundo thuộc Xiêra Lêôn và
nhiều tổ chức khác tại châu Phi vẫn chống đối quyết liệt trước sự can thiệp
nhằm xóa bỏ tập tục tefoos do phương Tây đã và đang khởi xướng mạnh mẽ từ đầu
thập niên 1990.
4. Trung Phi
Khác với Côngô, đám tang
ở Camơrun được xem như một dịp để tổ chức lễ lạt. Lễ chôn cất được tiến hành
vào buổi sáng, đó là một sự kiện long trọng được tiến hành để thể hiện sự kính
trọng đối với người đã khuất. Buổi chiều thường được dành để cho bà con thân
thuộc của người chết tụ họp với nhau. Các thành viên trong gia đình tụ họp mỗi
người mang theo một ít rượu dừa hòa lẫn chung với nhau trong một bình mimbo
lớn. Sau đó, những người tham dự cùng nhau uống thứ rượu được hòa chung đó như
một cách biểu hiện sự đồng lòng của họ, vừa để tỏ lòng kính trọng người chết,
vừa để xác định cùng nhau rằng cuộc sống vẫn đang tiếp tục.
Theo tín ngưỡng truyền thống
châu Phi, thứ tín ngưỡng có ảnh hưởng và thậm chí còn làm cơ sở cho Thiên chúa
giáo trên lục địa này, thì giữa người chết và người còn sống vẫn còn có mối
quan hệ chặt chẽ. Đám tang không được coi là điểm đến cuối cùng của một đời người.
Điều đó giúp giải thích không khí lễ hội đặc trưng cho các hoạt động vào buổi
chiều tối hôm tang lễ. Nếu người chết có một người họ hàng hay bạn bè có chân
trong một ban nhạc thì đám tang nhất định sẽ trở nên sống động hơn nhiều với
màn trình diễn của ban nhạc đó. Một đám tang được tổ chức chu đáo có thể kéo
dài từ một đến ba ngày, và các điệu nhảy thường diễn ra suốt đêm.
Ở Camơrun, người ta khó có thể
tìm được một lễ hội nào tổ chức giống như lễ hội Giáng sinh, lễ Tạ ơn hay tết
năm mới như ở các nước phương tây, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Mà ở đây có rất nhiều
những lễ hội địa phương đa dạng lạ lùng dành cho vô số dịp hội hè, những giai
đoạn quan trọng trong đời người. Chẳng hạn như để tưởng nhớ một vị tù trưởng
vừa mới mất và vinh danh sự lên ngôi của vị tù trưởng mới thì ở miền Tây
Camơrun có lễ hội tháng Tư.
Trong lễ hội đó, một nghi lễ
truyền thống là vị tù trưởng địa phương biến mất trong một cái hang và chỉ xuất
hiện sau đó, khi một đám rước long trọng tiến đến nơi miệng hang để đón ông ta.
Vị thầy bói trong làng đánh dấu lên trán những người tham gia lễ hội bằng một
than củi trộn với nước, còn phụ nữ thì được một lá bùa giúp cho sinh được nhiều
con hơn.
Cũng trong tháng tư này, lễ hội
hoàn tất việc thu hoạch được tổ chức. Lễ hội này được tổ chức để cầu cho mùa
màng tươi tốt và phụ nữ sinh nhiều con cái. Ngày xưa trong lễ hội này, ta
thường hiến tế dê. Các cộng đồng khác nhau có những nghi lễ theo tập quán khác
nhau để đánh dấu những mùa vụ quan trọng trong đời sống nông nghiệp của mình.
Một số tộc người đặt một chiếc bình đặc biệt để hở miệng ra ngoài trời nơi cánh
đồng nhà mình. Những lễ vật nho nhỏ được dâng cúng để tỏ lòng kính trọng với vị
thần của cánh đồng. Trước thời gian thu hoạch, để giữ cho muông thú và chim
chóc khỏi phá hoại mùa màng, người ta cũng tổ chức nhiều lễ hội có trẻ em tham
gia, chúng đeo những chiếc mặt nạ vẽ và trình diễn những điệu nhảy trên cánh
đồng.
Vào tháng 12 hàng năm ở miền
Tây Camơrun, người Bali còn tổ chức lễ hội
Lêla. Lễ hội này tổ chức trong bốn ngày. Cũng như các lễ hội địa phương khác,
lễ hội này là một sự kiện rất quan trọng đối với các thành viên trong cộng đồng
người Bali . Vào những ngày này, những người
nào sống và làm việc xa gia đình đều tìm cách trở về nhà tham gia lễ hội. Đó
cũng là thời gian để gia đình đoàn tụ và gặp gỡ bạn bè nhằm thắt chặt thêm tình
bằng hữu. Vị tù trưởng là trung tâm của sự chú ý trong suốt những ngày lễ hội.
Trong ngày đầu tiên, ông ta cưỡi lên lưng ngựa đi đến con sông gần làng để hiến
tế một con gà, dân làng đi theo ông ta. Nếu tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp thì
các vị thầy bói sẽ khẳng định lại rằng các thần linh đã hài lòng và lễ hội có
thể bắt đầu. Những ngày tiếp theo sẽ tràn đầy các màn nhảy múa, tiệc tùng và
các cuộc thi bắn súng. Trong các ngày lễ hội này mọi người đều mặc những bộ
quần áo đẹp nhất của mình.
Tại vùng cao nguyên phía tây
hay còn gọi là miền đồng cỏ có hai tộc người Bamileke và người Tikar sinh sống.
Hai tộc người này có nghệ thuật chạm khắc rất tinh tế. Họ chạm khắc những mặt
nạ và hình người bằng gỗ và ngà voi. Những môtip chạm khắc phổ biến là hình đầu
người, thường có dạng to bẹt, miệng há rộng và hình những con thú như: voi, cá
sấu báo và rùa. Nhện, một sinh vật quan trọng trong phép bói toán, cũng là một
trong những môtip hay được sử dụng. Những hình tượng chạm khắc rất cầu kỳ
thường để trang trí cho các cây cột trong ngôi nhà truyền thống. Các cây cột
được bố trí dàn ra hai bên lối vào ngôi nhà. Những đồ vật gia dụng khác như
giường và chân giường, các chiếc cốc bằng sừng để uống rượu… cũng được chạm khắc
rất tinh xảo. Các vị tù trưởng thường sở hữu những chiếc ngai và ghế chạm khắc
rất cầu kỳ.
Trong nền văn hóa truyền thống
của người Bamileke, chỉ có tù trưởng và những nhân vật có địa vị cao mới được
phép đeo mặt nạ hình đầu voi trong các lễ hội và các dịp thờ cúng. Con voi được
coi là một trong những con thú hùng mạnh nhất của vùng đất này, là biểu tượng
cho địa vị và của cải của các tù trưởng địa phương và các ông vua. Trong một
vài truyền thuyết, vị tù trưởng có một quyền năng thần kỳ: có thể biến thành
voi. Đi kèm với chiếc mặt nạ là một bộ trang phục cầu kỳ, được trang trí cho
mọi người ai cũng phải chú ý đến địa vị của người mặc nó. Ngoài ra, còn có các
chuỗi hạt thủy tinh, một thứ tài sản được lưu truyền lại từ thời buôn bán nô lệ
khi chúng đóng vai trò như một thứ tiền tệ.
Tại miền bắc Camơrun, hàng năm
vẫn tổ chức lễ hội hóa trang. Hội hóa trang này cũng có thể tổ chức nhân những
sự kiện đặc biệt như chào đón cuộc viếng thăm của một nhân vật đặc biệt nào đó.
Những hình ảnh về lễ hội hóa trang được trình bầy trên các tờ quảng
cáo du lịch có thể khiến người ta có ấn tượng đó là một cuộc đua ngựa,
nhưng đó không phải là một cuộc tranh tài. Hàng trăm con ngựa có thể tham gia
lễ hội cùng với các kỵ mã, chúng được mặc những bộ trang phục lóng lánh, sặc sỡ.
Đây là một lễ hội công cộng và là một dịp để nhảy múa, chơi nhạc.
5. Nam Phi
Ở Namibia, trước khi lễ cưới diễn ra,
chú rể người Himba và một số người thuộc nhà chồng sẽ bắt cóc cô dâu và diện
cho cô ta bộ áo cưới bằng da. Khi cô dâu đến nhà mới của chú rể, họ hàng anh ta
chỉ cho cô ta biết trách nhiệm làm vợ và bày tỏ sự chấp thuận gia đình bằng
việc bôi lên người cô dâu loại sữa bò béo.
Còn đối với người Ndebele, đám
cưới phải trải qua ba bước. Bước cuối cùng có thể mất nhiều năm. Bước đầu tiên
là đàm phán về thách cưới với gia đình nhà gái và khoản thách cưới đó được trả
dần bằng tiền và gia súc. Bước thứ hai, cô dâu được cho ra ở riêng hai tuần,
trong thời gian đó một người phụ nữ khác sẽ chỉ cho cô dâu cách làm một người
vợ tốt. Bước thứ ba, lễ cưới chỉ được tiến hành khi cô dâu sinh được con đầu
lòng.
Tại cộng hòa Nam Phi, người dân
rất hãnh diện với những lễ hội của mình và họ rất háo hức tham gia vào những sự
kiện đặc biệt này. Một trong những sự kiện văn hóa quan trọng nhất của Nam Phi
là liên hoan nghệ thuật Grahamstow, được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy và kéo
dài trong khoảng hai tuần lễ. Festival này nổi bật ở chỗ nó có đủ tất cả loại
hình nghệ thuật biểu diễn, từ những vở kịch chống chế độ Apartheid đến kịch
Shakespeare, múa bale, kịch câm, tạp kỹ và múa. Các bộ phim nước ngoài cũng
được trình chiếu trong khi những nghệ sĩ địa phương trưng bầy các tác phẩm của
họ. Du khách và dân địa phương đắm mình trong bầu không khí sáng tạo nghệ thuật
bao trùm thành phố.
Những màn biễu diễn ấn tượng
nhất thường được tổ chức bên ngoài các địa điểm chính của festival, nơi các
nghệ sĩ nghiệp dư biểu diễn với giá vé vào xem rất rẻ. Nhiều nghệ sĩ, tác giả
và nhạc sĩ nổi tiếng nhất Nam Phi đã khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của họ từ
festival Grahamstown. Vẻ độc đáo của thành phố cũng đóng góp vào thành công to
lớn của ngày hội. Tiền thu được ở lễ hội dành để tài trợ cho giới nghệ sĩ, và
hàng năm nhiều giải thưởng đã được trao trong các lĩnh vực điêu khắc, opera, âm
nhạc và balê. Nhưng điều quan trọng hơn cả là festival này được mọi người đến
với nhau trong không khí ngày hội, không phân biệt màu da, sắc tộc. ở Nam Phi,
tết năm mới cũng được tổ chức linh đình như ở nhiều nước khác. Lễ lạt diễn ra
ngoài trời, có picnic, tiệc ngoài trời và bơi lội.
Bãi biển luôn đông nghẹt người.
Tết năm mới ở Nam Phi rơi vào mùa hè, trong khi những nước thuộc Bắc bán cầu là
mùa đông. ở Cape Town ,
người Nam Phi đón mừng ngày tết Tweedenuwejaar (năm mới lần hai) vào ngày mùng
một và mùng hai tháng giêng.
Ngày tết này ra đời từ lễ hội
Carnival Coon hàng năm do nhóm Capecoons đứng ra tổ chức và biểu diễn. Các nghề
sĩ này vẽ mặt mày, đội nón và mặc trang phục nhiều màu sắc. Các nghệ sĩ dẫn đầu
một đám rước đường phố vui nhộn, vừa đi vừa nhảy múa và hát những bài ca ứng
khẩu.
Ở Nam Phi, lễ Giáng sinh và
Phục sinh là những ngày lễ chính thức và mọi người được đều được nghỉ làm. Lễ
Giáng sinh được tổ chức tương tự như ở các nước khác, chỉ có điều Noel lại rơi
vào mùa hè, vì thế nhiều người ở đây đã chọn cách dọn một bữa tiệc ngoài trời
thay vì một bữa ăn truyền thống trong nhà. Một số gia đình đi lễ nhà thờ, còn
người dân thì mua những đồ ăn xa xỉ tùy theo túi tiền của mình, một cây thông
Noel và quà Giáng sinh cho gia đình và bạn bè. Đa số tín đồ Kitô giáo đi nhà
thờ vào ngày chủ nhật phục sinh để tỏ lòng kính chúa Jesus phục sinh.
Những quả trứng phục sinh làm
bằng chocolate được đem giấu cho trẻ con đi tìm, những chiếc bánh ngọt có hình
cây thánh giá được đem ra ăn vào ngày chủ nhật Phục sinh. Thành phố Roodepoort
tự hào là nơi tổ chức cuộc thi quốc tế Roodepoort Eisteddfot. Được tổ chức hai
năm một lần vào tháng mười, Roodepoort Eisteddfot là cuộc thi tài âm nhạc quốc
tế lớn nhất ở Nam Bán cầu.
Khoảng 8000 người từ hơn 60
quốc gia đến tranh tài trong ngày hội văn hóa này. Tiết mục dự thi gồm những
thể loại như đồng ca, thanh nhạc, nhạc cụ, hát múa nhạc dân gian, ban nhạc, dàn
nhạc giao hưởng và các bản nhạc mới sáng tác. Lễ hội này thu hút người dân khắp
nơi trên đất nước Nam Phi, vì cuộc thi luôn có sự tham gia của những tài năng
âm nhạc xuất sắc từ các địa phương trong nước.
Du khách từ các nơi trên thế
giới cũng đổ về Nam Phi chỉ để được tham dự festival Roodepoort Eisteddfot.
Điểm thu hút chính của cuộc thi luôn là những ca đoàn của nhà thờ của người da
màu và da đen với những giai điệu độc đáo và những chất giọng tuyệt vời.
Ngày hội Majuba thường được tổ
chức vào ngày 27 tháng Hai. Lễ hội này là để kỷ niệm ngày người Anh bại trận
dưới tay người Boer tại Majuba Hill, một ngọn núi nằm trên đường biên ngăn cách
hai vùng Natal và Transvaal. Một liên hoan Concerto hàng năm dành cho những
nhạc sĩ trẻ biểu diễn nhạc cổ điển. Ngoài ra, còn có liên hoan các dàn đồng ca
thanh niên Afrikaner hàng năm. Festival âm nhạc Tretoria do hội nhạc sĩ Nam Phi
tổ chức, cũng là một liên hoan âm nhạc nội tiếng. Cộng đồng người gốc á cũng có
nhiều lễ hội tôn giáo và thế tục truyền thống.
Người Hindu ấn Độ kỷ niêm lễ
hội Deepavali (ánh sáng) vào tháng mười hay tháng mười một để mở đầu năm mới
truyền thống của mình. Người Cape Malay và người theo đạo Hồi tuân thủ nghi
thức ăn chay hàng ngày trong tháng Chay Ramadan thiêng liêng. Mùa chay kết thúc
vào tháng Ramadan với một lễ hội tưng bừng, thực khách thoải mái thưởng thức
những món ăn truyền thống, như bánh gối, cari, bánh rán chilibite.
Trong tháng chay linh thiêng, tín đồ Hồi giáo đi lễ ở các thánh đường với trang
phục lễ hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét