Nguyễn Chính Viễn (St)
Nhân dịp ngày “Phụ Nữ 20-10” tôi muốn giành mấy trang sưu tầm đê viết về người
Phụ nữ . Viết về duyên phận 3 nàng công chúa nước Việt đó là An Tư công chúa,
Huyền Trân công chúa và Công chúa Lê Ngọc Hân:
1-
Công chúa An Tư (Theo Việt Sử Tiêu án của Ngô thì Sĩ chép là Thiên Tư công
chúa) là con gái vua Trần Thái Tông, em gái út của vua Trần Thánh Tông.Cuộc đời
của An Tư, sử Việt chép rất sơ lược, như Đại Việt sử ký toàn thư (DVSKTT) của
Ngô Sĩ Liên chỉ ghi: Tháng 2 (Ất Dậu)...Sai người đưa công chúa An Tư (em gái
út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy.Ở
Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ cũng chỉ ghi:...Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột
liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự
lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, Vua
sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước.Đầu năm Ất Dậu
(1285), quân nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thượng hoàng
Thánh Tông và vua Nhân Tông đã đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ (thượng nguồn sông
Ba Chẽ , huyên Ba chẽ Quảng Ninh bây giờ), còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc
Sơn để đánh lạc hướng đối phương. Nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9
tháng 3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai
vua.Chiến sự buổi đầu bất lợi. Tướng Trần Bình Trọng lại hy sinh ở bờ sông
Thiên Mạc (thuộc Hà Nam ).
Trước thế mạnh của đối phương, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần
Lộng, kể cả hoàng thân Trần Ích Tắc đều qui hàng. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung
được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của Nguyên, nhưng không có kết quả.
Trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu,
bởi vậy, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, tức
sai người dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan để tạm cầu hòa.Sau, quân
Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai
của Hốt Tất Liệt đã phải "chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo
chạy" để về Tàu.Chiến thắng, các vua Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng
công thần, nhưng không ai nói đến An Tư. Không rõ công chúa còn hay mất, được
mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân.Trong cuốn An Nam chí lược
của Lê Tắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu
vong ở Trung Quốc có ghi: Trước, Thái tử (chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái nhà
Trần sinh được hai con. Người con gái họ Trần này có thể là công chúa An Tư,
tuy nhiên chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều này.Trong Từ điển nhân vật
lịch sử Việt Nam, mục từ An Tư:.. Một ngày trong tháng 2 năm 1285, Trung Hiếu
hầu Trần Dương nhận lệnh đi thương thuyết giảng hòa, rồi sai quan hầu cận là
Đào Kiên đưa công chúa An Tư sang dinh tướng Mông Nguyên (Thoát Hoan). Chẳng
bao lâu, dưới sự chỉ huy kháng chiến của Trần Quốc Tuấn, quân Nguyên Mông bị
dẹp tan. Trong chiến công này rõ ràng là có sự đóng góp của công chúa An Tư,
người đã hy sinh vì nạn nước GS. Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á Việt
Khoảng năm 1943, câu chuyện về người
công chúa này đã được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết thành cuốn tiểu thuyết lịch
sử An Tư.Theo nội dung truyện, công chúa An Tư có người yêu là Chiêu Thành
Vương Trần Thông, con cả của Thái úy Khâm Thiên Đại Vương Trần Nhật Hiệu.Và sau
khi "người chồng" là Thoát Hoan trốn chạy, “nàng xuống ngựa thắp
hương, rồi dập đầu trên nấm đất (ngôi mộ của Trần Thông) mà khóc rũ dượi…”. Rồi
dưới "ánh trăng bàng bạc, nàng mê man như ngày ruổi ngựa cùng chàng vào
Thanh. Nàng đã đến bên bờ sông Cái, và không ngần ngại văng mình xuống nước...”
Bàn về nhân vật này, PGS.TS. Nguyễn Bích Thu viết:Trong tiểu thuyết...An Tư tượng
trưng cho cái đẹp biết dấn thân, mang một ý nghĩa lớn lao có thể lay chuyển
hàng binh thế trận...Nguyễn Huy Tưởng bằng tình cảm và lòng ngưỡng mộ của mình
đã ghi nhận và tôn vinh sự hi sinh thầm lặng nhưng quyết liệt của An Tư, một nữ
trung hào kiệt trong tiểu thuyết như một chiến công sánh ngang với Trần Quốc
Toản, Trần Bình Trọng và trường hợp của nàng đáng được lưu danh như tên tuổi
các bậc tiền nhân nhà Trần.
2-
Công chúa Huyền Trân: (1287 - 1340), một công chúa đời nhà Trần, là con gái
của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân
được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman
III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng
Trị ngày nay).Bà sinh vào năm 1287 Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị,
hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (tức là hoàng đế Trần Anh Tông). Vua
Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái
thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua
Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành
gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế
Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (
thuộc Indonexia ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn
lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập
nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.Năm 1306, Chế Mân dâng hai
châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân
cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari.
Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa,
thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại
Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để
tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang,
tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân
đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này
kéo dài tới một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Khắc Chung đã tư
thông với công chúa.Tháng 8 năm Mậu Thân (1308), Huyền Trân về đến Thăng Long.
Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu
Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm (1309), dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát.
Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng .Cuối năm Tân Hợi
(1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y đến làng Hổ
Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành.
Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng
Nghiêm Tự . Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng
quanh vùng thương tiếc và tôn bà là "Thần Mẫu" và lập đền thờ cạnh
chùa Nộn Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân
trên núi Ngũ Phong ở Huế.Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc.
Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân,
có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng
Thần".Tuy nhiên, một số người đời sau cho rằng câu chuyện này có phần thêu
dệt, chuyện nêu lý do công chúa phải lên giàn hỏa chỉ là cớ do sách Việt sau
này viết thêm. Theo tiến sĩ Po Dharma, công chúa Huyền Trân không thể hội đủ
điều kiện để xin lên giàn hỏa vì nếu theo truyền thống Champa xưa, đây là một
vinh dự và chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép hủy thân trên giàn hỏa
với chồng của mình . Trong kinh điển theo đạo Bà La Môn đều không nhắc đến tục
lệ này của người Champa, chưa chắc đã có tục lệ như thế. Cho dù có tục lệ đó đi
nữa, thì việc hỏa táng phải tổ chức trong vòng 7 ngày sau khi chết, vì khí hậu
nhiệt đới không cho phép bảo quản thi hài được lâu hơn, đến khi tin đưa về Đại
Việt và dù Trần Khắc Chung có lên tàu sang ngay cũng không thể nào kịp, trong
điều kiện giao thông thời đó. Chuyện Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân có
thể là vì bị gièm pha, đồn thổi vì sự chênh lệch tuổi tác quá lớn và Trần Khắc
Chung được tiếng đạo đức, trên tàu còn rất nhiều người khác cùng đi, như là An
Phủ Sứ Đặng Vân (Đặng Thiệu), không dễ dàng hành động Sử thần Ngô Sĩ Liên
trong ĐVSKTT chê trách chuyện này : Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô
nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho
thiền vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê
trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên
Đế thì vì Hô Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy nàng Vương Tường mà ban
cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là
nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao
không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất
gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không
phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp
về, thế thì tín ở đâu Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư :Duy
việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua
đời, dù muốn sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín đối với Chiêm Thành. Thì
phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng.Còn người Việt đã thắng
một canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa … Lưu bút của
bà Trương Mỹ Hoa, nguyên phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
lưu tại điện thờ Huyền Trân Công Chúa, Huế : “Có những vấn đề của phụ nữ phải
được giải quyết từ Quốc gia, có những vấn đề của Quốc gia phải giải quyết từ
người phụ nữ...” Bia ký tại Điện thờ Huyền Trân Công Chúa, Huế.Câu chuyện về
Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ thuật.Trong dân gian, có
lẽ vì thời đó người Việt coi người Chăm là dân tộc thấp kém nên đã có câu:
:Tiếc thay cây quế giữa rừng ? Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.Tương truyền
là bài "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, có người cho rằng
chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm quốc: “Nước non ngàn
dặm ra đi.../Mối tình chi!/Mượn màu son phấn/Đền nợ Ô, Ly./Xót thay vì,/Đương
độ xuân thì./Số lao đao hay là nợ duyên gì?”...Một số tác phẩm có nói đến Huyền
Trân như : Trường ca Con đường Cái Quan của Phạm Duy : “Năm tê trong lúc sang
Xuân/Tôi theo Công chúa Huyền Trân tôi lên đường/Đường máu xương đã lắm oán
thương/Đổi sắc hương lấy cõi giang san/Tôi đi theo bước ái tình/Đi cho trăm họ
được hòa bình ấm no/Đèo núi cao nghe gió vi vu/Thổi phấn son bay tới kinh đô...”.(Tiễn
biệt Huyền Trân của Phạm Duy phổ thơ Đào Tiến Luyện).
3-
Công chúa Lê Ngọc Hân ( 1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung
Hoàng hậu là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam ,
vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà
Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên. Lê Ngọc Hân sinh
ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long. Bà là con gái
thứ 9 của vua Lê Hiển Tông. Mẹ bà là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, là người xã
Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn - Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm,
Hà Nội), và là con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai.Tháng 5 năm 1786, tướng
nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài "phù Lê diệt Trịnh".
Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến vua Hiển Tông. Do sự mai mối của
tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha
kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi.Vài
ngày sau vua cha Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn
cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối
vì muốn lập hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ - con của thái tử Duy Vĩ bị chúa Trịnh Sâm
giết hại - lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ
được lập, tức là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau bà theo Nguyễn Huệ về Thuận
Hóa.Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt
quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng
hậu.Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc
Cung Hoàng Hậu. Bà có 2 con với Nguyễn Huệ là công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và
hoàng tử Nguyễn Quang Đức Năm 1792, Quang Trung hoàng đế đột ngột băng hà. Bà
viết bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng
như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số.Quang Trung mất,
Quang Toản là con bà Chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên ( hoặc Bùi Thị Nhạn )
lên thay, tức là Cảnh Thịnh đế.Theo bài "Danh nhân Lê Ngọc Hân" của
Chu Quang Trứ, Lê Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa
Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng
sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4 tháng 12 năm 1799) thì mất, lúc đó
mới 29 tuổi.Lễ bộ Thượng thư nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích đã phụng chỉ soạn năm
bài văn tế Ngọc Hân cho vua Cảnh Thịnh, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị
Huyền, cho các tôn thất nhà Lê, và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh. Hoàng đế Cảnh
Thịnh đích thân đọc trước linh sàng Hoàng thái hậu họ Lê. Bà được truy tặng là
Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Cả năm bài văn tế trên còn được chép
trong sách Dụ Am văn tập. Và theo tộc phả họ Nguyễn Đình, đang khi triều Tây
Sơn suy thoái, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23 tháng 12 năm 1801) hoàng tử
Nguyễn Quang Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18
tháng 5 năm 1802), công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi.
Song theo Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng trong sách Các triều vua Việt Nam thì đang khi nội bộ triều Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, bà dẫn hai con đi trốn, đổi họ tên sống lẫn trong dân ở Quảng Nam. Không lâu sau bị phát hiện và bị bắt. Ngọc Hân phải uống thuốc độc tự vẫn, hai con bị thắt cổ chết. Khi ấy là năm Kỷ Mùi (1799) Theo "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đình, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền vì thương con gái và hai cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, nên đã thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà). Ngày 16 tháng 7 năm 1804, bà cho an táng hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành, xã Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội).GS. Chu Quang Trứ dẫn theo Đại Nam thực lục cũng nói về việc này:"Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích".Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu bị đổ nát. Một ông tú người làng Nành nhớ công lao của Chiêu nghi họ Nguyễn đối với dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có viên phó tổng cùng làng có thù riêng với ông tú, đã lên quan tố giác về việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu, quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức.Em gái Lê Ngọc Hân là Lê Ngọc Bình, là con gái nhỏ nhất (thứ 23) của vua Lê Hiển Tông, là vợ của vua Cảnh Thịnh. Sau khi quyền thần Bùi Đắc Tuyên bị dẹp (1795), Lê Ngọc Hân làm mối Ngọc Bình cho vua Cảnh Thịnh.Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Ngọc Bình trở thành vợ vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh), sinh được hai hoàng tử nhà Nguyễn. Trong bộ sách Quốc sử di biên do Phan Thúc Trực soạn vào năm Tự Đức thứ 4 đến thứ 5 (1851-1852) đã chép như sau:Năm Nhâm Tuất, Gia Long năm đầu (1802)...Ngày 21 Canh Thân, Thế tổ (Gia Long) đến kinh thành Thăng Long, hào mục bắt anh em Nguyễn Quang Toản dâng lên vua...Dâng nộp bà phi Lê Thị Ngọc Bình vào trong cung vua... Khi nhà Tây Sơn mất, trong dân gian truyền tụng câu: Số đâu có số lạ lùng /Con vua lại lấy hai chồng làm vua./.Năm 1941, tác giả Phạm Thường Việt, một lần nữa lại cho rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Hân].Tuy nhiên, qua Quốc sử di biên và một số tư liệu khác, các nhà nghiên cứu khẳng định rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Bình, em gái bà - người ít được biết đến hơn bà.Do chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng: Hai bà đều là công chúa con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, hai bà đều sinh trưởng ở ngoài Bắc, lớn lên hai bà đều lấy chồng là hoàng đế nhà Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là "Hoàng hậu Phú Xuân". Do những điểm tương đồng căn bản đó mà những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời hai bà, gây ra sự lầm lẫn giữa Ngọc Hân và Ngọc Bình.
Song theo Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng trong sách Các triều vua Việt Nam thì đang khi nội bộ triều Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, bà dẫn hai con đi trốn, đổi họ tên sống lẫn trong dân ở Quảng Nam. Không lâu sau bị phát hiện và bị bắt. Ngọc Hân phải uống thuốc độc tự vẫn, hai con bị thắt cổ chết. Khi ấy là năm Kỷ Mùi (1799) Theo "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đình, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền vì thương con gái và hai cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, nên đã thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà). Ngày 16 tháng 7 năm 1804, bà cho an táng hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành, xã Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội).GS. Chu Quang Trứ dẫn theo Đại Nam thực lục cũng nói về việc này:"Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích".Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu bị đổ nát. Một ông tú người làng Nành nhớ công lao của Chiêu nghi họ Nguyễn đối với dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có viên phó tổng cùng làng có thù riêng với ông tú, đã lên quan tố giác về việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu, quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức.Em gái Lê Ngọc Hân là Lê Ngọc Bình, là con gái nhỏ nhất (thứ 23) của vua Lê Hiển Tông, là vợ của vua Cảnh Thịnh. Sau khi quyền thần Bùi Đắc Tuyên bị dẹp (1795), Lê Ngọc Hân làm mối Ngọc Bình cho vua Cảnh Thịnh.Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Ngọc Bình trở thành vợ vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh), sinh được hai hoàng tử nhà Nguyễn. Trong bộ sách Quốc sử di biên do Phan Thúc Trực soạn vào năm Tự Đức thứ 4 đến thứ 5 (1851-1852) đã chép như sau:Năm Nhâm Tuất, Gia Long năm đầu (1802)...Ngày 21 Canh Thân, Thế tổ (Gia Long) đến kinh thành Thăng Long, hào mục bắt anh em Nguyễn Quang Toản dâng lên vua...Dâng nộp bà phi Lê Thị Ngọc Bình vào trong cung vua... Khi nhà Tây Sơn mất, trong dân gian truyền tụng câu: Số đâu có số lạ lùng /Con vua lại lấy hai chồng làm vua./.Năm 1941, tác giả Phạm Thường Việt, một lần nữa lại cho rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Hân].Tuy nhiên, qua Quốc sử di biên và một số tư liệu khác, các nhà nghiên cứu khẳng định rằng người lấy vua Gia Long là Lê Ngọc Bình, em gái bà - người ít được biết đến hơn bà.Do chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng: Hai bà đều là công chúa con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, hai bà đều sinh trưởng ở ngoài Bắc, lớn lên hai bà đều lấy chồng là hoàng đế nhà Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là "Hoàng hậu Phú Xuân". Do những điểm tương đồng căn bản đó mà những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời hai bà, gây ra sự lầm lẫn giữa Ngọc Hân và Ngọc Bình.
Là những người hậu sinh sưu tầm ghi
lại duyên phận của 3 Nàng công chúa nước Việt “Lá ngọc cành vàng” phải gánh
chịu cảnh đa đoan lận đận...Mong các nhà viết sử nghiên cứu tìm hiểu đánh giá
một cách minh bạch 3 người con gái ở 3 lĩnh vưc : Nhân, Nghĩa, Tình... đối với
Đất nước.
NCV
NCV
Tại sao nên sử dụng Fine pure Collagen ?
Trả lờiXóa- fine pure collagen gia bao nhieu có công nghệ Gien là công nghệ vượt trội giúp trẻ hóa các tế bào cách làm chè khúc bạch uyen thy từ trong ra ngoài. Giúp cho da không nhăn, trẻ hóa và khỏe mạnh
- Ngoài ra còn có Co.Q10 giúp da trắng sáng, chống lão hóa và collagen shiseido loại nào tốt giúp tốt cho tim mạch, tăng cường hệ miễn dịch, chống lại bệnh tật.
- Chrodroitin, giúp da không bị nhờn, không chảy xệ. Tốt cho mắt & cơ khớp gối.thực đơn cho sản phụ sau sinh mổ
- Vitamin C giúp da không bị khô & da dẻ mịn màng. Tăng sức đề kháng cho cơ thể.
- Collagen chống nhăn, giúp tăng độ đàn hồi cho da.
- Với collagen của nước nào tốt nhất cho phụ nữ Việt Namnhững tính năng vượt trội , độc quyền công nghệ tinh trùng gặp trứng sau bao lâu thì thụ tinhGien hơn hẳn những loại Collagen khác trên thị trường vừa không nhăn, vừa trẻ hóa vừa khỏe mạnh từ bên trong ra tới gương mặt thì Fine Pure Collagen rất nên được sử dụng thường xuyên. mang thai tháng thứ 4 có nên uống nước dừa