Theo Blog trannhuong.com, Thứ hai ngày
5-1-2015
Bài viết được
cụ Huỳnh Thúc Kháng cho đăng hai lần trên báo Tiếng Dân số ra ngày 11-10-1930
và ngày 16-2-1939.
Chúng ta sinh gặp
thời đại triết học khoa học thịnh hành này, cần nhất là phải có cái trí não tự
do phán đoán, bất kỳ là xưa nay Đông Tây, điều gì mà hợp với chân lý và sự
thực, thì cho là chân chính mà gắng sức học theo; điều gì mà ta thấy chỗ mặc
vọng trái với chân lý và sự thực, thì nhất thiết cào bỏ cho sạch. Như vậy thì
cõi tư tưởng ta may khỏi bị cái gì ngăn đón che lấp mà được bước lên con đường
tự do để làm mẹ đẻ cho sự thực chăng.
Học
thuyết Âu tây nhờ cái mối tư tưởng tự do mà phát đạt rất sớm. Tư tưởng được tự
do, nên phàm nhà hiểu biết, sáng lập và phát minh được cái thuyết gì thì làm ra
sách vở, công bố cho người đời tha hồ biện bác phê bình. Nhờ lối biện bác phê
bình ấy mà chân lý càng bày tỏ ra, không bị cái gì che lấp. Thuở nay, các bậc
hiền triết Âu tây tiếp chân nối gót, vì chân lý mà dương cờ rung trống cùng cãi
biện nhau, không những vì chủ nghĩa lý thuyết không đồng nhau mà có sự biện bác
ấy, mà dẫu cho thầy trò bạn hữu đồng một học phái thường thường biện đi chiết
lại để đính chính những chỗ mậu ngộ bồi bổ những nơi khiếm khuyết cho học
thuyết được viên mãn hoàn toàn. Mỗi người đã lập một cái học thuyết thì trong
cõi tư tưởng chỉ lấy chân lý làm chủ mà không làm nô lệ cho ai. Bởi vậy nên
những điều gì hợp với chân lý thì cơ sở vững bền, không có cái gì làm cho lay
chuyển, mà những điều mậu ngộ nhất thiết phải tiêu diệt. Học thuật Âu tây, có
cái mãnh lực to lớn, đủ sức mà chuyển di được thời thế, có công trong cuộc tiến
hóa của lịch sử loài người, chính là bởi cái đường tư tưởng tự do ấy mà đi
thẳng tới, chứ không có gì lạ.
Học thuyết bên Á
đông ta thì khác hẳn thế. Nói đến Á đông tất nhiên trước kể nước Tàu, mà nói
đến học thuật nước Tàu, tất nhiên trước kể Khổng giáo. Học thuyết của Tàu thịnh
nhất là đời Xuân Thu Chiến Quốc. Khổng Giáo cũng là một học thuyết trong các
học thuyết khác (như Mặc học, Lão học v.v…) chứ không phải Khổng giáo là toàn
hay mà các giáo khác toàn dở. Sang từ đời Hán trở xuống, các nhà đế vương thấy
Khổng giáo có những lời tồn cổ trung quân, tiện lợi về đường chánh thế, chuyên
chế, nên biểu dương tôn sùng, nêu làm chánh học mà bãi truất các học thuyết
khác đi. Nhân đó lần lần bọn tục nho lại theo mà tô vẽ xuyên tạc. Thực ra, chân
tướng Khổng giáo đã bị chánh thể uốn vặn một phần, bị nhà nho mấy đời sửa đổi
một phần; chính ở nước Tàu là nơi Khổng giáo phát nguyên mà sai lạc đã nhiều,
huống ở nước ta học theo văn hóa Tàu lại cách xa một bậc nữa. Ở ta thuở nay ai
học chữ Hán tức tự nhận mình là học trò ông Khổng, chứ có mấy ai rõ chân tướng
Khổng giáo là thế nào đâu! Những chuyện mạo tên không thực ấy, gần đây đã có kẻ
bàn đến, không phải nói nhiều.
Nhưng
chân lý một ngày một phát hiện, từ có học thuyết Âu tây truyền sang mà cái nền
chánh học gọi là có một không hai bên Á đông này, cũng bị ngọn triều cạnh tranh
ưu thắng liệt bại chung kia nó lay chuyển, ký giả cũng là một người vỡ lòng thì
học Tử viết, vẫn nhận rằng nước ta mấy trăm đời nay mà lập thành quốc gia, sống
còn trên thế giới, cái công Khổng giáo thật có phần lớn, chớ không phải nhứt vị
mạt sát như hạng người uống nước quên nguồn kia. Song theo câu Tây triết đã
nói: ta yêu thầy ta, ta càng yêu chân lý. Ký giả dám lầy lòng ngay thẳng mà nói
thật rằng: Thời đại ông Khổng cách thời đại này đã xa lắm rồi. Cứ xem hiện tình
thế giới ngày nay, không những cái mậu thuyết vu thác cho Khổng giáo không thể
tồn tại, mà chính chân tướng Khổng giáo ở vào thời đại này cũng có điều thích,
có điều không thích, ai có muốn hồi hộ cũng không thể che đậy được. Vậy xin kể
mấy điều khuyết điểm của Khổng giáo như sau:
1.
Đạo đức chỉ nói với số ít mà bỏ phần số nhiều thông thường:
Đạo đức cao thượng
vẫn là đáng quí, song không thể buộc cả thảy người đời đều theo lối khổ hạnh
ấy, nền cần phải có con đường thông thường để chỉ dẫn người đời. Khổng giáo dạy
người đời rành nói chuyện cao thượng, như nói “Lo đạo, chẳng lo ăn”, “ăn không
cầu no, ở không cầu yên”, “lấy điều ăn cực mặt xấu làm thẹn, không phải anh học
trò” v.v…
Những thuyết tuyệt
lục trái thường như thế mà bảo người ta hoan nghênh thế nào được? Không những
người thường không thể thực hành, mà dẫu cho trong bọn học trò danh tiếng của
ông Khổng giáo cũng chỉ một vài người như ông Nhan Hồi, Nguyên Hiếu làm được.
Còn ngoài ra, Tử Cống thì lo việc thực hóa, đi đâu xe ngựa vàng bạc mang theo;
Phàm Trì thì lưu tâm việc nông phố; Tử Bá đi sứ thì ngựa sang áo tốt, lại lo
kiếm lúa để nhường cho mẹ. Thế là học trò ông Khổng cũng không thể theo cái
thuyết quá cao kia rồi. Chính ông Khổng cũng nói: Từ bậc trung nhân trở xuống,
không nên nói điều cao. Không những thế thôi, giỏ cơm bầu nước ở một xứ khổ sở
mà lấy làm vui như ông Nhan Hồi, nhà rách vách xiêu, trên dột dưới ướt, mình
mang cái áo rách, che bên này trông bên kia mà ngồi hát và ngâm thi như ông
Nguyên Hiếu, cao thượng thì vẫn cao thượng thật, song nếu người đời ai cũng xu
hướng mà thực hành như thế thì cái cảnh tượng xã hội sẽ ra thế nào? Cái học qua
cao ấy, dẫu ở thời đại nào cũng chỉ ở riêng một mình trong rừng sâu núi rậm,
đứng ra ngoài vào nhân quần giao tế kia, chớ ở trong xã hội thông thường thì
thật là không thích, huống gì là ở thời đại giao thông ngày nay, thì đạo đức
tối cao ấy ai làm theo được? Ấy là một điều không thích.