Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 2, 1991.
Trần Đức Thảo
Gần đây có một tài liệu nhan đề "Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ",
trong ấy tác giả chủ trương "giải bài toán lôgích xã hội" của ta hiện
nay.
Nói "toán lôgích" thì có nghĩa
rằng tác giả coi vấn đề xã hội như thuộc lĩnh vực của lôgích toán pháp, là hình
thái phát triển của lôgích siêu hình máy móc. Nói một cách khác, ngay trên nhan
đề đi vào vấn đề xã hội, tác giả bài "Dắt tay nhau" đã không kể gì
đến lôgích biện chứng lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nội dung vấn đề xã hội là sự vận động lịch sử của xã hội,
một vận động cực kỳ phức tạp xuất phát từ sự liên hệ toàn diện của lịch sử ấy
ngày càng chặt chẽ. Dĩ nhiên ở đây phương pháp siêu hình, phân tích cục bộ, vẫn
là điểm xuất phát cần thiết để phân định từng đoạn. Nhưng ngay sau đấy, phải vận dụng
phép biện chứng duy vật, để đặt vấn đề trong sự liên hệ toàn diện, thì mới
hiểu được cái định hướng của mỗi giai đoạn lịch sử trong toàn bộ lịch sử giống
người.
Thiên nhiên cũng có lịch sử của nó, đưa
tới lịch sử xã hội và con người trong hệ thống lịch sử thế giới, là vật chất vô
hạn đương vận động. Nhưng trong vũ trụ vô tận, kể cả trái đất, nhịp độ tiến hoá
của những thiên thể và sinh vật là chậm hơn nhiều, so với cái mật độ chuyển
biến luôn luôn liên tục và gián đoạn của xã hội và con người.
Lịch sử xã hội và con người mới có 3 triệu
năm trên hành tinh chúng ta, mà càng ngày càng đầy những sự kiện phức tạp, liên
hệ thành hệ thống và phân hệ tế nhị và đi sâu. Mỗi xã hội, mỗi tập đoàn, mỗi
con người cá nhân là một hệ thống trong bản thân nó, đồng thời là một phân hệ
trong lịch sử giống người. Mỗi hệ thống hay phân hệ thì từng lát thời gian là
liên hệ toàn diện và luôn luôn tự tái tạo trong bản thân mình. Theo như thế thì
rõ ràng mỗi hệ thống hay phân hệ lịch sử tự biểu hiện trong bản thân nó: nó tồn
tại và đồng thời không tồn tại; nó là bản thân nó và đồng thời là cái khác. [1]
Như thế là ngay trong mỗi lát hiện tại của nó, do nó liên hệ toàn diện trong
bản thân nó và với những cái khác, nên tự
nó vận động. Tức là một mặt
thì nó biến mất về phía dĩ vãng: nó
tồn tại và đồng thời không tồn tại; và cũng do đấy, thì, trong cùng cái lát
hiện tại ấy, nó chuyển về phía tương lai: nó
là bản thân nó và đồng thời là cái khác. Cả ba mặt của sự vận động trong
mỗi chốc lát, là biểu hiện hai mặt mâu thuẫn giữa cái hiện thời với cái quá thời đi cùng với nhau, và đồng thời giữa
cái tiến tới với cái hiện thời đi đôi với nhau, tạo nên sự thống
nhất và đấu tranh giữa hai mặt mâu thuẫn của mỗi lát hiện tại.
Đấy là nguyên lý biện chứng phổ cập của sự
liên hệ hỗ tác, mâu thuẫn và vận động toàn diện của hệ thống thế giới, là vật
chất vô hạn đương vận động, và của mỗi phân hệ hay hệ thống cục bộ trong ấy,
tức là mỗi sự vật. Nguyên lý như thế dĩ nhiên biểu hiện rõ ràng nhất trong lịch
sử xã hội và con người.
Đồng thời nó cũng biểu hiện, dù ít rõ hơn,
trong lịch sử thiên nhiên, vì quá trình tiến hoá của những khối lý hoá sinh vẫn
là liên hệ toàn diện, dù chậm hơn và thưa hơn.
Tức là tính chất biện chứng của những quá
trình thiên nhiên là có thật, nhưng không được rõ ràng trước mắt – như ngày xưa
người ta tưởng rằng những thiên thể và đường đi của chúng trên trời là vĩnh
cửu. Nói một cách khác: những khối vật chất lý hoá sinh trong điều kiện quan
sát bình thường của chúng ta, có thể được quan niệm gần đúng như tách rời nhau và đặt ra khỏi sự
liên hệ hỗ tác toàn diện, coi như đứng ngoài sự mâu thuẫn vận động phổ cập. Đấy
là quan điểm siêu hình máy móc được vận dụng bình thường trong khoa học tự
nhiên. Phép siêu hình máy móc đạt trình độ cao nhất của nó, khi giải những
"bài toán lôgích" theo lôgích toán pháp.
Dĩ nhiên, làm như thế trong các khoa học
tự nhiên là đúng, nhưng cũng chỉ có kết quả cục bộ. Những kết quả cục bộ ấy đã
mang lại uy tín to lớn cho lôgích toán pháp. Nhưng khi tình hình nghiên cứu
buộc phải đi sâu vào những quan hệ phức tạp, nan giải giữa các lĩnh vực chuyên môn, khi có nhu
cầu tổng kết kinh nghiệm về thế giới vật chất, thì chính lô gích toán pháp đưa
đến bế tắc, vì nó chỉ thấy những ngọn cây trước mắt, nó không thấy cái rừng
đằng sau [2] . Ở đây, phép biện chứng duy vật là
cần thiết, để liên hệ hợp lý những lĩnh vực căn bản khác nhau của vật chất,
thống nhất quan điểm phương pháp luận, xây dựng thế giới quan khoa học bao hàm
sự tiến hoá chung của vật chất vô hạn trong toàn diện lịch sử vũ trụ.
Tuy nhiên trong khoa học tự nhiên, với
những điều kiện nghiên cứu bình thường, thì phép siêu hình, lôgích toán pháp
vẫn là đủ để thực hiện mục đích nhận thức trước mắt. Không cần thiết mỗi lúc
phải đi xa hơn. Vì cái nhịp độ tiến hoá của những khối vật chất trong thiên
nhiên là chậm hơn nhiều so với xã hội và con người. Tức là có thể tạm thời coi
những khối lý hoá sinh như những sự vật ở trạng thái tĩnh, những hệ thống bất
biến về chất lượng.
Nhưng khi chuyển vấn đề xã hội và con
người, thì thấy tốc độ tiến hoá tăng vọt, do vai trò ngày càng phát triển của
lao động sản xuất, liên hệ xã hội hình thành trong sự sản xuất, tiếng nói của
đời sống thực tế và tiếng nói bên trong, hoạt động tâm thần nhân cách và quan
hệ xã hội hình thành. Sự vận động lịch sử xã hội và con người biểu lộ trước mắt
cái bản chất biện chứng của nó. Do đấy mà mỗi lát thời gian thể hiện rõ ràng là
tồn tại và đồng thời không tồn tại, nó là bản thân nó và đồng thời là cái khác.
Dĩ nhiên ở đây, phép siêu hình, tức là
lôgích hình thức, vẫn là cần thiết bước đầu, để ghi chép những hiện tượng đơn
giản như dân số, năng suất, hàng hoá, v.v., xác lập thống kê, xây dựng những mô
hình trừu tượng. Nhưng muốn nắm được sự vận động thực sự của xã hội và con
người, thì phải tiến lên lôgích biện chứng duy vật, tức là phân tích sự liên hệ
mâu thuẫn hướng tới toàn diện, nó là động cơ quyết định sự chuyển biến lịch sử.
Tức là phép siêu hình chỉ là bước đầu, có tính chất dự bị. Muốn nhận định hiện
thực xã hội và con người có thật, thì phải đi xa hơn những hiện tượng cục bộ,
đi sâu vào cả cái hệ thống mâu thuẫn lịch sử quyết định sự vận động thực sự của
đời sống xã hội và con người.
Tức là ở đây, chính sự mâu thuẫn biểu hiện
rõ ràng là bản chất và động cơ của sự chuyển biến của cả hệ thống và của mỗi
phân hệ, luôn luôn là tồn tại đồng thời không tồn tại, là bản thân nó và đồng
thời là cái khác.
Nhưng tác giả bài "Dắt tay nhau"
say sưa với phép siêu hình máy móc quen thuộc trong khoa học tự nhiên, lại cho
rằng cả trong vấn đề xã hội thì cũng cứ phải loại trừ mâu thuẫn, coi mâu thuẫn
theo quan điểm siêu hình, lôgích hình thức, như cái gì là "nghịch
lý", không thể nào dung túng được.
Như thế là tác giả bài "Dắt tay
nhau" ra sức nêu lên cả một loạt gọi là "nghịch lý". Ông nói:
"Hệ thống này chứa đựng quá nhiều 'nghịch lý’, nếu chưa muốn nói là cấu
thành bởi toàn những 'nghịch lý’. Ví dụ như nói là 'dân chủ’ mà lại thiếu 'dân
chủ’; nói là duy vật mà lại duy ý chí; đề cao những giá trị tinh thần, mà lại
xuống cấp đạo đức; lấy năng suất lao động làm nhân tố quyết định, mà lại thua
năng suất của xã hội tư sản; v.v."
Dĩ nhiên những mâu thuẫn như thế là có
trong xã hội xã hội chủ nghĩa của ta, và còn có nhiều hơn nữa. Nhưng chính đấy là động cơ của
đường lối đổi mới của Đảng và
nhân dân.
Tình hình mâu thuẫn sinh ra những đòi hỏi
và thế lực đổi mới. Đấy là sự vận động biện chứng của bản thân hệ thống và phân
hệ, cái lý tính biện chứng của sự mâu thuẫn.
Sai lầm cơ bản của bài "Dắt tay
nhau" là chỉ nhìn thấy các mâu thuẫn của xã hội ta ở trạng thái tĩnh,
không trông thấy hoạt động giải quyết mâu thuẫn của Đảng và nhân dân, kiên
quyết thực hiện đổi mới trong điều kiện ổn định chính trị. Do đấy mà tác giả
chỉ hình dung toàn những sự đối lập xoay tròn, biến thành những "nghịch
lý" theo lối siêu hình mày móc, tức là cứ diễn cái mặt tiêu cực của chúng,
mà coi như không có lối thoát trong chủ nghĩa xã hội.
Nói "quá nhiều nghịch lý", thậm
chí là "toàn những nghịch lý", thì theo quan điểm của tác giả chỉ còn
một cách là xoá bỏ tất cả. Thế là ông đòi "xem lại một số luận điểm cơ
bản". Bài "Dắt tay nhau" nói: “Chủ nghĩa đế quốc có thật là
'giai đoạn tột cùng’ hay chỉ là 'một trong những bước đầu của chủ nghĩa tư bản.
Và khi chủ nghĩa tư bản chưa ở giai đoạn tất yếu phải cáo chung thì cũng có
nghĩa là lịch sử chưa đòi hỏi và chưa tạo tiền đề cho một cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa đích thực".
Đặt vấn đề như thế thì tự nhiên gợi ý rằng
cách mạng ta là đi quá sớm cả một giai đoạn, thậm chí cả một thời đại lịch sử,
không có tiền đề để thành công. Ở đây, cần phải quan niệm và giải quyết vấn đề
trên cơ sở hoàn toàn khoa học. Không bắt ép, nhưng cũng không hời hợt. Không
phải từ những khó khăn trước mắt, mà đã có đủ lý do, để đảo lộn cả quan điểm
lịch sử, đưa đến những luận quả giả tạo không thể lường được.
Trước hết cần phải xác định thế nào là giai đoạn tột cùng và thế nào là một trong những bước đầu của một hình thể kinh tế xã hội, tức làcủa một thời đại của lịch sử giống người.
Trong bài "Một số vần đề cần phát
triển trong triết học Mác-Lê-nin" (Tạp chí Cộng sản số 11 và 12- 1989), tôi đã giới
thiệu quy luật tiến hoá của một hệ thống lịch sử theo các nhà kinh điển, đặc
biệt Lê-nin trong Bút ký triết
học. Những quan điểm của Mác,
Ăng-ghen và Lê-nin được kiểm nghiệm trong tất cả lịch sử giống người.
*
Lao
động sản xuất ở thời Người khéo (Homo habilis) là cái trung giới tiến nhảy vọt từ cái tập đoàn kế thừa của Khỉ Nam
Phi lên hình thái đầu tiên của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tức là cái cộng
đồng địa phương riêng lẻ, gồm vài chục Người khéo cùng làm, cùng ăn, chia đều,
bình quân. Đấy là cái xã hội
cộng sản nguyên thuỷ thực
tại, trong ấy mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là sự sản xuất tập thể nhỏ đi cùng
với sự phân phối bình quân và một bên là con người cá nhân với cái di sản sinh
vật đi cùng với cái di sản tập đoàn động vật của nó, đã được giải quyết trong
sự sinh nở của tiếng nói, năng lượng tâm thần và quan hệ xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Cái mâu thuẫn được giải
quyết như thế thì chính là cái cấu trúc thống trị, tức là
bản chất xã hội và con người ở thời khởi nguyên.
Từ đấy
xuất hiện mâu thuẫn thứ hai giữa cái cấu trúc đoàn kết bình đẳng,
là cấu trúc thống trị, với tình trạng tản mạn của toàn bộ hệ thống xã hội cộng
sản nguyên thuỷ, do các cộng đồng địa phương tách rời nhau và có khi đánh nhau.
Mâu
thuẫn cơ bản là mâu thuẫn đã được giải quyết trong cái cấu trúc thống trị. Mâu
thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa cái cấu trúc thống trị với tình trạng tách rời
của những cộng đồng địa phương với nhau, - tình trạng tách rời như thế là di
sản dĩ vãng của các tập đoàn động vật cô lập đối với nhau.
Đến
cuối thời Người khéo, những cộng đồng địa phương riêng lẻ tăng cường sản xuất,
do đấy thì cũng tăng cường liên hệ với nhau, trong ấy có chiến tranh với nhau.
Sự liên hệ là cái trung giới đưa đến những đội cộng đồng láng giềng
hợp tác bình thường với nhau ở cuối thời acheuléen (Người thẳng). Đây là cái xã
hội cộng sản nguyên thuỷ ở thời
kỳ tồn tại cho cái khác, tức là mỗi cộng đồng địa phương liên quan với một
cộng đồng khác, ví dụ như để cùng nhau tiến hành những cuộc săn lớn, như săn
voi.
Cái
quan hệ hợp tác phát triển thành quan hệ ngoại hôn là cái trung giới đưa xã hội cộng đồng địa phương lên
thành tiền bộ lạc gồm hai tộc mẫu quyền kết hôn với nhau, ở thời đồ đá cũ giữa
(Người khôn neandertal).
Đến
thời Người khôn khôn (Homo sapiens sapiens), thời đồ đá cũ trên, thì mỗi tộc
chị em lại chia thành hai thị tộc tạo nên cái bộ lạc sơ kỳ gồm 4 thị tộc mẫu
quyền.
Trong
xã hội tiền bộ lạc và bộ lạc, thì cái quan
hệ tồn tại-cho-cái khác trở
lại bản thân nó, tức là nó trở thành tồn
tại-cho-bản thân.
Trong
mỗi thị tộc mẫu quyền, những chú rể là đại diện cho những thị tộc thông gia, và
bản thân cái thị tộc ấy lại gửi con trai của mình vào những thị tộc kia. Tức là
mỗi thị tộc trong sự tồn
tại-cho-cái khác (gửi con
trai sang bên kia làm rể) thì lại có cái khác trong bản thân nó, tức là nó có
con trai bên kia sang làm rể bên này, trong bản thân nó.
Như
thế là nó là bản thân nó trong
cái khác, và trong cái khác nó lại trở lại bản thân nó. Kết quả là cái bộ
lạc nhận thấy nó trong các thị tộc và mỗi thị tộc nhận thấy mình trong cái bộ
lạc: thế là tồn tại- cho-bản
thân.
Như
thế là với cái bộ lạc sơ kỳ, phát triển đại khái từ thời đồ đá cũ trên đến phần
đầu thời đồ đá mới, xã hội cộng sản nguyên thuỷ hoàn thành chất lượng cơ bản, tức là bản chất của nó. Thông qua
ba bước đi hay thời kỳ biện chứng – thực tại: tồn tại-cho-cái khác; tồn
tại-cho-bản thân, – nó đã phát triển trong sự vận động của những cộng đồng địa
phương riêng lẻ liên hệ với nhau thành cái hệ thống chung của cái bộ lạc. Và dĩ
nhiên cái hệ thống chung này chỉ có thể có trong và thông qua những phân hệ
riêng của nó, là những thị tộc, liên hệ vận động với nhau.
Ba
bước đi hay ba thời kỳ đầu như thế là giai
đoạn đầu, hoàn thành bản
chất của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Tức là cái cấu trúc quan hệ công bằng, bình đẳng, thân ái trong nội bộ
mỗi cộng đồng địa phương được mở rộng và tái tạo giữa các cộng đồng địa phương
trên quy mô bộ lạc, dưới một hình thái mới, là hình thái trao đổi thăng bằng:
trao đổi quà và thanh niên (trao đổi con trai giữa các thị tộc mẫu quyền và sau
này là trao đổi con gái giữa các thị tộc phụ quyền). Sự trao đổi ngang bằng
tiến hành giữa “tao” với “mày” có “nó” chứng kiến. Cái “nó” chính là tượng
trưng cho cả bộ lạc. Đây là nội dung cơ bản của những lễ hội họp thường kỳ của
bộ lạc: tồn tại-cho-bản thân.
Giai
đoạn đầu, tức là giai đoạn
hoàn thành bản chất của xã
hội cộng sản nguyên thuỷ kết thúc, khi sự tiến bộ của kỹ thuật đồ đá mới bước
đầu đi vào cải tiến, làm cho sự trao đổi quà chuyển lên thành trao đổi hàng hoá
đơn giản.
Chiến
tranh trở thành quan hệ bình thường, phát triển liên miên giữa các bộ lạc và
chỉ chấm dứt khi có hiệp ước; những hiệp ước này tiến tới cái liên bang bộ lạc
về thực chất cũng là một tổ chức chiến tranh.
Ở đây
rõ ràng sự phát triển của sức sản xuất đã vượt
ra khỏi khuôn khổ của cái bộ
lạc riêng lẻ. Sự trao đổi hàng hoá đơn giản là cái trung giới đưa vào giai đoạn thứ hai của sự tiến
hoá của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tức là giai
đoạn phát triển số lượng đặc thù của
nó, tức là phát triển năng suất lao động bắt đầu từ kỹ thuật đồ đá mới cải tiến.
Thời
kỳ đầu của giai đoạn thứ hai này, mở đầu bằng sự trao đổi (đổi chác) hàng hoá
đơn giản, là thời kỳ phát triển đại
lượng của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ. Nói đại lượng thì có nghĩa rằng năng suất lao động đã vượt ra khỏi
khuôn khổ của những quan hệ cùng làm cùng ăn trong một cộng đồng thị tộc vài
chục người và tiêu thụ sản phẩm thừa bằng những sự trao đổi quà giữa những thị
tộc của bộ lạc. Bây giờ, cái sản phẩm thừa được tiêu thụ thông qua chiến tranh
cướp bóc kết thúc bằng đổi chác. Tức là thời kỳ phát triển đại lượng của xã hội cộng sản nguyên thuỷ đồng
thời cũng là một thời kỳ đại
khủng hoảng của xã hội ấy, do
chiến tranh liên miên làm suy yếu cái cấu trúc bộ lạc. Những người Ấn Da đỏ ở
Bắc Mỹ đứng ở thời kỳ ấy, khi được phát hiện. Ở đây đã xuất hiện sự phân chia
giai cấp: chiến tranh đi đôi với sự phát triển của sức sản xuấtt tạo nên một
bên là giai cấp nô lệ, một bên là giai cấp quý tộc bộ lạc lãnh đạo chiến đấu và
đổi chác, và bóc lột nô lệ.
Đáng
chú ý là ngay ở thời kỳ đại
khủng hoảng này đã có một số ít trường hợp tiến thẳng lên xã hội văn minh cổ đại,
tuy còn xa mới thực hiện được những điều kiện kỹ thuật bình thường cần thiết.
Ở đất
Cận Đông, thiên niên kỷ VIII trước Công nguyên, trong thời kỳ đồ đá mới phát
triển trước đồ gốm, đã xuất hiện một thành luỹ vĩ đại là Jéricho, với một tháp đá 10 m
đường kính, chiều cao 8m50, có một thang đá bên trong lên đến đỉnh tháp. Ba
tường đá vây quanh cao đến 3m90, với một hào sâu đào ngay trong núi đá. Xây
dựng được một thành luỹ vĩ đại như thế, thì phải có tổ chức nhà nước chủ nô.
Jéricho đứng giữa ngã tư đường buôn bán ở bờ biển Gioóc-đa-ni.
Đến
thiên niên kỷ VI trước Công nguyên đã có thành thị Gatal Huyuk ở Tiểu Á. Những
nhà ở và đền, chen chúc với nhau chứng minh rằng ở đây đã có một tổ chức hành
chánh nghiêm chỉnh. Trên tường có vẽ nhiều lần một con diều hâu mở mỏ trên một
người quỳ đã mất đầu. Rõ ràng đấy là một nhà nước chủ nô trấn áp nô lệ. Mà kỹ
thuật cũng chỉ là đồ đá mới cải tiến, trước đồ gốm.
Như
thế là ở thời kỳ phát triển đại lượng và đại khủng hoảng của xã hội nguyên thuỷ
đã có thể có trung giới tiến vọt lên nhà nước chủ nô, do điều
kiện sản xuất hoặc do buôn bán đặc biệt thuận tiện. Trung giới ấy là cái hình thái toàn bộ hay phát triển (forme totale ou développée) của sự
trao đổi hàng hoá.
Nhưng
trong trường hợp bình thường, thì xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở cuối thời đồ đá
mới vẫn kéo dài sự phát triển đại lượng và đại khủng hoảng. Đến khi xuất hiện
kỹ thuật đồ đồng thì sự đổi chác hàng hoá đơn giản mới chuyển lên hình thái trao đổi toàn bộ hay phát
triển, sinh ra một giai cấp
quân sự mới vừa buôn bán, vừa cướp bóc, và dùng nô lệ, Ở đây tuy đã có xu hướng
mạnh mẽ chuyển lên chế độ chủ nô cổ đại, nhưng bản chất xã hội vẫn còn là
nguyên thuỷ, vì giai cấp quý tộc bộ lạc đã tổ chức lại thành chế độ quân chủ bộ
lạc để thích nghi với tình hình mới, và giữ những sức sản xuất mới trong mức độ cần thiết để bảo tồn bản chất của xã
hội cộng sản nguyên thuỷ. Nhà vua bộ lạc, đại diện cho giai cấp quý tộc bộ lạc,
lãnh đạo giai cấp quân sự kiêm ngoại thương trong giới hạn của truyền thống bộ
lạc.
Giai
cấp quân sự kiêm đại thương và công nghiệp luyện kim dĩ nhiên là xuất phát từ
kỹ thuật đồ đồng. Dưới chế độ quân chủ bộ lạc hai giai cấp ấy chỉ phát triển
bước đầu, trong mức độ của xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
Nhưng
rồi cái mức độ ấy cũng bị vượt qua ở những nơi có điều kiện đặc biệt thuận lợi
cho sản xuất và trao đổi hàng hoá. Như thế là ở châu thổ những sông lớn của
châu Á và Ai Cập xuất hiện những đô thị đầu tiên, với một giai cấp mới, là giai
cấp công thương bình dân. Giai cấp chủ nô quân sự kiêm đại thương và công
nghiệp luyện kim trở thành một hàng quý tộc mới, đối lập với giai cấp quý tộc bộ
lạc.
Chế độ
quân chủ bộ lạc chỉ còn là một cản trở hoàn toàn vô lý cho sự phát triển của
sức sản xuất xã hội. Đấy là thời kỳ phát triển quá mức của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tức
là thời kỳ cuối cùng, tổng
khủng hoảng và tan rã của xã
hội ấy. Sự xuất hiện đồ đồng thau và những đô thị Sumer đầu tiên vào cuối thiên niên
kỷ IV trước Công nguyên, là một thí dụ của thời kỳ này.
Những
anh hùng ca của Hôme là những bức tranh thiên tài diễn đạt sự phát triển quá mức và tổng khủng hoảng của xã hội nguyên thuỷ ở Hy-lạp.
Tóm
lại, hoạt động công thương lớn, dùng nhiều nô lệ, và công thương bình dân, cũng
có dùng một ít nô lệ, tất cả trong cái hình thái toàn bộ hay phát triển của sự
trao đổi hàng hoá, là cái trung
giới phủ định cái hệ thống xã
hội cộng sản nguyên thuỷ đã phát triển quá
giới hạn, tức là xoá bỏ cái cấu trúc bình quân, mà bây giờ chỉ
còn là tượng trưng, ở thành thị. Đồng thời di sản của cái hệ thống ấy vẫn duy trì ở những công xã nông thôn. Tức là chế
độ tư hữu tài sản được chính thức hoá dưới quyền của triều đình của chủ nô ở
thành thị. Còn cái di sản của chế độ cộng sản nguyên thuỷ trong cái cộng đồng
địa phương thì vẫn kéo dài ở những công xã nông thôn dưới quyền sở hữu tối cao
của nhà vua trên cả đất nước.
Như
thế là chúng ta thấy trong sự biện chứng của một hình thể kinh tế xã hội, như
hình thể cộng sản nguyên thuỷ, một quá trình lịch sử gồm hai giai đoạn cơ bản. Xuất phát
từ sự trung giới đầu tiên thì sinh ra cái chất
lượng căn bản mới tức là cái bản chất mới, nó là cái mâu thuẫn căn bản đã
được giải quyết trong cái cấu trúc thống trị mới. Giai đoạn đầu là giai đoạn phát
triển và hoàn thành cái bản
chất mới thông qua cái mâu
thuẫn thứ hai là mâu thuẫn
giữa cái cấu trúc thống trị mới với cái di sản cũ còn lại. Giai đoạn này trải
qua ba thời kỳ: thực tại, tồn tại-cho-cái-khác và tồn
tại-cho-bản-thân.
Từ sự hoàn thành bản chất trong hình thái tồn tại-cho-bản thân,
thì sinh ra giai đoạn thứ hai,
là giai đoạn phát triển số
lượng đặc thù, tức là năng suất lao động đặc
thù. Giai đoạn này tiến hành qua ba thời kỳ: phát triển đại lượng hay đại khủng hoảng; phát triển có mức độ hay cải lương; phát triển quá mức hay tổng khủng hoảng. Thời kỳ phát
triển quá mức, tức là tổng khủng hoảng, đưa đến chỗ vượt giới hạn, làm nổi bật cái trung giới mới,
tiến nhảy vọt lên một thời đại mới.
Đáng
chú ý là trong những điều kiện đặc biệt thuận tiện, cái trung giới mới có thể
xuất hiện ngay trong thời kỳ phát triển đại lượng, tức là đại khủng hoảng và
đưa thẳng lên thời đại mới. Sở dĩ như vậy là vì ngay ở thời kỳ đại khủng hoảng,
sự phát triển số lượng đặc thù của cái hệ thống đương thời, đã vượt ra khỏi khuôn khổ của cái bản chất đã hoàn thành. Tức là
đã có khả năng tiến lên một hệ thống mới. Không cần thiết cứ phải chờ đợi thời
kỳ phát triển quá mức, tức là tổng khủng hoảng. Dĩ nhiên cũng chỉ có một số ít
trường hợp có thể làm được sớm như thế.
Quy
luật về sự tất yếu giữa quan hệ sản xuất với sức sản xuất như thế là rất rộng
rãi. Sự chuyển hoá từ một hình thể kinh tế xã hội lên một hình thể mới cao hơn
có thể được thực hiện sau khi cái hình thể trước đã hoàn thành bản chất của nó,
tức là trên suốt giai đoạn phát triển số lượng đặc thù của nó, từ thời kỳ phát
triển đại lượng và đại khủng hoảng đến thời kỳ phát triển quá mức và tổng khủng
hoảng, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Những mầm mống của cái mới, tức là cái khác biệt đã sinh ra trong xã hội cũ, trở thành
cái trung giới đưa lên xã hội mới.
Các
hình thể kinh tế xã hội nô lệ, phong kiến sau này cũng trải qua quá trình tiến
hoá đại loại như vậy [3].
*
Trong
trường hợp điển hình của chủ nghĩa tư bản Anh, thì cái cấu trúc thống trị, tức là bản chất của xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện
vào giữa và ổn định vào cuối thế kỷ XVII, đã trải qua thời kỳ thực tại của nó cho đến phần giữa thế kỷ XVIII.
Ở đây những quan hệ tư bản công trường thủ công đã thành cấu trúc thống trị,
bao trùm cả hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa Anh, nhưng trên thực tế thì cái
cấu trúc ấy mới chỉ được thực hiện đơn thuần (thực tại) trong một khu
vực rất hạn chế. Phần lớn hệ thống xã hội Anh còn là di sản tiểu nông và thủ
công của thời trước. Tuy nhiên toàn bộ hệ thống thì có chất lượng cơ bản tức là
bản chất tư bản chủ nghĩa vì cái cấu trúc tư bản thống trị bao trùm tất cả.
Đến
phần cuối thế kỷ XVIII, cách mạng công nghiệp buộc những công trường thủ công
phải lùi bước trước những nhà máy đầu tiên. Tuy nhiên, ngày ấy những máy móc
còn là do những công trường thủ công sản xuất. Chưa có cái hệ thống máy móc sản
xuất máy móc, tức là chưa thể nào có đủ máy để chủ nghĩa tư bản nắm lấy cụ thể
về mặt kinh tế tất cả các cơ sở tiểu sản xuất.
Phải
dần dần đi từng bước cho đến giữa thế kỷ XIX, thì chủ nghĩa tư bản đại công
nghiệp mới xây dựng được đại khái cái hệ thống máy móc sản xuất máy móc, nâng
cao năng suất tư bản chủ nghĩa, nắm dần các cơ sở tiểu sản xuất, bằng cách bán
cho họ hàng đại công nghiệp và mua của họ hàng thủ công, nông nghiệp. Chủ nghĩa
tư bản như thế từ đầu thế kỷ XIX đã đi vào thời kỳ tồn tại-cho-cái khác, tức là
liên hệ trao đổi với cái khác, cái khác này là cái di sản cũ của xã hội phong
kiến, trong ấy có các nước thuộc địa.
Từ
phần giữa đến cuối thế kỷ XIX, cái hệ thống máy móc sản xuất máy móc đã tương
đối đầy đủ. Nền đại công nghiệp cơ khí hoá tư bản chủ nghĩa đã có đủ sức, để
làm chủ từ trên các ngành tiểu sản xuất. Tức là trong quá trình tái sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chủ nghĩa đại tư bản đã dự trữ đủ hàng hoá đại công nghiệp để
bán cho các cơ sở tiểu sản xuất: theo nghĩa ấy thì nó là bản thân nó trong cái khác.
Và trong các cơ sở tiểu sản xuất ("cái khác") thì nó lại có
những hàng hoá tương đương, để mua về phục vụ bản thân nó: tức là trong cái
khác nó lại trở nên bản thân. Như thế là nó tồn
tại-cho-bản thân.
Sự bóc
lột các nước thuộc địa trên quy mô thế giới từ thế kỷ XVI đã tạo nên cho chủ
nghĩa tư bản phương Tây một năng lực phát triển vượt xa các phương thức sản
xuất trước. Do đấy mà ngay từ giữa thời kỳ tồn tại-cho-cái khác và suốt thời kỳ
tồn tại-cho-bản thân, xã hội tư sản đã sa vào tình trạng khủng hoảng chu kỳ, do
sức sản xuất lớn lên tràn lan.
Như thế là thúc đẩy phong trào cách mạng của giai cấp công nhân phát triển mạnh
mẽ và xác định lý luận khoa học của mình trong chủ nghĩa Mác.
Đến
cuối thế kỷ XIX cái cấu trúc tư bản thống trị, tức là bản chất của xã hội tư
sản đã hoàn thành. Thế là
nó đi vào giai đoạn phát triển số
lượng đặc thù của nó là giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Thời kỳ đầu là phát
triển đại lượng của xã hội tư
sản tức là năng suất lao động của đại công nghiệp cơ giới hoá và điện khí hoá vượt ra khỏi khuôn khổ của bản chất đã hoàn thành của xã hội
tư bản. Chủ nghĩa cạnh tranh tự do chuyển lên cạnh tranh độc quyền. Như thế là
sinh ra đại khủng hoảng của xã hội tư bản, với hai thế chiến
huỷ diệt trong vòng nửa đầu thế kỷ XX.
Trong
thời kỳ này phong trào cách mạng vô sản thế giới đã thắng lợi ở Nga, là một
nước tư bản đế quốc dù chưa phát triển, và một số nước như Việt Nam, chưa phải
là hiện đại, nhưng đã có một số cơ sở đại công nghiệp, đủ để có một giai cấp
công nhân giác ngộ trong Đảng Cộng sản.
Trong
tình hình đối kháng căng thẳng nhất với chủ nghĩa đế quốc, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đối với quần chúng nhân dân là cái trung giới, nội dung của sự tiến nhảy
vọt, phủ định xã hội cũ, đưa lên xã hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tức là
cũng giống như sự tiến nhảy vọt từ xã hội nguyên thuỷ lên xã hội chủ nô, rồi từ
chủ nô lên phong kiến và từ phong kiến lên tư bản, thì cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong một số nước có hoàn cảnh đặc biệt thuận lợi, có thể thành công ở
thời kỳ đại khủng hoảng của hệ thống xã hội tư bản, không cần thiết phải chờ đợi thời
kỳ tổng khủng hoảng.
Dĩ
nhiên đấy chỉ là ở một số nước có điều kiện đặc biệt - nếu bàn về cả hệ thống
tư bản chủ nghĩa thế giới, thì sự chuyển hoá chỉ có thể hoàn thành ở thời kỳ
tổng khủng hoảng.
Từ
những năm 1960, cách mạng khoa học kỹ thuật đã đưa sức sản xuất lên một trình
độ mới, làm cho năng suất lao động tiến nhảy vọt chưa từng thấy. Đứng trước
nguy cơ bị tràn ngập và cách mạng vô sản thành công, giai cấp tư sản đế quốc đã
buộc phải đi vào con đường cải lương, xoa dịu mâu thuẫn, tức là đi vào thời kỳ
phát triển có mức độ.
Xuất
phát từ năng suất lao động mới luôn luôn tăng cường, đi đôi với những quan hệ cạnh
tranh ác liệt, họ phát triển những quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết trong
mỗi nước và giữa các nước, tiến tới thành lập thị trường chung ở một số khu vực
hay phân hệ của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Họ tăng phần nào những giá
trị sử dụng dành cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời càng
ngày càng tăng cường bóc lột giá
trị thặng dư. Như thế là trên hiện tượng bề ngoài họ có vẻ như giảm nhẹ mâu
thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội của sức sản xuất với hình thái tư hữu tư bản
chủ nghĩa của sự sở hữu. Nhưng trên thục tế thì cái mâu thuẫn ấy vẫn phát
triển, dù trước mắt có giữ được đại khái cái mức
độ cần thiết.
Xu
hướng xây dựng thị trường chung ở từng khu vực trong hệ thống tư bản chủ nghĩa
thế giới ngày nay, tất nhiên sẽ đi tới cùng một thị trường chung cho cả hệ
thống ấy. Đấy là cái cột mốc của sự phát triển có mức độ của họ. Tức là sau đấy thì chủ nghĩa
tư bản thế giới sẽ chuyển lên giai đoạn phát triển quá mức: ở đây những khả
năng cạnh tranh sẽ trở nên càng ngày càng ít ỏi, chủ nghĩa tư bản càng ngày
càng mất đi cái cơ chế thúc đẩy tăng năng suất và nâng cao giá trị thặng dư
trên cơ sở quyền tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong giới hạn
của một thị trường chung toàn diện, chủ nghĩa tư bản độc quyền trở nên toàn
thắng, do đấy thì nó càng ngày càng tăng cường tình trạng đình đốn, suy thoái,
khủng hoảng triền miên. Một số càng ngày càng ít tài phiệt chiếm đoạt tất cả,
đẩy nhân dân lao động vào cái vòng thất nghiệp không lối thoát. Như Mác đã tiên
đoán:
"Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt và nắm độc quyền tất cả những cái lợi của quá trình chuyển hoá đó ngày càng giảm đi không ngừng, thì nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, thoái hoá, bóc lột ngày càng tăng thêm nhưng sự căm phẫn của giai cấp công nhân - một giai cấp đang ngày càng không ngừng đông đảo hơn, ngày càng được cơ cấu của bản thân quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa huấn luyện, đoàn kết và tổ chức lại - cũng tăng lên. Sự độc quyền của tư bản trở thành những xiềng xích ràng buộc cái phương thức sản xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc quyền đó và dưới độc quyền đó. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra". [4]
Theo
kinh nghiệm thành lập thị trường chung Tây Âu và những hoạt động tiến tới một
thị trường chung Đông Nam Á, chúng ta có thể ước đoán rằng cả hệ thống tư bản
chủ nghĩa thế giới sẽ hoàn thành thị trường chung toàn bộ của họ trong phần đầu
thế kỷ XXI. Như thế là họ sẽ vượt quá cái mốc của thời kỳ phát triển có mức độ, chuyển sang thời kỳ
phát triển quá mức tức là tổng
khủng hoảng của cả hệ thống
tư bản chủ nghĩa thế giới.
*
Tóm
lại, xuất phát từ toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm lịch sử giống
người, chúng ta thấy cái vẻ phồn vinh trước mắt của xã hội tư bản đế quốc chỉ
là một ảo tưởng tạm thời mà thực tế thì sẽ đưa tới thời kỳ tổng khủng hoảng
không thể nào cứu chữa. Họ càng phát triển kỹ thuật bao nhiêu thì lại càng gặp
khó khăn để duy trì siêu lợi nhuận bấy nhiêu. Sự khao khát bóc lột giá trị
thặng dư buộc họ phải tăng cường kỹ thuật mới, và chính vì thế nên lại càng đẩy
họ đến chỗ tràn ngập, sa lầy trong tình trạng phá sản vì sản xuất thừa, suy
thoái, và trút lên đầu nhân dân cái giá phải trả càng ngày càng nặng nề, để họ
kéo dài đặc quyền đặc lợi của họ. Dĩ nhiên, nhân dân không thể nào dung túng
tình trạng như thế. Đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc ngày nay là nó phải thu hút
siêu giá trị thặng dư càng ngày càng bấp bênh.
Cách
mạng xã hội chủ nghĩa là sự tất yếu của cả lịch sử thế giới, đã bước đầu thành
công trên nền tảng của cách mạng khoa học kỹ thuật đầu thế kỷ XX, và tất yếu sẽ
đến thời toàn thắng trên nền tảng cách mạng khao học kỹ thuật ngày nay.
Chúng
ta đã đi sớm, vì hoàn cảnh chính trị không cho phép chờ đợi. Nhưng như thế cũng
chỉ là sớm trong phạm vi có khả năng hiện thực thắng lợi, theo quy luật chung
của sự tiến hoá lịch sử. Như thế không phải là quá sớm. Trên thực tế, chúng ta
đã thành công vinh quang, vì xuất phát từ nhân dân và dân tộc, có sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân và Đảng Mác-Lê nin do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện. Những thiếu sót, khuyết điểm, khó khăn có một phần vì khách quan,
một phần vì chủ quan trong một số trường hợp đã hiểu sai, hoặc vận dụng không
đúng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Những nguyên lý này là hoàn toàn
đúng, và là chỗ dựa để sửa chữa sai lầm và thiếu sót.
*
Nhưng
tác giả bài "Dắt tay nhau" lại cho rằng chính những nguyên lý
Mác-Lênin là sai! Ông đặt vấn đề "chủ nghĩa đế quốc không phải là giai
đoạn tột cùng…", mà chỉ là "một trong những bước đi đầu của chủ nghĩa
tư bản". Tức là ông coi cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày nay như quá sớm cả
một thời đại lịch sử!
Từ
đấy, bài "Dắt tay nhau" phát triển một loạt lập luận siêu hình trừu
tượng, duy tâm chung chung, chống quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ví dụ như cho rằng:
"Luôn
lấy trí thức, khoa học làm căn cứ, đó là chủ nghĩa duy lý… Theo mức độ duy lý
con người chia thành trí thức và không trí thức."
"Luôn
lấy lợi ích làm căn cứ, đó là chủ nghĩy duy lợi."
"Người
thực tế duy lý… thì tự thân không mang tính giai cấp rõ rệt, vì sự phân chia
thành giai cấp là phân chia theo quyền lợi… Hiểu theo nghĩa đó thì người mang
tính giai cấp rõ rệt là người duy lợi (kể cả lợi ích chân chính, lợi ích của
một giai cấp cũng vậy). Vì vậy sự phân chia con người theo giai cấp không phải
là sự phân chia bao trùm được hết xã hội."
Ở đây
tác giả xếp loại các khái niệm có vẻ như rành mạch, - mà trên thực tế thì lẫn
lộn tất cả. – Nói trí thức và khoa học, thì trước hết phải phân biệt khoa học
tự nhiên với khoa học xã hội và con người. Trong những vấn đề chuyên môn của
khoa học tự nhiên, thì không cần thiết phải có quan điểm giai cấp. Ở đây người
trí thức có thể "luôn lấy trí thức, lấy khoa học làm căn cứ".
Nhưng
đi vào lĩnh vực xã hội và con người, nhất là khi xây dựng học thuyết, lý luận
về xã hội và con người, thì quan điểm giai cấp tự nó toát ra, và quyết định cái
cách nhìn và suy nghĩ. Vì nói về xã hội và con người thì chính là nói về bản
thân mình. Tuỳ theo mình nhận thấy mình ở giai cấp nào, thì cái vị trí ấy quy
định xu hướng nhận thức về xã hội và con người. Xuất phát từ kinh nghiệm thực
tiễn đời sống, mỗi người tự thấy mình trong một giai cấp, nhận thức về xã hội
và con người theo cái vị trí giai cấp của mình như thế. Chỉ có quan điểm
Mác-Lênin của giai cấp công nhân là vô tư, thực sự bảo đảm tinh thần khoa học
trong các khoa học về xã hội và con người, vì chỉ có lợi ích của giai cấp công
nhân là gắn liền và trùng hợp với lợi ích căn bản của nhân dân, dân tộc và loài
người.
Tác
giả bài "Dắt tay nhau" nói: "Người thực tế duy lý thì không mang
tính giai cấp rõ rệt, vì sự phân chia thành giai cấp là phân chia theo quyền
lợi… Hiểu theo nghĩa đó thì người mang tính giai cấp rõ rệt là người duy
lợi". Tức là bàn về giai cấp và tính giai cấp, tác giả không phân biệt gì
giữa giai cấp vô sản với các giai cấp phi vô sản.
Quan
điểm giai cấp phi vô sản dĩ nhiên là duy lợi. Nhưng quan điểm giai cấp vô sản
thì chính là duy lý, thực sự khoa học, vì lợi ích của giai cấp vô sản là đi
theo đúng chân lý hiện thực, giải phóng nhân dân, dân tộc và loài người, vì đấy
là con đường duy nhất để giải phóng bản thân.
Trên
thực tế khách quan, thì có sự liên hệ cơ bản giữa trí thức, khoa học, với lập
trường cách mạng, quan điểm biện chứng duy vật của giai cấp công nhân. Nhà trí
thức lớn nhất của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là nhà cách mạng giác
ngộ cao nhất về lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, nhà văn hoá, khoa
học cao nhất.
Bài
"Dắt tay nhau" còn nói khá nhiều, để đặt đối lập trí thức với giai
cấp công nhân một cách hoàn toàn giả tạo và vô căn cứ. Cách mạng rất cần đến
trí thức với tư cách là những nhà chuyên môn. Dĩ nhiên cũng có những chuyện
này, chuyện kia, làm không đúng nguyên tắc. Đáng tiếc có một số trí thức lợi
dụng chính trị, để đàn áp những trí thức khác.
Nhưng
điều cơ bản vẫn là nội dung và bản chất của thời đại chúng ta là sự chuyển hoá
của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đấy mà sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng Mác-Lênin là một thực tế hoàn cần thiết
của lịch sử. Cái gọi là "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" siêu hình
duy tâm của bài "Dắt tay nhau" chính là đi ngược dòng, đi trái ngược
với lý tính biện chứng của lịch sử hiện thực. Từ chỗ lẫn lộn mâu thuẫn biện
chứng với nghịch lý siêu hình, sự lan tràn máy móc trên bề mặt với sự mâu thuẫn
sáng tạo ở bề sâu, tác giả bài "Dắt tay nhau…" đã xác định một thứ
"lý luận" tầm thường, quy kết chủ nghĩa xã hội là đầy "nghịch
lý" và coi chủ nghĩa đế quốc tựa hồ như đầy sức sống.
[1]Xem
Ph. Ăng-ghen: Chống Đuy-rinh,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 35-37
[2]Xem Ph. Ăng-ghen, Sách đã dẫn, tr. 36
[3]Chú thích của người biên tập: Tiếp sau phần hình thể cộng sản nguyên thuỷ, tác giả đã phân tích những nấc thang tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Vì khung khổ bài báo có hạn, rất tiếc chúng tôi không đăng được phần đó. Mong tác giả và bạn đọc thể tất. Dưới đây là phần tiếp.
[4]C. Mác: Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Q1, T3, tr. 351-352
[2]Xem Ph. Ăng-ghen, Sách đã dẫn, tr. 36
[3]Chú thích của người biên tập: Tiếp sau phần hình thể cộng sản nguyên thuỷ, tác giả đã phân tích những nấc thang tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Vì khung khổ bài báo có hạn, rất tiếc chúng tôi không đăng được phần đó. Mong tác giả và bạn đọc thể tất. Dưới đây là phần tiếp.
[4]C. Mác: Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Q1, T3, tr. 351-352
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét