Hà Xuân Nguyên
Theo số liệu thống kê, toàn
Tây nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk,
Lâm Đồng, Đăk Nông) hiện nay có 60 đơn vị hành chính cấp huyện (04 thành
phố, 05 thị xã và 51 huyện), 715 đơn vị hành chính cấp xã (75 phường, 48
thị trấn và 592 xã) và 7.186 thôn, làng, trong đó có 2.525 thôn, làng đồng
bào các dân tộc thiểu số(0).
Tại các làng, ngoài đại
diện của làng(1) (già làng, trưởng làng)
còn có đại diện của đảng (Bí thư Chi bộ, nếu có đảng viên), chính quyền
(thôn trưởng, thôn phó) và các tổ chức đoàn thể (mặt trận, phụ nữ,
thanh niên, cựu chiến binh, nông dân) được hợp thành ví như “một cấp hành
chính” hay là những người có uy tín nhất ở cơ sở. Riêng đối với thôn, làng có
đạo, ngoài thành phần trên, còn có các chức sắc, chức việc tôn giáo.
Thực
hiện Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 06-12-2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban
hành kèm theo quy chế về tổ chức, hoạt động của thôn và tổ dân phố, hầu hết các
địa phương ở Tây nguyên trong quá trình triển khai tuy có vận dụng, bổ sung
thêm một vài tiêu chí về nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của trưởng thôn theo
hướng không kiêm nhiệm(2) nên có
nơi già làng và trưởng thôn riêng biệt, có nơi là một. Già làng hiện nay không
có phụ cấp (ngoại trừ việc được chính quyền tạo điều kiện cho đi tham quan),
còn trưởng thôn có phụ cấp (mức phụ cấp tuỳ theo điều kiện mỗi địa phương).
Từ tình hình thực tế trên, tôi muốn đề nghị các cấp
có thẩm quyền xem xét: Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Tây nguyên hiện nay nên quy định già làng kiêm trưởng thôn.
Để có cơ sở minh chứng cho đề nghị trên, bài viết
này đề cập đến các vấn đề:
1. Đặc điểm của làng trong đồng bào dân tộc
thiểu số ở Tây nguyên
Trước đây, làng truyền thống của đồng bào
dân tộc cơ bản thuần nhất về thành phần tộc người (việc thu nhận thêm thành
viên đến cư trú chỉ xảy ra với các trường hợp cá nhân hay gia đình có sẵn người
thân ở làng mà họ muốn nhập cư, hoặc đó là dâu, rễ của làng). Mỗi làng có
tên gọi riêng. Tên làng thường trùng với tên địa danh hoặc gọi theo tên người
hay dòng họ cụ thể đáng ghi nhớ, hoặc thể hiện đặc điểm nơi cư trú hay lập
làng.
Trong làng người dân đều sống theo nếp tự
quản, có Trưởng làng quản lý chung. Trưởng làng là người già, nên thường được
mệnh danh là “Già làng” và nhân vật này cũng cần phải có một số ưu thế khác người:
Hoạt bát, am hiểu về phong tục tập quán, giàu kinh nghiệm... Trên cương vị của
mình, Trưởng làng quán xuyến đời sống mọi mặt trong cộng đồng, chi phối cuộc
sống của làng cả về dân sự lẫn quân sự, cả đối nội lẫn đối ngoại, cả trong sinh
hoạt kinh tế lẫn sinh hoạt cộng đồng. Ngoài ra, khi nói đến bộ máy tự quản, người
ta phải kể đến các bô lão, các thầy cúng, những người giỏi về các hoạt động tín
ngưỡng, giỏi về chỉ huy quân sự thời còn “chiến tranh làng”....
Mặt khác, trong quan hệ xã hội của làng chế độ
tự quản vận hành trên cơ sở luật tục. Đó là những quy ước, quy tắc xã hội chỉ
dẫn cách đối nhân xử thế, xác định hành vi tội phạm theo truyền thống văn hóa
của cư dân, xác lập hệ thống tôn ti trật tự, chế định các mối quan hệ xã hội.
Luật tục không chỉ có giá trị khi phân xử mà còn là “kim chỉ nam” khuyên răn, hướng
dẫn nhằm làm cho mọi người sống đúng theo tập tục truyền thống của cha ông mình.
Mỗi làng tập hợp nhiều dòng họ, cá nhân, gia
đình trong mối quan hệ thân thuộc nhất định. Giữa các dòng họ ngoài quan hệ
cộng đồng cư trú còn quan hệ hôn nhân với nhau, tạo nên sự liên kết bà con rộng
rãi. Người cùng dòng họ thường ở quây quần bên nhau, có khi tụ tập thành nhóm cư
trú trong làng.
Như
vậy, làng là một thiết chế xã hội truyền thống bền vững, là điểm tự tinh thần
cho mỗi cá nhân. Làng ngày xưa và làng ngày nay vẫn không có gì thay đổi mấy cả
về nội dung và hình thức, vẫn còn chứa đựng nhiều yếu tố mang tính lịch sử, văn
hoá, truyền thống… của một tộc người. Hiểu rõ đặc điểm này sẽ giúp chúng ta lý
giải một phần nào những vấn đề mà xã hội đương đại ngày nay đặt ra để góp phần
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước ở cơ sở.
2. Những quy định về trưởng thôn
Theo
quy định của pháp luật hiện hành, để được bầu làm trưởng thôn thì người đó phải
có hộ khẩu và cư trú thường xuyên ở thôn, đủ 21 tuổi trở lên, có sức khoẻ,
nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm trong công tác, đạo đức và tư cách tốt, được
nhân dân tín nhiệm, bản thân và gia đình gương mẫu, có năng lực và phương
pháp vận động, tổ chức nhân dân thực hiện tốt các công việc của cộng đồng và
của cấp trên giao(3).
Trong
những quy định trên, tôi cho rằng tiêu chí được nhân dân tín nhiệm là cơ
bản, quan trọng nhất. Điều này không chỉ đúng với làng (thôn, tổ dân phố)
người kinh và càng đúng hơn, có ý nghĩa hơn đối với vùng đồng bào dân tộc. Bởi
vì, nếu ai được tín nhiệm chứng tỏ người ấy thật sự có uy tín trong cộng đồng,
nên việc tập hợp, động viên quần chúng trong làng cùng làm việc gì đó sẽ rất
thuận lợi. Do vậy, nhiệm vụ của các cấp chính quyền là làm sao để trưởng thôn
trở thành biểu tượng của sự đoàn kết, đồng thuận cao trong làng mới là mục tiêu
lý tưởng(4).
Thế
thì khi đặt ra quy định già làng làm
trưởng thôn sẽ có những mặt gì được, mặt gì chưa được cần làm rõ để thống
nhất nhận thức và hành động ?
Theo
tôi, những mặt được cơ bản nổi lên trước hết đó là:
Thứ nhất,
sẽ tranh thủ được sự ủng hộ của già làng - điều này cũng có nghĩa là đã lôi kéo
được quần chúng trong làng.
Thứ hai, chuyển chế độ trợ cấp trưởng thôn
cho già làng hưởng (tuy không nhiều) có điều kiện động viên già làng tích cực
tham gia công tác xã hội, đồng thời giảm bớt một đầu mối ở cấp cơ sở. Điều này
phù hợp với chủ trương cải cách mà chúng ta đang thực hiện.
Thứ ba, để
già làng làm trưởng thôn là bước đi sáng tạo của chính quyền cơ sở trong việc
vận dụng chỉ đạo của Trung ương vào thực tế địa phương (chứ không phải việc
làm đó là vi phạm pháp luật, không chấp hành quy định cấp trên). Vấn đề này
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tế, hợp với quy luật và đặc điểm vùng
đồng bào dân tộc thiểu số Tây nguyên hiện nay.
Thứ tư,
quy định già làng làm trưởng thôn cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đang tôn
vinh vai trò già làng, tạo tiền đề trong việc tiếp tục bảo lưu, phát huy các
giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp từng dân tộc cho phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện mới, vừa tạo lập một cơ chế đề kháng hiệu quả chống lại các lai căn
văn hoá không lành mạnh bên ngoài tác động.
Thứ năm, về vấn đề kinh phí. Nếu tổ chức họp
dân bầu trưởng thôn thì mất nhiều thời gian và ngân sách chi cho công việc này
sẽ không nhỏ, nếu tính chung cho toàn Tây nguyên thì mức thấp nhất cũng trên
2,5 tỷ đồng(5). Ngược lại, quy định già
làng làm trưởng thôn thì nhà nước chẳng tốn kém gì. Bài toàn kinh tế đã đặt
ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ để có cách lựa chọn thích hợp.
Tuy nhiên, bên
cạnh mặt được đã nêu, quy định này cũng có mặt trái cần nêu ra để thảo luận,
phân tích, trao đổi một cách thẳng thắn, dân chủ, đó là:
Một, hiện
nay có một số già làng tuổi quá cao, sức yếu, không có trình độ, nếu “cơ cấu”
vào làm trưởng thôn sẽ gặp không ít khó khăn. Đối với trường hợp này chính
quyền cơ sở cần linh động, không máy móc, cứng nhắc, tức là xem xét, lựa chọn
vị kế nhiệm già làng tương lai để trao cho chức vụ trưởng thôn.
Hai, thực
tế nhiều làng có nhiều tộc người sinh sống, có thể mỗi tộc người theo một tôn
giáo, già làng cũng theo một tôn giáo nhất định nào đó. Vậy, khi đảm nhận thêm
chức vụ trưởng thôn liệu già làng có sự thiêng lệch chăng ? Theo tôi, vấn đề
này cũng không quá lo lắng. Bởi trưởng thôn chỉ là người truyền đạt, thực thi
nhiệm vụ của cấp trên giao phó, nên cấp trên sẽ giám sát. Hơn thế nữa, có thể
trưởng thôn vi phạm pháp luật thì hậu quả xảy ra chỉ trong phạm vi một làng.
Nhưng bằng kinh nghiệm thực tế, tôi tin rằng dù theo tôn giáo nào, dù đại diện
cho tộc người nào, đã là công dân hay tín đồ trong một làng thì ý thức về vai
trò trách nhiệm đối với già làng vẫn không thay đổi.
Ba, hiện nay nhiều nơi trong một làng (làng
ở đây được hiểu là ngang với cấp thôn, tổ dân phố) còn có thêm nhiều làng
nhỏ nữa (ít nhất là 02 làng nhỏ), như vậy có xảy ra mâu thuẫn khi để già
làng làng này nhân danh trưởng thôn qua lãnh đạo già làng làng khác không -
nhất là khi 02 làng không cùng tộc người, tôn giáo ? Điều này có thể xảy ra,
nhưng thực tế số làng có đặc điểm ngoại lệ này rất ít. Nếu có, thì giải quyết
bằng cách để dân tự chọn trưởng thôn hoặc đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết
định thành lập thêm thôn, làng mới (nếu
đủ điều kiện).
Bốn, có ý
kiến nêu rằng, hiện nay nhiều làng không có già làng thì lấy ai làm trưởng
thôn. Tôi cho rằng đây là ngộ nhận. Bởi vì, đã là làng của người dân tộc đều có
già làng (như đã phân tích ở phần 1),
thậm chí có dân tộc còn có cả hội đồng già làng. Sở dĩ chính quyền “không thấy”
già làng là do không sâu sát cơ sở, không biết phát huy được tác dụng của già
làng đối với xã hội, nên không quan tâm. Mặt khác, trong vùng có đạo vai trò
già làng ít được đề cao hơn vai trò của những chức sắc, chức việc tôn giáo. Như
vậy, hướng giải quyết tốt nhất cho tình huống này là để dân và tín đồ cùng lựa
chọn.
Tóm
tại, vấn đề nêu ra không mới, song rất thực tế, rất mong các cấp, các ngành có
trách nhiệm liên quan xem xét./.
(0) Số liệu của Ban
Chỉ đạo Tây nguyên thống kê tháng 12-2008
(1) Ở đây hiểu rằng
thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố là một cấp ngang bằng nhau
(2)
Thực ra có nhiều nơi già làng làm thôn trưởng, nhưng sự kiêm nhiệm này không
phải do luật định mà do dân bầu.
(3)
Điều 11 quy định về tiêu chuẩn Trưởng thôn tại Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV
ngày 06-12-2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy chế tổ chức và hoạt động
của thôn và tổ dân phố.
(4)
Còn tiêu chí trưởng thôn phải có hộ khẩu, sức khoẻ, nhiệt tình, đạo đức và
tư cách tốt… đó là điều kiện đủ bổ sung. Thực tế chẳng người dân nào đi
giới thiệu và bầu đại diện cho cộng đồng mình mà cư trú ở nơi khác hay bầu người
chưa đủ tuổi thành niên cả !.
(5)
Giả sử tổng các chi phí cấp cho một làng khi tổ chức bầu trưởng thôn với mức
100.000 đồng/làng, như vậy toàn Tây nguyên phải cần đến số tiền là: 2.525
làng x 100.000 đ/làng = 2.525.000.000đ.
Song trên thực tế, con số trên gấẩntên 05 lần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét