Nguyễn Cường
Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trung quốc nơi
khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về âm lịch, dù có đang
dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiệnnay. Thích hay
không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên đán theo
truyền thống dựa vào Âmlịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong
các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày “Ta” đi kèm. Riêng đối với
người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông
miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích
chính không phải vì thích coi theo ngàyt a, mà nguyên nhân cólẽ là do từ tôn
giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao).
Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp
dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng
tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung quốc không còn giữ được
bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi
dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không
còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức
dùng Dươnglịch. Dùv ậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trước
đây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của
Trung quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít
nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ
quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, hay
năm tới 2003 là Quý-Mùi, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng
cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ
trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc
lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính,
Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để
truytìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinhgia Trung hoa thời xưa có thể
đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin
minh xác là những gì được trình bày sau đây có thể chưa được chính xác đúng
hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có
thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng
khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sángtỏ những gì đã
bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích
tại sao, chỉ bằng mắt thường quans át với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các
chiêm tinhgia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và Lục Tuần Hoa Gíap,
hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âml ịch. Phần cuối của bài viết sẽ giảit
hích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào
vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm
tưởng. Theo dữ kiện có được từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền
văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh consông Tigris cách đây hơn 6000 năm
(khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm,
hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận
hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC )
cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ
nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày.
Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu
như ít khi thay đổi.
Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ
đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Aicập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực
Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã
thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng
từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng
của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là
trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xích đạo và Bắc bán cầu trong
khoảng Vĩ tuyến từ 0 – 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong
vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện
tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày
trong năm (365 thayvì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch
theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm
trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy
được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấntượng nhiều về mặttrời, và cũnglà
lýdo dểhiểu tạisao họ đã dùng mặttrăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã
có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra
(nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiênvăn hay chuyên gia coi sao trêntrời, không phải
bị biến nghĩa ra thành “thầy bói toán” như về sau này!) chiêm tinh gia biên
soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều
đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trong việc
tiên đóan thời tiết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi
mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều
sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng
chứng là trong thời kỳ phát triển của ChuDịch (1150 – 500 BC) cũng chưa nghe
nói đến.
Phải đến thời “TamQuốc” của Khổng Minh (Giacát Lượng) vào
khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất
hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại
Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà
Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn
minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0
-1000 AD).
Theo chính sử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của
Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi
nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là
khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trongviệc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ
hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhậnxét bình
thường thì cho rằng đó là việc làm xa
xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay,
Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu
Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai!
Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các
đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ
lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gì
cả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập
thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra mô itrường tốt đẹp cho những sáng kiến mới,
thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã
là cơ sở đóng góp cho nhiều phát minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật saun
ày của Trung quốc.
Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy
ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn tính (abacus), v.v. có thể
đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thời kỳ này. Thí dụ về những huyền
thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá
chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộnc hung với
nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng
vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả
tốt đẹp hơn hết chínhl à bộ môn xem thiênvăn khí tượng bắt đầu xuất hiện được
nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng
hơn cho tới bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Cóthể chiara làm hai giaiđọan phát triển chính cho việc
soạnt hảo âm lịch.
Giaiđoạn I:
Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời
Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ
cũng như chưa có thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này
rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những
chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính
số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào
lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trung thu),
và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai
năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng
nhuận, và cách giải quyết thực tế đơn giản lúc bấy giờ là thêm nguyên một tháng
vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏng chừng
và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối.
Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến
cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào
trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi
bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những
nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch
dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn
viết lịch sử, họ thường dùng năm cait rị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí
dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão
lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền
văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịchs ố ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ
như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng chừng theo vị trí của mặt
trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫn còn dùng, như
khi nói mặt trời vừa lên quá ngọn cây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt
trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu
dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu
(1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ
Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là
phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau
này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có
nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II:
Từ thời Khổng tử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm.
Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm
tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay
khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó
âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp
(hay chu kỳ 60 năm). Trước khi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo
dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường
chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôis ao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất
cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc
vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặc giả có chu kỳ di chuyển quá
lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet)
và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương
hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng,
mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy
tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là
Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vươn
tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune ) và
Thiên vương tinh(Pluto). Không biết cóphải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa,
hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của
Dịch lý, các “Khoa học gia” thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy,
Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Người viết đã trình bày trong bài
“Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành” cách đây hơn hai năm.)
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế
nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất
khoahọc, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất
định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu
tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vịt rí
của các sao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém
chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có
thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước
chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để
định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồnghồ) và 25 độ cách
chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách
chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các
chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên
vòngtròn. Ðó chính là lý do tại sao các nhà nghiên cứu vềs au có thể hiểu lầm
vì bị nạn “tam sao thất bổn”, nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý
mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ
âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều
chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ
thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh
trong Thái dương hệ, trước Âuc hâu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các
Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên chot hấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh
đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý
Hợi và đầu năm Giáp Tý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau
chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tình cờ ngẫu nhiên
quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có
thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ
đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa
giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời
của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:
Thờigian tínhtheo Tráiđất làmchuẩn Chukỳ 1 vòng
Ngày (Năm ) Số Chukỳ trong 12 Năm Số
Chukỳ trong 30 Năm Số Chukỳ
trong 60 Năm
TráiÐất-Earth 365.3
(1.00) 12.000 30.000 60.00
ThủyTinh Mercury 88.0
(0.241) 49.814 124.534 249.06
KimTinh
Venus 224.7 (0.615) 19.508 48.772 97.54
HỏaTinh
Mars 687.0 (1.881) 6.381 15.951 31.90
MộcTinh
Jupiter 4331.8
(11.858) 1.012 2.530 5.060
ThổTinh
Saturn 10760.0 (29.455) 0.407 1.018 2.037
Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có mộ tvài chi
tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác,
và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủ ytinh, Hỏa tinh, Mộc
tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút.
Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc),
do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 –
0.1 hay 0.9 – 1.0 theo vòngtròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát
các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ
nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy
được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trườnghợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm
gần như đối diện với vị trí cũ (sốlẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt
trời chỉc ó chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong
1 năm của trái đất) là qua yvòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Nh ưvậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kế tluận
rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trunghoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ
gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình
vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh
vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết
Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự
trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng
một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và
0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay
đổi xê xích một chút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị
gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm!
Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự
trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
NguyenCuong-LichsoTuvi-1
(Chúthích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy
trong hình)
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng
rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vuac húa Trung hoa thời
bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các
tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa
là có “Thánh nhân” hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong
khoảng 400 năm ( 400 – 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương
Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới
có việc sai phái đạos ĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam . Ngoài ra
sau này họ cũng thường gởi các “Gián điệp” giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa
lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việt nam. Một khi phát hiện được
nơi nào có “thần đồng” hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm
hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin
cho làm con nuôi để “dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về
các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những
người “khách lạ” tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh
gia Trunghoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra
nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa
biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu
có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em
thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba
sao là: Hỏatinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng
12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịchsố đã tìm ra mẫu số
chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một
cung, hay cùng phươngvị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao
Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa
nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùnghợp với lý thuyết về
Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giốn
gnhư vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng
12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ
nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm.
Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu
tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh
thì lại càng không chínhxác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ
hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh
gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt
trời và Mặttrăng, Mộc tinh có ảnh hưởng nhiều nhất đốiv ới con người và Trái
đất (sẽ giảithích thêm ở mục TửVi).
Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt
tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa
chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng consố 1, 2, 3, 4,…12. (Nếu để ý thì thấy
các số lẻ 1, 3, 5…thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6… là số Âm, phù hợp với Dịch
lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu,
Dần…v.v, thì lại thuộc một vài lý do
khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung,
yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng
trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ
tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời
bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp
đặt và thay đổi của “Thượngđế”, nên gọi là ThiênCan (?). Nhưng tạis ao là 10 mà
không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán
của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở
ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và
một năm Âm đi liền vớinhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên.
Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp
đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặctính Ngũ hành của Thiên can.
Bởi vậy cho nên bây giờ chúngt a mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung
một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với
Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và
Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi
tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt
thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành
về màus ắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ
tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và
Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng
lắm!
Tóm lại hệt hống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau:
Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộ ctinh (Jupiter) dùng
cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng
để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay Lục Tuần Hoa Giáp.
Ghi nhận thêm ở đây là theo ăm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ
9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch
tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là
khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một
vài công thức định trước, mà khôngcó sự giải thích hay chứng minh lýdo tại sao.
Dù tin hay không tin, thực tế chot hấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong
dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có
thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người!
Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúngtheo dữ kiện cho thấy, khoa
Tửv i hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung
hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở Trung Hoa cũng có nhiều, nhưng họ không
thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọit ắt là
Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một
lý do cót hể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận
hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được ngườiviết phát hiện và trình bày sau đây cho
thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sáng
chế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có
thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc
rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấy giờ, nên họ
đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết
sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh.
Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh
hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinhr a đều có một số phận được an bài trước
gọi là thiên mệnh. Các nhà lýs ố hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên
nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số
phận bởi các tinhtú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng
thường nghe là “…sinh ra đời dưới một ngôi sao…” phản ánh niềmtin trên. Nói
cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ
chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định
đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách
an mệnh trong Tửvi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều
thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờsinh để
an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG
thời đó đã khám phá ra được hai đặc tính vận hành của trái đất và mặt trời, một
đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy
chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là
đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG
lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết
ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản
thân và gia đình do quan niệm “Thiên cơ bất khả lậu” hoặc vì những người cầm
quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do
khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng
tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn!
Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay
nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ án
hsáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp
nguyệt thực). Cóthể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng
minh “phản đề” là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa ào quans át hàng
ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hànhtinh và đa số các tinh tú thấy
được, phải “chạy” xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn
tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn
phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra,
dù trong chốc lát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống
dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt
trời quay chung uanh trá iđất mỗi năm mộ tlần theo chiều thuận kim đồnghồ!
Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng
trên thực tế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG
đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trái đất di chuyển xung quanh
mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giốngnhư các TVG đứng trên trái
đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận
kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã
theo gầ nđúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vịt rí
tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn
mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần
nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi
trường vào thời điểm đó, nên “chuyển bụng” mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể
đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ:
Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả
bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt
trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau
khi định vị trí của đứa trẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG
còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và
vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được
an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu
thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm
hình dạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian
kéo dài cả mấy trăm năm. Khoa Tướng số cũng có thể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên
nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng
hay tướng mạo để “điều chỉnh” và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của
người nào.
Vòng Thái tuế:
Trong số những người Việt nổi tiếng mộtt hời nghiên cứu về
khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khámphá ra những yếu
tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan
niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống
và cách ứng xử của con người đối với xã
hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả
lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan
sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương
hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của
Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên tráiđất, nhất là con người theo
từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh
năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay
saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành
tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng
chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity)
của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái
đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc
tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các
phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất
là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một
số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình!
Hay giới y học càng ngày càng có khuyn hướng tin và công nhận các loại sóng từ
trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy
hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương
nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có
sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời,
v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho
cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ
Tý, mệnh an ở cung tuất. Sau đó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào
thời điểm nóitrên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với
sao Mộc tinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:
NguyenCuong-LichsoTuvi-2
NguyenCuong-LichsoTuvi-3
Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và
người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá
tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng
9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì
ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có
thể là do ảnh hưởng của sóng từt rường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của
đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn
người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt,
nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá
Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè
đảng với kẻ xấu (Kiếp,Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng
v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc
loại thông minh hơn người rất nhiều!
Hai hànhtinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an
một số sao trong Tử vi. Kim tinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí
cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao
trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần
Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu. Ðặ cbiệt Thủytinh (Mercury) quay quanh mặttrời
quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di
chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối
của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủ ytinh chỉ di chuyển trong 4
vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên
tục do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vìv ậy mà sao Thiên
Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên(?)
Những gì vừa được trình bày chot hấy mặc dù khoa Tử vi đẩu
số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại,
nhưng dám chắc rằng đó chính là biểu tượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông
phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và
hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Nguyễn Cường
Sacto 1/ 2003
Tham Khảo:
1) Nguyễn Ðăng Thục, Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, Xuân
Thu,1990 Inlại.
2) Encarta 98 Encyclopedia, Microsoft, 1998 Edition
3) Encyclopedia of History, Global Software Publishing, N.
A., Inc., 1998
4) Sào Nam Phan Bội Châu, Chu
Dịch, Khai Trí, 1969.
5) Ngô Tất Tố, Kinh Dịch Toàn Bộ, Ðại Nam , 1973.
6) The World Almanac and Book of Facts, 1996.
7) Thiên Lương, Tử vi NghiệmLý ToànThư, Ðại Nam inlại, 1985
Nguồn :vny2k.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét