Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước, dân tộc Việt Nam
luôn phát huy và kế thừa những truyền thống quý báu của cha ông ta, đã lập được
những chiến công vang lừng, chói lọi, viết nên những trang sử vàng của dân tộc
để hậu thế luôn tự hào và noi theo. Trong thế kỷ XX, khi nói về những chiến
thắng vĩ đại đo, trong mỗi người Việt Nam không thể không nhắc tới cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ...
Để hiểu rõ hơn tấm vóc của chiến thắng
Điện Biên Phủ, theo em cần điểm lại một số nội dung chính:
1. Bối cảnh lịch sử
Sau năm 1945, được sự hỗ
trợ của các thế lực đế quốc, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược nước ta.
Ngày 19-12-1946 với tinh thần “thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nhất tề đáp lời Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, anh dũng bước
vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống kẻ thù xâm lược.
Thực hiện đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô
sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết
sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực
dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng
ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Để cứu vãn tình thế, bước
vào Thu - Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực
và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ
đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương,
với nỗ lực cuối cùng nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự
trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng; đồng
thời chọn Điện Biên Phủ để thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với
số lượng quân lên đến trên 16.000 người và nhiều trang thiết bị vũ khí hiện
đại.
Về phía ta, tháng 9-1953,
Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân với
phương châm: Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch,
bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn
những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích,
giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Quân và
dân ta đã phối hợp với quân và dân Lào, Campuchia liên tiếp mở chiến dịch và
giành thắng lợi, đẩy địch vào tình thế bị động chiến lược.
Trước tình hình đó, ngày 06-12-1953,
Bộ Chính trị họp và nhận định Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng chỗ
yếu cơ bản của địch là bị cô lập. Về phía ta, Điện Biên Phủ là một trận công
kiên lớn nhất từ trước tới nay; diễn ra trên địa bàn rừng núi hiểm trở, đường
cơ động cho pháo khó khăn, thời gian chuẩn bị cho chiến dịch gấp. Nhưng chiến
dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa quân sự, chính trị và ngoại giao rất quan trọng;
khó khăn lớn nhất của ta là vấn đề cung cấp hậu cần nhưng chúng ta có thể khắc
phục được. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua
phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại
tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Chính phủ
quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm
Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch Bộ Chính trị và Tổng
Quân uỷ đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với
tổng quân số trên 40.000. Chấp hành quyết định của Bộ Chính trị, mọi công việc
chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương; cả nước đã tập trung sức
mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các đơn vị bộ đội
chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây
dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch; 261.451 dân công, thanh niên xung phong
bất chấp bom đạn hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
2. Diễn biến của chiến dịch
Ngày 25-01-1954, các đơn
vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, nhưng
nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp cùng với Bộ Chỉ huy chiến dịch đưa ra quyết định thay đổi phương châm tác
chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt.
Đợt 1: Từ ngày 13-3 đến 17-3-1954, quân ta đã
mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản
Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt
sống trên 2000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân
bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước
pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30-3 đến ngày 30-4-1954, quân ta
đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng
vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế
tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày
nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất,
từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20
ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện
Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình
trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Đợt 3: Từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954, quân ta
đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa
ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và
dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên
địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, quân
ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh
lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết
thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu
dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô
tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.
3. Nguyên nhân thắng lợi và ý
nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ
1. Nguyên nhân thắng
lợi: Để có được chiến thắng này, Đảng ta - đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra
đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo, kết hợp
chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc xây dựng chế độ mới... để lãnh đạo nhân dân đoàn kết, chung sức chung lòng thực hiện cuộc kháng chiến: Toàn
dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến
tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Các lực
lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực
lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm
hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Ngoài ra, được sự chi
viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì
hoà bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp,
đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo
nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đặc biệt, để có
được chiến thắng vĩ đại đó, chúng ta không thể không nhắc đến công lao to lớn
của vị Tổng Tư lệnh tối cao Đại tướng Võ Nguyên Giáp – là người có tầm tư duy
chiến lược, sáng suốt, anh minh, đã quyết định thay đổi chiến thuật vào giờ
phút chót từ đánh nhanh, tháng nhanh sang đánh chắc, thắng chắc...
2. Ý nghĩa bài học
lịch sử: Lịch sử hiện đại đã khẳng định: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một
trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh; là
chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay
đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp
định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm
dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên
bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; một nửa
nước được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập; đồng
thời góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân
loại.
Như
vậy, tính đến nay đã gần 60 năm trôi qua, đã gần trọn 01 đời người, nhân dân
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiếp tục làm nên những chiến công hiển
hách, viết tiếp bản anh hùng ca chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh lập chiến
công hiển hách như: Trận Điện Biên Phủ trên không năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí
Minh năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội...
Đối
với Việt Nam , sau gần 40 năm
xây dựng và phát triển, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều
lĩnh vực, đưa vị thế Việt Nam
ngày càng có uy tín, vai trò trên trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay tình hình
thế giới và khu vực có nhiều biến động, các nước lớn tranh giành ảnh hưởng, xu
thế hình thành thế giới đa cực ngày càng rõ sẽ tác động đến tình hình chính trị
và kinh tế thế giới; cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế ở nhiều
nước còn diễn biến phức tạp; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu
vực và nhiều nơi trên thế giới. Trong khi đó, ở trong nước thì các thế lực thù
địch gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi dụng
vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền…để can thiệp vào công việc nội bộ
nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta...
Trước tình hình đó đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải mài sắc cảnh giác, phát huy cao độ nội lực;
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh
công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; không ngừng tăng
cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và quân đội các nước;
kết hợp sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.... Để
làm được điều này, từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, theo em cần phải:
1. Trong chiến đấu chống
giặc ngoại xâm Việt Nam
đã làm nên một Điện Biên Phủ lẫy lừng, nhưng chúng ta chưa có một Điện Biên Phủ lẫy lừng trong trong phát triển kinh tế.
Muốn làm được điều này, theo em Đảng lãnh đạo cần phải đề ra giải pháp chiến
lược để giải phóng và huy động được sức mạnh tổng hợp nội lực bên trong quần
chúng nhân dân.
2. Điện Biên Phủ thắng lợi
có nhiều nguyên nhân, trong đó có 02 yếu tố chúng ta cần học lại bài học lịch
sử: Một là sự đoàn kết, đồng lòng ủng hộ của nhân dân, hai là vai trò lãnh đạo
cá nhân của vị Tổng Tư lệnh tối cao. Vậy trong tình hình hiện nay, khi thế và
lực của ta đã khác, tình hình thế giới đã có những thay đổi, thì Đảng, Nhà nước
phải đề ra được các quyết sách phù hợp với thực tiễn, vì nhân dân, phải được
nhân dân đồng tình ủng hộ; đồng thời phải lựa chọn nhân sự có đủ tài và đức, đủ
bản lĩnh, trí tuệ để dẫn dắt dân tộc chiến đấu trong mặt trận chống đói nghèo,
lạc hậu...
3. Điện Biên Phủ đã làm nên
một dấu ấn Việt
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét