1. Cầm trên tay bức “Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010”
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam vừa mới
được công bố hôm 01/05/2011, một giáo lý viên vừa chỉ vào dòng chủ đề của bức
thư: “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống” vừa hỏi
tôi:“Thưa cha, mấy cụm từ ‘văn minh tình thương và sự sống’, ‘văn hoá sự
sống’ và ‘văn minh sự sống’ có đồng nghĩa với nhau không? Con nghe có cha nói
tới ‘văn hoá sự chết’ rồi ‘văn minh sự chết’ nữa, phải chăng ‘văn hoá’ đồng
nghĩa với ‘văn minh’?”
Tôi nghĩ, hai câu hỏi của giáo lý viên
này cũng là dịp để chúng ta cùng nhau tìm hiểu rõ hơn ý nghĩa của hai thuật từ
văn hoá và văn minh và các cụm từ vừa nói trên.
2. Văn hoá và
văn minh.
2. 1. Nghĩa
của các chữ văn, hoá và minh
2. 1a. Văn: có 11 chữ Hán, 文, 雯, 紋 (纹), 蚊, 蟁, 螡, 聞 (闻), 閿, 閺 (阌), 彣, 炆, ở đây là
chữ文(văn), nghĩa là dt.
(1) Chữ viết: Chung đỉnh văn (chữ khắc trên đồ đồng cổ). (2) Ngôn
ngữ: Anh văn; Hán văn; Việt
văn. (3) Văn từ, hợp nhiều chữ lại thành bài: Văn chương. (4) Cách diễn tả: Tình văn tịnh mậu (tư tưởng và văn chương đều hay).
(5) Cái dấu vết do đạo đức lễ nhạc giáo hoá mà có vẻ đẹp đẽ rõ rệt: Văn minh. (6) Văn hoa, chỉ cốt
bề ngoài cho đẹp, không chuộng đến sự thực: Phù
văn. (7) Nhà văn Trung Hoa có hai lối viết: lối bình dân gọi là bạch, và
lối cao kỳ gọi là văn (thứ này gồm cổ văn). (8) Chỉ có hình thức bên ngoài:Hư
văn. (9) Ngạch song lập với võ: Văn
quan. (10) Một số hiện tượng thiên nhiên: Thiên
văn; thuỷ văn. (11)
Đồng tiền (cổ văn): Văn tiền(tiền cục). (12) Phiên âm Brunei : Văn lai. tt. (13) Dáng vẻ thanh
tao:Văn nhân; văn nhã; văn hoả (lửa dim dim). (14) Tao nhã: Ôn văn. (15) Có ăn học: Văn nhân. đt. (16) Che đậy: Văn quá sức phi (che tội và tô cho nhẹ các điều lầm
lỡ). (17) Xăm thông với紋: Văn
thân (xăm mình).
2. 1b. Hoá: có 2 chữ, 化, 貨 (货) trường
hợp này là 化 (hoá), nghĩa là dt. (1) Dạy: Giáo hoá. (2) Tập tục dân gian: Phong hoá. (3) Trời đất hay mệnh vận: Tạo hoá. (4) Chế độ lễ nhạc: Văn minh tình thương và sự sống.
(5) Người ăn xin: Khiếu hoá tử (kẻ ăn xin). đt. (5) Tạo thành:Hoá
công. (6) Thay đổi: Thiên
biến vạn hoá (thay đổi rất
nhiều). (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá
dục. (8) Nhà Phật xin bố thí: Hoá duyên. (9) Dùng tiền: Hoá phí. (10) Đốt ra tro: Hoả hoá. (11) Biến cải:Hoá
hại vi lợi. (12) Tan biến: Hoá
vi ô hữu (biến mất tích).
(13) Giúp tiêu: Hoá thực.
(14) Giúp đổi: Hoá trang (phấn son,...); Hoá trang (bằng trang phục, diện mạo, đầu
tóc,… - cải dạng). (15) Chết: Toạ
hoá (nhà sư chết ngồi).
Nghĩa Nôm: Hoá (cũng nói vá, là tiếng goá nói trại): chết chồng hoặc chết vợ: Ở hoá.
2. 1c. Minh: có 12 chữ, 明, 鳴 (鸣), 盟, 冥, 瞑, 銘 (铭), 溟, 暝, 茗, 螟, 洺. nơi đây
là chữ 明 (minh), nghĩa là dt.
(1) Thị giác: Song mục thất
minh (hai mắt bị mù).
(2) Mắt sáng: Táng minh (mù mắt). (3) Dương thế: U minh lưỡng cách (Dương thế và âm phụ cách biệt). (4) Thần: Thần minh. (5) Tên triều đại: Nhà Minh. (6) Họ Minh. đt. (7) Sáng: Minh nguyệt. (8) Tinh sáng: Nhĩ thính mục minh (tai nghe mắt thấy). (9) Rõ ràng: Minh bạch; Minh nhất sáo, ám nhất sáo (việc úp mở). (10) Hiểu biết
rõ: Bất minh chân tướng (không rõ sự thật). (11) Tỏ rõ: Phát minh tân lý (phát minh ra lẽ mới). (12)
Thời gian tiếp theo: Minh niên (năm sau).
2. 2. Văn hoá
là gì?
2. 2a. Từ nguyên: Thuật từ văn
hoá (A, P: culture) dịch từ tiếng Latinh
là cultura, bắt nguồn từ
chữ cultus mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo
nghĩa gieo trồng ruộng đất
(cultus agri) và gieo trồng tinh thần (cultus animi), tức là sự giáo dục bồi dưỡng tâm
hồn con người. [1]
- Đa số học giả Anh, Pháp thì cho rằng văn hoá và văn
minh đồng nghĩa nhau, và cùng
chỉ một lối sống thanh lịch. Trong một cuộc hội thảo vềvăn minh, văn hoá tại Salzburg từ 8–15/10/1961, gồm rất
nhiều học giả trứ danh như Sorokin, Toynbee, Spengler, Northrop v. v. người ta
đã dùng hai thuật từ văn minh và văn
hoá lẫn lộn nhau, đồng nghĩa
với nhau. Sử gia Anh, Toynbee giải thích rằng: có sự kiện này xảy ra là vì
trong tiếng Đức, văn hoá có nghĩa là tiến bộ tinh thần; còn văn minh có nghĩa là tiến bộ vật chất, còn
trong tiếng Anh và tiếng Pháp thì không có sự phân biệt ấy, vì thế họ mới dùng
thuật từ văn minh với hai nghĩavăn hoá lẫn văn
minh [2].
- Ở Trung Quốc, thuật từ văn hoá mới có sau này [3], nhưng chữ văn đã
có từ lâu và bao hàm mọi ý nghĩa của văn
hoá. Học giả Trung Quốc, ông Trần Thế Tương (陳世驤, 1912-1971) viết: “Văn là tất cả những gì đẹp đẽ của nhân quần, là sự
sáng tạo của tinh thần, có mục đích kết hợp mọi phần tử rời rạc vô nghĩa thành
một đoàn thể có tổ chức, đổi xung đột thành hoà mục, đổi loạn thành trị, thực
hiện cái hay, cái đẹp” [4]. J. Laloup và J. Nélis cũng cho rằng: “Chữ
‘văn’ của Trung Quốc hàm ngụ tất cả công trình cải thiện con người. Nó bao quát
văn chương, đạo giáo, triết học, nghệ thuật. Tóm lại, tất cả mọi thủ đắc trên
bình diện tinh thần, ngược lại với chữ vũ, tượng trưng cho guồng máy hành chánh
và quân sự” [5]. Trong Kinh Thư [6], chữ văn hay văn
giáo đã được dùng thay vì thuật
từ văn hoá”. Theo bộ Từ
Hải [7] thì văn hoá vốn là một cách biểu thị chung của hai
khái niệm văn trị và giáo
hoá.
- Ở Việt Nam do ảnh hưởng Trung Quốc, nên
chữ văn cũng đã có tự lâu đời. Trái lại, thuật
từ văn hoá chắc chắn là một thuật từ mới được thông
dụng chưa đầy 100 năm. Các tự vị, tự điển Việt hay Pháp Việt, xuất bản trước
1918 đều không có thuật từ này.
- Tóm lại thuật từ culture đã xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 18, và
thuật từ văn hoá khoảng đầu thế kỷ 20, nhưng chỉ được
thông dụng ở bên Đông cũng như ở bên Tây, sau đệ nhất thế chiến.
2. 2b. Định nghĩa: Thuật từ văn
hoá có nội dung vừa phong phú
vừa phức tạp, thay đổi tuỳ theo quan điểm của từng tác giả. Do đó, có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về văn
hoá [8], mỗi định nghĩa phản
ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, không nhất thiết loại trừ nhau,
mà trái lại còn bổ túc và phong phú hoá cho nhau. Sau khi UNESCO - trong Tuyên
bố toàn cầu về tính đa dạng văn
hoá (năm 2002), đưa ra một
định nghĩa chung về văn hoá,
thuật từ này về căn bản đã được thống nhất.
Vậy văn hoá là gì? UNESCO định nghĩa: “Văn hoá nên được xem là tập hợp
các đặc trưng tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc riêng biệt của một xã hội
hay một nhóm người trong xã hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó bao gồm lối
sống, cách chung sống, hệ giá trị, truyền thống và đức tin”[9].
Trong định nghĩa này, chúng ta lưu ý hai
điểm: (1) vì là định nghĩa trong một tuyên bố toàn cầu, nên nó nhấn mạnh tính riêng biệt trongvăn hoá của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội. (2) Quan trọng hơn, nó đưa ra khái niệm văn hoá theo 4 mức độ khác nhau:
- Ở mức đơn giản nhất, văn hoá được xem là văn học và nghệ thuật, tức là
bao gồm các bộ môn: ca, nhạc, vũ, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, kịch trường,
điện ảnh,... Ví dụ khi ta nói: Trung
tâm văn hoá, nhà văn hoá, công tác văn hoá, tác phẩm văn hoá, đêm văn hoá,
trình diễn văn hoá, triển lãm văn hoá.
- Ở mức độ cao hơn, văn hoá còn được xem là lối sống và cách chung sống,
tức là những sinh hoạt của con người trong lãnh vực xã hội: ẩm thực, trang
phục, ngôn ngữ giao tiếp, phong tục, tập quán ứng xử,…). Ví dụ: Sống có văn hoá, ăn nói thiếu văn
hoá, phát triển văn hoá.
- Ở mức độ phức tạp hơn, đó là hệ thống các giá trị tinh thần, đạo
đức, truyền thống, đức tin, tức là những sinh hoạt của con người trong lãnh
vực tinh thần. Đó là những công trình giáo hoá của con người (hoá, cultus:
trau giồi tâm hồn, dạy dỗ, mở mang, khai hoá), những tri thức, học thuyết,
triết thuyết, giáo lý đưa dẫn suy tư của con người lên một bình diện cao hơn
đời sống vật chất hằng ngày, những tìm tòi và tin tưởng có tính cách tâm linh,
hay nói nôm na là những niềm tin tôn giáo, những tin tưởng về những gì xảy ra
trong cõi vô hình, có khả năng chi phối ngay trong và sau cuộc đời hiện tại.
Trong nghĩa này, văn hoá khác biệt với những tiến bộ
về vật chất được gọi làvăn minh. (Văn hoá gồm nghệ thuật, đạo đức, luân lý, tôn
giáo nâng con người lên trong lãnh vực tinh thần; Văn minh là những tiến bộ về kỹ thuật nhằm cải
thiện đời sống vật chất của con người). Ví dụ: Học văn hoá, trình độ văn hoá.
- Ở mức phức tạp nhất và do đó phổ quát
nhất, văn hoá được xem là tổng thể các đặc trưng tinh thần,
vật chất, trí tuệ và cảm xúc của một xã hội,... Trong nghĩa này, văn hoábao gồm cả văn minh, vìvăn hoá (hay văn
minh) chính là sự tiến bộ của con người cả về phương diện tinh thần lẫn vật
chất hầu làm cho đời sống con người được hạnh phúc hơn, phong phú hơn. Hay nói
cách khác là tiến gần tới chân, thiện, mỹ hơn. Ví dụ: Di sản văn hoá thế giới, nền văn
hoá phương Tây, nền văn hoá cổ.
2. 3. Văn
minh là gì?
2.3a. Từ
nguyên: Thuật từ văn minh (A: civilization, P:civilisation) xuất phát
từ tiếng Latin civilis, là
tĩnh từ của danh từ civis,
có nghĩa là “người thành phố” [10], tức một người sống ở thành phố và
chịu sự quản lý của pháp luật tại thành phố. Về cơ bản đó là mô hình của cuộc
sống ở Rôma và các thành phố lớn khác, trái ngược với cuộc sống ở nơi khác
trong nước, cuộc sống thành phố được coi là phát triển hơn, hoàn hảo hơn. Đó là
lý do Tom Standage [11] xem thuật ngữ văn
minh chỉ đơn giản mang nghĩa
“sống tại thành phố”, và danh từ civilitas(đô
thị) dịch nghĩa của chữ politeia (πολιτεια) trong tiếng Hi Lạp.
2. 3b. Định nghĩa: Cũng như khái niệm về văn
hoá, khái niệm về văn minh cũng chưa được thống nhất giữa các tác
giả, học giả các nước. Có hai cách hiểu thường thấy về văn minh: (1) Xem văn minh đồng nhất với văn hoá, như Olivier de La
Brosse, Antonin-Marie Henry và Philippe Rouillard [12] hay Tự Điển Hàn Lâm Viện Pháp[13];
(2) Xem văn minhlà một nền văn hoá phát triển cao. Nói cách khác, văn minh là văn
hoácủa một xã hội phức tạp, là xã hội bắt đầu sinh sống bằng nông nghiệp và
có sự định cư tại thành phố, như Từ
Điển Bách Khoa Việt Nam [14],
Từ Điển của Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam [15], hay Webster's Online Dictionary
[16]. Chúng tôi nghiêng về cách hiểu thứ hai. Vì quan niệmvăn hoá và văn
minh (trong tiếng Việt) có
nhiều yếu tố khác biệt hơn là tương đồng.
3. Tim hiều hai thuật từ này.
3. 1. Văn hoá và văn
minh giống nhau?
Người ta đã tranh luận rất nhiều về phạm
vi văn hoá với văn
minh: Đa số học giả Anh, Pháp thì cho rằng văn hoá, văn minh đồng nghĩa nhau, và cùng chỉ một
lề lối sống thanh lịch, trong khi đó số đông các học giả Đức, Mỹ thì cho rằng văn hoá, văn minh không đồng nghĩa, vì văn hoáthuộc phạm vi tinh thần; văn minh thuộc phạm vi vật chất. Người Á Đông
thường có quan niệm rằng văn
hoá cao, văn minh thấp, trái lại theo ý kiến của ít
nhiều nhà nhân chủng học thì văn
hoá thấp, văn minhcao; và một số nhà nhân
chủng học thì cho rằng văn
minh là một phần của văn hoá, còn I. Olague thì quan
niệm rằng văn hoá là phân bộ của văn minh [17].
Chúng tôi nghĩ rằng văn hoá và văn minh đều là những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử. Cả hai có liên quan
tới các lĩnh vực khác nhau của đời sống con người - nông thôn (cultus) và thành
thị (civilis) - cả hai đều mang dấu ấn của con người đối với môi trường của
mình trong nỗ lực làm cho cuộc sống của con người nhân bản hơn, nhằm tinh luyện
con người, để biến cái dở thành cái hay, cái xấu thành cái tốt, cái tầm thường
thành cái cao đại.
3. 2. Văn hoá và văn
minh khác nhau?
Theo các chuyên gia về La ngữ, hai thuật
từ văn hoá (cultura) và văn minh (civilitas) tương tự, không đồng
nghĩa. Một số nền văn hoá do không hoàn hảo hoặc mất cân
bằng đã không thể được coi là văn
minh. Ví dụ: Nếu một nền văn
hoá đề cao bạo lực, ca ngợi
đấu tranh giai cấp, hạ giá trẻ sơ sinh và phụ nữ, tràn ngập bởi thuyết bất khả
tri, thì nềnvăn hoá đó không
đáng gọi là nền văn minh. Và như cha Hervé Carrier,
một chuyên gia của Dòng Tên đã nói: "Văn minh là văn hoá, nhưng không phải tất
cả các nền văn hoá đều là nền văn minh" [18]. Trái
lại, một bộ tộc du mục nhỏ có thể được đánh giá không có văn minh, nhưng nó chắc chắn sẽ
được đánh giá là có văn hoá (theo định nghĩa là "nghệ thuật,
phong tục, thói quen, niềm tin, hành vi và lối sống").
Vì thế, mặc dù biết đây là một vấn đề
phức tạp vì có rất nhiều quan niệm khác nhau về sự phân biệt này, giống hay
khác nhau giữa văn hoávà văn minh tuỳ theo ở nội dung của hai khái niệm
mà chúng ta gán cho nó, ở một khía cạnh nào đó, chúng tôi thử phân biệt văn hoá vớivăn minh:
Văn hoá
|
Văn minh
|
1. Văn hoá là tiến bộ của con người thuộc phạm
vi tinh thần, bao hàm việc phát triển con người và nhất là về lý trí, tinh
thần.
2. Mục tiêu của văn hoá là làm cho sự việc đẹp hơn, nâng
chúng lên cao và đóng ấn chúng bằng dấu ấn linh thiêng.
Lưu ý rằng: Cái đẹp thường không để phục vụ cho một
mục đích thực tiễn, tự nó có sự biện minh riêng của nó. Do đó văn hoánhằm nuôi dưỡng,
"nâng tâm hồn lên" (sursum corda) [19].
3. Việc khai sinh ra một tác phẩm văn hoá thì tinh tế hơn, mầu nhiệm hơn và
khó có thể xác định được. Có thể gọi nó là một “đứa con" (genitum) và do
đó vănhoá mang đậm nét hữu cơ (organic).
4. Do tính linh thiêng, văn hoáphát triển trên nguyên
tắc thặng dư (superabundance), phản ảnh sự hào phóng và sung mãn của tinh
thần.
5. Nền văn hoá chân chính cho thấy con người là một
ngôi vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
6. "Mỗi khi con người dồn các cố
gắng về chính mình, ta nói tớivăn hoá" .
|
1. Văn
minh là tiến bộ thuộc phạm
vi vật chất, bao hàm việc phát triển về khía cạnh xã hội, chính trị và kỹ
thuật [20].
2. Mục
tiêu của văn minh là làm cho sự việc dễ dàng hơn,
nhanh hơn, thuận tiện hơn, thực tiễn hơn, an toàn hơn hay lành mạnh hơn.
Lưu ý rằng: Tính thực tiễn của nền văn minh trước hết là phục vụ nhu cầu thể xác
con người.
3. Việc
khai sinh ra một công trình văn
minh, kể từ khi con người có
ý định thực hiện một mục tiêu thực tiễn và bắt tay vào làm việc cho tới khi
tìm ra một giải pháp được coi như một “sản phẩm" (factum), nhằm thay thế
thiên nhiên và do đó văn
minhmang đậm nét nhân tạo (artificial).
4. Do
tính thống nhất hoá và đơn giản hoá chi phối, văn minh có mặt trái là dễ bị tinh thần bủn
xỉn (parsimony) tác động: bất cứ điều gì không tuyệt đối cần thiết đều bị
loại bỏ.
5. Nền văn minh cao cho thấy con người có bộ óc cực
kỳ phát triển.
6. "Mỗi
khi con người làm thay đổi thế giới vật chất, ta nói tớivăn minh"
[21].
|
4. "Văn
hoá sự sống" và "văn hoá sự chết"
4. 1. "Văn hoá sự sống" và
"văn hoá sự chết" là gì?
Các văn kiện của Giáo Hội luôn đề cao
chiều kích lịch sử và xã hội củavăn hoá: chính con người tạo nên văn hoá của mỗi xã hội riêng biệt [22]. Quan
điểm này được đức Gioan Phaolô II trình bày một cách hết sức rõ nét trong bài
diễn văn lịch sử đọc tại trụ sở UNESCO: “Văn hoá là một cách thế riêng biệt
để hiện hữu và để làm người. Con người luôn sống trong một nền văn hoá. Đây là nền
văn hoá riêng biệt của mỗi người, nhưng đồng thời nó lại tạo nên một mối dây
liên hệ đặc biệt giữa người với nhau, xác định tính chất liên nhân vị và xã hội
của cuộc sống nhân loại” [23].
4. 1a. Văn
hoá sự sống:
"Văn hoá sự sống" (Culture of
Life) là cụm từ thường được sử dụng trong các cuộc thảo luận về thần học luân
lý, đặc biệt trong giới Công Giáo. Cụm từ này dùng diễn tả một chân lý thần
học, đó là sự sống của con người - trong mọi giai đoạn từ lúc thụ thai cho đến
lúc chết tự nhiên - là thánh thiêng. Mặc dù theo thời gian đã có nhiều tác giả
sử dụng, nhưng chính Chân Phúc Giáo Tông Gioan Phaolô II, người đã sử dụng cụm
từ này lần đầu trong Đại Hội Giới Trẻ tại Denver (Hoa Kỳ, 1993) mà ngày nay nó
đã trở nên một diễn ngữ phổ biến. Phát biểu với các nhà báo tại sân bay quốc tế
Stapleton gần Denver , Colorado , Đức Giáo Tông đã lên án việc phá
thai và trợ tử, ngài nói: “Văn hoá sự sống là tôn trọng thiên nhiên và bảo
vệ công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Đặc biệt, nó có nghĩa là tôn trọng sự
sống con người từ giây phút đầu tiên của việc thụ thai cho đến khi kết thúc
bằng cái chết tự nhiên của nó" [24]. Ngài đã nhắc lại chủ đề này vào
tháng 4 năm 1995 trong Thông điệp Tin Mừng Sự Sống (Evangelium Vitae) [25]. Cụm
từ "văn hoá sự sống" theo giáo huấn của Chân Phúc Gioan Phaolô II bao
gồm: Việc chống lại các hoạt động phá hoại sự sống con người: Việc phá thai,
ngừa thai, triệt sản, sát nhân, tự tử, trợ tử, án tử hình, nghiên cứu tế bào
gốc hoặc phôi thai người, nhân bản vô tính, chiến tranh phi nghĩa, bạo hành, tự
đại và ích kỷ; đồng thời khuyến khích tình yêu khiết tịnh, trung tín và đức
hạnh, đời sống hôn nhân gia đình và bổn phận làm cha, làm mẹ, (cổ vũ việc hiến
nội tạng).
Tóm lại: Văn hoá sự sống là một nền văn hoá trong đó người ta
tôn trọng sự sống của con người trong mọi chiều kích: thân xác, tâm lý, xã hội,
tâm linh, tinh thần, vĩnh cửu... vì sự sống là một quà tặng của Thiên Chúa và
do đó sự sống có một ý nghĩa linh thánh.
4. 1b. Văn
hoá sự chết:
Đối lập với nền văn hoá sự sống là
"văn hoá sự chết" (Culture of Death) [26], tức là nền văn hoá (nôm na là "lối sống"):
- Bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tục hoá,
duy hưởng thụ và duy khoái lạc khiến người ta ủng hộ những cách ăn ở nghịch lại
sự sống và phẩm giá con người như cho phép "sống chung, sống thử",
đồng tính, ly dị, phá thai,... không màng đến các giá trị đạo đức nữa.
- Bị thao túng bởi não trạng duy vật,
thực dụng và vị lợi khiến người ta đánh mất tình liên đới, tổ chức xã hội dựa
trên những tiêu chuẩn của hiệu năng sản xuất, theo đó những người già, bệnh tật
và những ai bất tài bất lực không thể phục hồi là những gánh nặng không thể
chịu nỗi, sẽ bị tước quyền sống và được "chết êm dịu"! [27]
Tóm lại: Văn hoá sự chết là nền văn hoá vắng bóng ý thức về Thiên Chúa - Đấng
ban sự sống và cứu độ, và vắng bóng ý thức về con người - phẩm giá và sự sống
của con người, "đi tới chỗ phát minh và củng cố nhiều 'cơ chế tội lỗi'
thực sự chống lại sự sống" (EV 24). [28]
Nhận
xét:
Thực ra, giáo
huấn về hai "nền văn hoá" này ngoài nền tảng Thánh Kinh thì một trong
những nguồn có thể là Didache[29]. Trong đó, có những dòng này: "Có
hai con đường: Một là đường sống, hai là đường chết. Cả hai khác
nhau một trời một vực! Đây là con đường sống: Hãy kính mến
Thiên Chúa là Chúa Tạo Thành anh chị em, hãy yêu mến tha nhân như chính
mình,... hãy hãm dẹp những ước muốn xác thịt,... Ngươi chớ giết người, chớ ngoại
tình,... đừng phá thai hay giết con trẻ mới sinh,... Đàng khác, đây là con đường chết: là con
đường dữ, đầy nguyền rủa, sát nhân, dâm ô, ngoại tình, ước muốn độc ác, thông
dâm, trộm cướp,... thiếu lòng kính sợ Chúa... không biết gì về phần thưởng công
chính,... yêu thích cái hư không,... Họ không nhận ra Đấng Tạo Thành họ, họ
giết con trẻ, làm hư hỏng hình ảnh Thiên Chúa,... "
4. 2
"Văn minh tình thương" là g?
Đức Giáo Tông Phaolô VI - người đầu tiên
đã sử dụng cụm từ “nền văn minh tình thương” khi nói đến nền văn minh Kitô Giáo vào năm 1977 [30]. Sau ngài,
Chân Phúc Giáo Tông Gioan Phaolô II, đã mạnh mẽ đưa nó lên hàng đầu như một nhà
tiền phong so với khái niệm "văn hoá sự sống" [31]. Nhiều người
thường nghĩ rằng văn minh là những thành tích trên các lãnh vực
nghệ thuật, văn học, trật tự chính trị. Nhưng Đức Gioan Phaolô II cho rằng gia
đình mới là nền tảng đầu tiên của nền văn
minh theo quan niệm của Kitô
Giáo.
Đối diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích
kỷ, bạo động và chết chóc hiện nay, Giáo Hội đã kêu gọi xây dựng một “nền văn
minh tình thương” [32]. Giáo huấn xã hội của Hội Thánh đề nghị lấy tình thương
làm nguyên tắc, tiêu chuẩn và định hướng cho xã hội mới. Tình thương này có thể
gọi là “bác ái xã hội” [33] hay “bác ái chính trị” [34] và phải bao trùm toàn
thể nhân loại. Chính “tình yêu xã hội” này là phản đề của ích kỷ chủ nghĩa và
cá nhân chủ nghĩa, mặc dù không muốn tuyệt đối hoá đời sống xã hội,...
Nói đơn giản, "nền văn minh tình
thương" tập trung vào các giá trị xã hội Công giáo, những gì giúp chúng ta
yêu thương người lân cận của mình. Đặc biệt là giáo dân, chúng ta được mời gọi
để làm việc các trần thế. Chúng ta được mời gọi để thay đổi xã hội bằng cách
nâng cao đời sống gia đình và chu toàn bổn phận sinh nhai của chính mình. Chúng
ta được mời gọi để làm chứng cho đức tin. Tất cả mọi thứ chúng ta có đều do
Chúa ban cho. Mỗi tài năng được ban tặng như một món quà. Mỗi thời điểm là một
cơ hội, là dịp để thông truyền tình thương,... Về cơ bản, cách duy nhất mà
chúng ta có thể thể hiện tình yêu của mình dành cho Chúa cách tự nhiên nhất là
bằng sự phục vụ Thiên Chúa qua con người. [35]
Tất nhiên là không thể xây dựng một xã
hội nhân bản mà không có công lý. Nhưng chẳng bao giờ người ta có thể giải
quyết mọi vấn đề của cuộc sống nếu chỉ dựa vào công lý mà thôi. ĐTC Gioan
Phaolô II từng nói: "Tôi cảm thấy cần thiết phải lặp lại rằng: Để thiết
lập hoà bình thực sự trên thế giới, công lý phải được thực thi trong đức mến
viên mãn. Chắc chắn pháp luật là con đường đầu tiên dẫn đến hoà bình, và mọi
người cần phải được dạy để tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, người ta không thể
đi hết con đường này trừ khi công lý được bổ túc bởi tình thương. Công lý và
tình thương đôi khi xuất hiện trong các thế đối nghịch. Nhưng thực ra chúng chỉ
là hai mặt của một thực tại duy nhất, hai chiều kích của cuộc sống con người
cần phải được tích hợp hỗ tương. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy: Công lý thường
không thể tránh khỏi lòng hận thù, ganh ghét và kể cả bạo tàn. Tự nó, công lý
là không đủ. Thật vậy, thậm chí nó có thể phản bội chính nó, trừ khi nó được
khai mở cho rằng sức mạnh sâu sắc hơn đó là tình thương".
Chúng ta chỉ có thể làm cho xã hội nhân
bản hơn khi tình thương trở thành chuẩn mực cho đời sống xã hội. Thông điệp
“Thiên Chúa giàu lòng thương xót” đưa ra một so sánh sâu sắc như sau: Nếu công
lý “tự thân thích hợp với vai trò ‘trọng tài’ giữa người với người để phân
phối của cải một cách công bằng, thì trái lại, tình thương và chỉ duy tình
thương - bao gồm cả lòng từ tâm mà chúng ta gọi là ‘lòng thương xót’, mới có thể làm cho con người trở nên chính mình” [36]
5. Kết luận.
Văn hoá và văn
minh không đồng nghĩa với
nhau.
Các cụm từ “Văn minh tình thương”
(Civilization of Love), “Văn hoá sự sống” (Culture of Life) và “Văn hoá sự
chết” là những diễn ngữ đã được Chân Phúc Giáo Tông Gioan Phaolô II sử dụng để
trình bày học thuyết xã hội cũng như các giáo huấn về đạo đức Công Giáo. Các
văn kiện huấn quyền Hội Thánh cũng đã sử dụng đúng những diễn ngữ này.
Vì vậy, việc thay đổi cấu trúc có thể
làm giảm thế giá cũng như tác dụng truyền bá, giáo dục của các diễn ngữ mà huấn
quyền đã chủ ý sử dụng. Cụ thể, chúng ta nên lưu ý tránh sử dụng các kiểu nói
như: “Văn hoá tình thương” (Culture of Love) hay “Văn minh sự chết”
(Civilization of Death).
_____________________________________________________
Ghi chú
[1] Một nhóm giáo sư, TỪ ĐIỂN
LA-VIỆT-PHÁP, Ra Khơi, Sài Gòn, 1960: Cultus (m): (1) Sự làm ruộng, trồng trọt
(culture). (2) Giáo dục (éducation). (3) Sự thờ phụng thần minh (culte aux
dieux). (4) Sự tôn kính (égards). (5) Cách ăn mặc thời trang (vêtement,
parure). (6) Văn minh, phong tục, cách ăn ở (civilisation, moeurs, manière de
vivre).
[2] Anderle, O.F., (Ed.), THE
PROBLEMS OF CIVILIZATIONS. REPORT OF THE FIRST SYNOPSIS CONFERENCE OF THE
S.I.E.C.C. SALZBURG, 8-15 OCTOBER, 1961, pp. 5, 50-51: “If we begin now with
the rather trite and important point of terminology: the German language has
the rather useful distinction, which the English language does not have, I
think, between «Hochkultur» and «Civilisation». If I am right, in German,
«Zivilisation» has rather a depreciatory sense, meaning the mere material
apparatus of «Kultur», and Spengler has given it a rather technical meaning of
the later stage of one of these life - histories of a culture - the stage in
which the culture is in decay. In French or English, we have not the words to
make this distinction, so when, we say «civilisation», we mean a «HochKultur»,
including the later stages in which a «HochKultur» is in decay, as well as the
earlier stages, in which it is in growth”. (http://nhantu.net/BienKhaoTongQuat/VanHoaLaGi.htm).
[3] Bằng chứng là trong
DICTIONNAIRE CHINOIS-FRANÇAIS, của Séraphin Couvreur, Ho Kien Fou, Nxb. Mission
catholique, xuất bản tại Trung Quốc năm 1890, ta chưa thấy có thuật từ văn hoá.
[4] L’ORIGINALITÉ DES CULTURES,
Unesco, 1953, p. 43.
[5] J. Laloup et J. Nélis, CULTURE
ET CIVILISATION, Paris, 1957, p. 80.
[6] KINH THƯ, thiên Vũ Cống hạ,
35: “Tam bách lý quỹ văn giáo: Trong vòng ba trăm dặm phải thi hành việc
truyền bá văn hoá và giáo dục”. Thiên Đại Vũ Mô, 21: “Đế nãi đản phu văn
đức: Vua Thuấn bèn ban ra các văn hoá và đức giáo khắp mọi nơi”.
[7] Xem lại: Nhiều tác giả, TỪ HẢI
(Đài Loan), nxb. Trung Hoa, Đài Loan, 1972. Hạ Chinh Dân (chủ biên), TỪ
HẢI (Trung Quốc), nxb. Thượng Hải, Thượng Hải, 2002 (bản năm 1989).(Wikipedia).
[8] Từ 1952, A. Kroeber và C.
Kluckhohn, hai nhà nhân loại học Mỹ, đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác
nhau về văn hoá trong các công trình nổi tiếng thế
giới (Kluckhohn, Clyde & Kroeber, Alfred L., CULTURE: A CRITICAL REVIEW OF
CONCEPTS AND DEFINITIONS, Mass: The Museum, Cambridge, 1952). Với sự phát triển
của xã hội nói chung và văn
hoá học nói riêng, quan niệm
về văn hoá càng gia tăng và phong phú hơn. Các
chuyên viên ước lượng có hàng ngàn ý nghĩa khác nhauvề văn hoá.
[9] UNESCO, UNIVERSAL DECLARATION
ON CULTURAL DIVERSITY, 2002: “Culture should be regarded as the set of
distinctive spiritual, material, intellectual and emotional features of society
or a social group, and that it encompasses, in addition to art and literature,
lifestyles, ways of living together, value systems, traditions and beliefs”. (http://www.unesco.org/education/imld_2002/unversal_decla.shtml).
[10] Julien Thiriet, DICTIONARIUM
LATINO-ANNAMITICUM, S.: Ex Typo Mission ,
1868. p. 46.
[11] Tom Standage, A History of
the World in 6 Glasses, Walker
& Company, 2005, p. 25.
[12] Olivier de La Brosse &
Ntg, DICTIONNAIRE DE LA FOI CHRÉTIENNE, Cerf, Paris, 1968: “Toàn bộ những truyền thống,
tư tưởng, tục lệ, ngôn ngữ, dụng cụ, kỹ thuật của một dân tộc. Theo nghĩa này,
mọi dân tộc đều có nền văn minh của mình, cũng như có nền văn hoá của mình, hai
thuật từ này thường được dùng thay cho nhau”.
[13] Académie Française, LE
DICTIONNAIRE DE L'ACADÉMIE FRANCAISE, 9ème Edition, Paris , 2000: “ (1) Toàn bộ những hiểu biết,
tin tưởng, cơ chế, phong hoá, nghệ thuật và kỹ thuật của một xã hội. Nền văn
minh nguyên sơ. Nền văn minh Trung Quốc, Ai Cập. Nền văn minh Hy Lạp, Hy Lạp,
La Mã, Ả Rập. Nền văn minh tiền Columbus .
Nền văn minh Kitô Giáo. Nền văn minh phương Tây. Địa Trung Hải là cái nôi của
nền văn minh của Châu Âu. Nền văn minh nông nghiệp. Nền văn minh công nghiệp.
Một nền văn minh rực rỡ. Sự suy giảm, cuối cùng, tàn tích của nền văn minh. Một
nền văn minh hấp hối, biến mất. Diện tích phân bố của một nền văn minh lớn.
(2) Tình trạng phát triển về tinh thần và vật chất được coi là cao hơn và đối
nghịch với tình trạng man dã. Toàn bộ những thành tựu của nhân loại. Đạt được
một mức độ cao của nền văn minh. Mang nền văn minh để các rợ. Các giai đoạn của
nền văn minh. Sự tiến bộ của nền văn minh. (3) Hành động văn minh, văn minh
hoá. Một vị trí địa lý không thuận lợi làm trì hoãn văn minh của nước này”.
[14] Hội Đồng Quốc Gia Chỉ Đạo
Biên Soạn TĐBKVN, TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT NAM, tập 4, TĐBK, Hà Nội, 2005: “Văn
minh: Trình độ đạt được trong sự phát triển văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần của loài người trong từng giai đoạn. Chẳng hạn: VM cổ đại, tiêu biểu là sự
phát triển rực rỡ của các quốc gia Ai Cập, Lưỡng Hà, Hi lạp, La Mã,... cổ đại;
VM hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp của chủ nghĩa tư bản,...
Theo nghĩa thông thường, VM đối lập với những gì lạc hậu, dã man, phản tiến bộ,
phi nhân tính. Trong sự tiến bộ của xã hội loài người, người ta chia ra ba giai
đoạn: mông muội, dã man và văn minh. Như vậy, VM còn là một giai đoạn trong sự
phát triển nhân loại. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước thì loài người chuyển
từ giai đoạn dã man sang văn minh”.
[15] Viện Ngôn Ngữ Học, TỪ ĐIỂN
TIẾNG VIỆT, NXB. Đà Nẵng, 2005.“I. dt. Trình độ phát triển đạt đến
một mức nhất định của xã hội loài người, có nền văn hoá vật chất và tinh thần
với những đặc trưng riêng. Ví dụ: Văn minh Ai Cập, ánh sáng của văn minh, nền
văn minh của loài người. II. tt.
(1) Có những đặc trưng của văn minh, của nền văn hoá phát triển cao: Ví dụ: Một
xã hội văn minh, nếp sống văn minh. (2) (chm) Thuộc về giai đoạn phát triển thứ
ba, sau thời đại dã man, trong lịch sử xã hội loài người kể từ khi có thuật
luyện kim và chữ viết (theo phân kỳ lịch sử xã hội của L. H. Morgan): Lịch sử thời
đại văn minh”.
[16] http://www.websters-online-dictionary.org.
[17] Xem bài: VĂN HÓA LÀ GÌ? Biên
khảo của Bs. Nguyễn Văn Thọ, thuyết trình tại Trường Quốc gia Âm nhạc, Sàigòn,
1969 đăng lại trên http://nhantu.net.
[18] Cardinal Angelo Sodano, THE
CIVILIZATION OF LOVE, EVOLUTION OF CHRISTIANITY, Roma, 2003.
[19] Alice von Hildebrand,
Civilization and Culture at War, đăng trong InsideCatholic. com, ngày
25/05/2010.
[20] Jacques Maritain, RELIGION ET CULTURE, Paris , 1930, p. 13.
[21] Xem Phạm Cao Dương, NHẬP MÔN
LỊCH SỬ CÁC NỀN VĂN MINH THẾ GIỚI, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn,
1972. tr. 20- 21.
[22] Về vấn đề này, xin đọc Hội
Đồng Toà Thánh về Văn Hoá, FEDE E CULTURA, ANTOLOGIA DI TESTI DEL MAGISTERO
PONTIFICIO DA LEONE XIII A GIOVANNI PAOLO II, Vaticano, 2003.
[23] CP. Gioan Phaolô II, Diễn văn
đọc tại Unesco, 02/06/1980, trong ECCLESIA, số 1986 (14/06/1980), số 17; đăng
lại trong FEDE E CULTURA, số 1129.
[24] “The culture of life means
respect for nature and protection of God's work of creation. In a special way,
it means respect for human life from the first moment of conception until its
natural end." (Phát biểu
của Đức Gioan Phaolô II, ngày 16/08/1993).
[25] Xem http://www.vatican.va, trong thông điệp này cụm
từ "văn hoá sự sống" được sử dụng 22 lần. ["culture of
life" (Anh), "culture de la vie" (Pháp): 18 lần và "culture
of human life" (Anh), "culture de vie" (Pháp) 4 lần. Bản Latin:
"vitae cultura" 15 lần và "cultura vitae" 7 lần].
[26] Thông điệp Tin Mừng Sự Sống
sử dụng cụm từ này 12 lần.
[27] Cha Trần Mạnh Hùng đã nêu
những vấn đề này trong cuốn sách mới xuất bản: “Advancing The Culture of Death
- Euthanasia And Physician-Assisted Suicide: Phát Triển Nền Văn Hoá Sự Chết -
An Tử và Trợ Tử” (Nhà in Văn Lương, Melbourne ,
2007). Cuốn sách này là tái bản của luận án tiến sĩ về thần học luân lý của
ngài, nó cống hiến cho chúng ta một cái nhìn chi tiết về những khía cạnh trong
cuộc tranh cãi về an tử, đồng thời nó cũng đưa ra một cái nhìn tổng hợp, chính
xác và thoả đáng cho những luận cứ ủng hộ và chống lại chủ trương an tử.
[28] Xem: Fr. John A. Hardon,
S.J., "Evangelium Vitae: Spiritual Combat with the Culture of Death":
http://www.therealpresence.org/archives/Evangelization.htm.
[29] Didache còn gọi là “Giáo huấn
của 12 Tông Đồ”, được coi là cuốn sách giáo lý có sớm nhất, sau Sách Kinh
Thánh, vào khoảng đầu thế kỷ thứ II. Tác phẩm này là một phần của huấn quyền
Hội Thánh mà các Đức Giáo Tông thường trích dẫn.
[30] Trong SỨ ĐIỆP NGÀY HÒA BÌNH
THẾ GIỚI NĂM 1977 có tựa đề "NẾU MUỐN HOÀ BÌNH, HÃY BẢO VỆ SỰ SỐNG",
ĐTC Phaolô VI viết: "Hoà bình không phải là giấc mơ, không phải là ảo
tưởng hay không tưởng. Cũng không phải thứ công việc của Sisyphus. Không, hoà
bình có thể được củng cố lâu dài. Hoà bình có thể viết lên những trang sử tuyệt
vời nhất, không phải bởi sự vĩ đại của quyền lực và vinh quang mà bởi sự vĩ đại
hơn của đạo đức của nhân loại, lòng tốt của người dân, sự thịnh vượng chung và
nền văn minh chân thực: Nền văn minh của tình thương ".
[31] Xem: Gioan Phaolô II, THƯ GỬI
CÁC GIA ĐÌNH (1994), TÔNG HUẤN FAMILIARIS CONSORTIO (1981); SỨ ĐIỆP NGÀY HÒA
BÌNH THẾ GIỚI (2001, 2004)...
[32] Cf. Phaolô VI, SỨ ĐIỆP NGÀY
HOÀ BÌNH THẾ GIỚI 1977; Gioan Phaolô II, THÔNG ĐIỆP BÁCH CHU NIÊN, số 10.
[33] Thánh Tôma Aquinô, De
caritate, a. 9, c.
[34] Phaolô VI, Octogesima
adveniens, 46.
[35] Xem: Carl Anderson, A
CIVILIZATION OF LOVE: WHAT EVERY CATHOLIC CAN DO TO TRANSFORM THE WORLD, Harper
Collins, New York ,
2008.
[36] ĐTC Gioan Phaolô II, DIVES IN
MISERICORDIA, 14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét