Nguyễn Đắc Xuân
Xuất thân trong các cuộc vận động của
Phật giáo (1963-1966), thời đi theo kháng chiến (1966-1975), tôi có nhiều dịp
chuyển thư từ, hình ảnh của Hoà thượng Thích Đôn Hậu và bà con Phật tử tập
kết ngoài miền Bắc vào cho các chùa và đồng bào theo Đạo Phật ở Huế. Nhờ thế,
sau ngày thống nhất đất nước (1975), nhiều lần tôi được các Sư bà Thích nữ
Diệu Không, Sư bà Thích nữ Cát Tường, Sư cô Tịnh Giải (thế danh là Trương Thị
Bích Vân) tiếp tại chùa Hồng Ân và chùa Kiều Đàm (Huế). Sư bà Cát Tường cho
tôi chiếc xe Jeep của trường Mẫu giáo Kiều Đàm trước năm 1975. Tôi không được
dùng xe riêng nên đã chuyển cho anh Võ Đông – trưởng Phòng TTVH TP Huế sử
dụng vào việc công. Chiếc xe ấy đã giúp việc cho Phòng mãi đến thời gian gần
đây mới cho “giải nghiệp”.
Biết tôi là người rất lịch sử, thích chuyện cũ và thơ văn, Sư
bà Thích nữ Diệu Không đã kể cho tôi nghe chuyện các gia đình Hồ Đắc - Cao
Xuân của Sư bà quan hệ với gia đình Bác Hồ, chuyện Phật giáo cứu dân và đặc
biệt chuyện Sư bà làm thơ Kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ mừng Ngày thống
nhất đất nước 30 -4-1975.
1. Chuyện ông Tư Sinh
Sau ngày đất nước thống nhất, tôi quan tâm ngay việc nghiên
cứu Huế để giải toả những thắc mắc về lịch sử Huế mà suốt thời gian theo
kháng chiến tôi không tự trả lời cho mình được. Một trong những thắc mắc đó
là thời gian gần mười năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và học hành ở Huế. Nhờ
có ý thức sớm như vậy cho nên tôi đã may mắn gặp được những người bạn học,
những “người cùng thời” với Bác ở Huế. Một trong những “người cùng thời” đó
là Sư bà Thích nữ Diệu Không. Không những Sư bà là người cùng thời mà còn là
người từng làm dâu trong gia đình Cao Xuân Nghệ An – gia đình có mối quan hệ
sâu sắc với gia đình thân sinh của Bác.
Sư bà Diệu Không nhủ danh Hồ Thị Hạnh, ái nữ của cụ Thượng Hồ
Đắc Trung, lúc chưa xuất gia là vợ ông Cao Xuân Xang (con trai thứ của cụ Cao
Xuân Dục). Sư bà tiếp tôi trong phòng khách của chùa Kiều Đàm (Huế).
[...] Sư bà kể:
-“Năm lên 10 tuổi tôi
theo thầy tôi là cụ Hồ Đắc Trung vào ở trong Bộ Học. Lúc ấy tôi mới học chữ
Hán nên hễ thấy đâu có chữ Hán là để mắt vào đọc, đọc không hiểu thì hỏi.
Bỗng tôi thấy trên tường vừa quét vôi trắng có chừa một khoảng tường cũ ám khói.
Trong khoảng ấy có ghi một câu cách ngôn bằng chữ Hán nét chữ đã cũ nhưng rất
đẹp. Tôi đọc lõm bõm được vài chữ và không hiểu hết ý nghĩa của chữ tôi bèn
hỏi Thầy tôi. Và Thầy tôi đáp;
- “Nghe nói trước đây gian phòng nầy
dành cho ông Tư Sinh ở. Ông hay đặt cách ngôn và viết lên vách để dạy con.
Ông viết nhiều lắm nhưng thợ bên bộ Công qua sửa nhà bôi hết. Còn câu ấy chữ
đẹp và có ý nghĩa răn dạy con cái rất tốt nên Thầy truyền cho thợ phải để
lại.”
Bà kể tiếp:
- “Sau đó Thầy tôi
không làm ở bộ Học nữa tôi lớn lên, lấy chồng là ông Cao Xuân Xang - con trai
cụ Cao Xuân Dục - bạn với Thầy tôi[1].
Nhớ chuyện cũ có lần tôi hỏi nhà tôi:
- “Anh có biết ông Tư Sinh đã từng ở
trong bộ Học - nơi anh ở trước đây không?”
Ông nhà tôi đáp:
- “Biết rõ. Ông Tư Sinh là người
cùng quê Nghệ An với mình, năm Ất mùi (1895) ông có nhận học điền của họ Cao
Xuân (Diễn Châu) để vào Kinh thi Hội, đi một lần với anh Cả[2].
Nhưng khoa đó ông không đậu. Cho mãi đến khoa Tân sửu (1901) ông mới đỗ Phó
bảng. Sau nầy con ông là Nguyễn Sinh Côn học sinh trường Đông Ba và trường
Quốc Học cũng được họ Cao Xuân cấp học điền. Gia đình ông Phó bảng có nhiều ân
nghĩa với gia đình mình.”
Tôi (Sư bà Diệu Không) có cái tính hay
hỏi nên hôm đó tôi đã hỏi ông nhà tôi - “Ai là người Nghệ có chí học hành
thì được họ Cao Xuân cấp học điền chứ có riêng chi cha con ông Tư Sinh mà anh
nói nhiều ơn nghĩa?”. Ông nhà tôi không muốn kể nhưng ông biết tính tôi
cứ đeo hỏi nếu tôi chưa được trả lời đầy đủ. Để khỏi bị “quấy rầy” hơn nữa
ông đã giải thích tiếp: “Năm ấy ông mình[3]đang
chuẩn bị thành lập bộ Học cho Triều đình, thì một hôm ông Phó bảng từ Nghệ An
vào thăm ông. Ông hỏi ông Phó bảng: “Chú Bảng vào Kinh làm chi?”
Ông Phó bảng đáp: “Xin thú thật với
Cụ, từ ngày mẹ các cháu mất, tôi phải nuôi dạy các cháu một mình. Nuôi dạy và
thương yêu các cháu cũng là một cách làm vừa lòng mẹ các cháu dưới suối vàng.
Tôi không rõ các cháu nghe ai xúi giục, các cháu muốn học chữ Tây. Ngoài quê
mình ngặt một điều không có ai dạy và cũng chẳng ai trọng nể việc học chữ Tây
cho nên tôi phải vào Kinh.”
- Ông cười rồi vặn hỏi ông Bảng:
- “Thế chú có biết dưới mắt người Tây những người đỗ đại khoa như chú mà
không làm quan thì làm chi chú biết không?” - Ông Phó bảng ngẫm nghĩ mãi mà vẫn
không tìm được câu trả lời.
Ông mình mới nói tiếp: - “Không làm
quan thì làm giặc đó. Đời nào người Tây để cho chú yên để chú dạy con ở giữa
chốn Kinh kỳ nầy”. Ông Bảng lo lắng: - “Thế cụ bảo cháu phải làm gì?”
Ông dạy: - “Chú phải làm quan”.
Ông Phó bảng phân trần: -“Cái đời làm quan vào lòn ra cúi, cháu không
muốn!”. Ông bảo: -“Thế thì chú không ở đây được.” Ông Bảng van
nài: “Thế thì cụ cho cháu một chức quan mà chẳng ai thèm làm để cháu được
ở đây!”
Thế là ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy
được bổ làm Tư vụ Học chánh (tùng bát phẩm 7-2) và được đến ở ngay trong nhà
của Bộ. Ông Bảng làm Tư vụ nhưng chẳng mấy khi ông chịu làm việc. Suốt ngày
ông uống rượu, ngâm thơ và đặt cách ngôn viết lên vách dạy con cái thôi. Quan
lại và nhân viên chung quanh ông rất khó chịu trước thái độ của ông. Sở dĩ
không ai dám nói ra điều gì vì họ nể ông.
Về sau ông Phan Châu Trinh đi hoạt
động cách mạng bỏ trống chức Thừa biện ở Bộ Lễ lâu ngày, ông Bảng bị chuyển
sang điền khuyết. Từ đó ông được Triều đình cấp cho một gian nhà ở dãy trại
đường Đông Ba”.
Chuyện kể của Sư bà đã giúp tôi thông tin để viết về chuyện cụ
Nguyễn Sinh Huy vào Huế làm quan. Thông tin nầy chưa từng được phát hiện nên
tôi đã phải ghi chép xong rồi đem đọc lại cho Sư bà nghe. Sư bà sửa chữa
nhiều lần rồi tôi mới dám đưa vào cuốn sách Đi
tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế (Nxb Văn Học tái bản năm 2003).
2. Phật giáo cứu dân
Và Sư bà cũng kể những hoạt động của Phật tử Sài Gòn trước và
sau ngày 30-4-1975 để tôi viết báo. Sư bà dạy tôi:“Kháng chiến lo cứu
nước, mình là Phật giáo còn phải hoạt động cứu dân. Không những cứu bớt đổ
máu, cứu những đổ nát mà còn phải cứu thoát ra khỏi sự sợ hãi để hưởng thống
nhất hoà bình an lạc!”
Tôi rất thấm thía lời dạy của Sư bà. Đây không phải là một lời
nói, một khẩu hiệu suông mà cả một thực tế rất quý báu. Suốt những năm chiến
tranh, sau các cuộc giao tranh diễn ra ở vùng nông thôn, nhiều xác cán bộ, bộ
đội du kích cách mạng…không may nằm lại giữa ruộng đồng, dân chúng, và người
thân của liệt sĩ ít người dám ra mặt nhận xác về chôn. Gặp những tình huống
như thế, các Khuôn hội Phật giáo chắp tay trước mọi hiểm nguy đứng ra đảm
nhận việc chôn cất. Một số nơi còn dựng cả am miếu để thờ người chết trận.
Sau chiến dịch Huế Xuân 1968, nhiều người Huế bị chính quyền VNCH bắt giam
vào lao Thừa Phủ vì bị tình nghi đã cộng tác với Mặt trận Giải phóng. Đến
ngày Rằm tháng bảy năm Mậu thân (1968), Sư bà Diệu Không tổ chức ngày “Xá tội
vong nhân” đứng ra xin Chính quyền VNCH trả tự do cho hàng trăm tù chính trị
chưa xác định được “tội danh” - Một trong những người được trả tự do năm ấy
là anh Hòang Phủ Ngọc Phan. Nếu không được Sư bà “cứu” thì địch đã phát hiện
ra Hoàng Phủ Ngọc Phan một người Cộng sản thứ thiệt ở Huế và chắc chắn không
làm gì còn có nhà báo viết chuyện cười Hoàng Thiếu Phủ sau nầy. Và, anh của
Phan là Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi – ba anh em cùng thoát ly và cùng hoạt động
ở chiến khu Huế - khó lòng được yên ổn để đi cho đến tận cùng cuộc kháng
chiến cứu nước.
Thời gian cuối tháng 4-1975, Sư bà Diệu Không đang ở Sài Gòn.
Ngày nào Phật tử cũng đem đến cho Sư bà những tin tức chiến sự nghe được qua
các đài phát thanh Sài Gòn, Hà Nội, BBC, VOA... Sau khi nghe tin vùng Cao
nguyên và các tỉnh dọc bờ biển miền nam Trung phần từ Huế vô đến Xuân Lộc đã
được giải phóng, đêm 29-4, sân bay Tân Sơn Nhất lại bị pháo kích dữ dội, Sư
bà nghĩ thế nào ngày mai Quân giải phóng cũng vào đến Sài Gòn. Trưa ngày
30-4-1975, Sư bà cho tổ chức các xe phóng thanh chạy khắp thành phố kêu gọi
binh lính Sài Gòn bỏ súng. Tại Đại Học Vạn Hạnh gần cầu Trương Minh Giảng
(nay là đường Lê Văn Sĩ), thanh niên sinh viên Phật tử đeo băng xanh đỏ thiết
lập trạm tiếp nhận súng ống bên cạnh các xe tải cắm cờ Ngũ sắc của Phật giáo.
Những binh lính ở xa nhà, lỡ đường có thể vào tá túc trong các chùa Phật. Bà
vận động các chùa nấu cơm tiếp tế cho dân chúng đang tham gia công tác trên
các đường phố và binh lính Sài Gòn vừa giải giáp. Những việc nầy chưa hề được
ghi lại trong trang sử Giải phóng Sài Gòn 30-4-1975.
Tôi hỏi cảm tưởng của Sư bà trước sự kiện 30-4-1975, Sư bà trả
lời bằng một bài thơ ngắnnói về công ơn Hồ Chủ tịch:
Tặng Việt
Trăm tám năm rồi mới thấy đây,
Tên Người vang dội cả thời nay.
Non sông là vợ
bao tình nghĩa,
Cha của con dân
nước Việt nầy.
3. Thơ kỷ
niệm Hồ Chủ Tịch
Cuối những năm tám mươi của thế kỷ
trước, tôi được Thành ủy Huế mời đóng góp bài cho cuốn sách Bác Hồ Trong Lòng Dân Huế.
Trong tay tôi đã có sẵn bài Ba
Lần Được Gặp Cụ Hồ của
Hòa thượng Thích Đôn Hậu tôi đã ghi được ngay sau ngày Việt Nam thống nhất,
tôi xin bà Tâm Hải Đào Thị Xuân Yến (tức bà Nguyễn Đình Chi) đệ tử của Hòa
thượng Thích Đôn Hậu bổ sung thêm bài Vinh
Dự Lớn Lao. Bà
Tâm Hải bảo tôi:
- «Sư bà Thích nữ Diệu Không» rất
quý trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên xin gặp Bà và đề nghị Bà viết cho một
bài».
Tôi thực hiện ý kiến của bà Tâm
Hải ngay. Nhưng lúc Sư bà Diệu Không lại đi Thành phố Hồ Chí Minh nên chuyện
«xin bài» của Sư bà chưa thành. Sau nầy có dịp lên thăm Sư bà ở chùa Hồng Ân,
tôi kể lại chuyện cũ, Sư bà rất tiếc. Để chứng tỏ gợi ý của bà Tâm Hải là
đúng, Sư bà Diệu Không đứng dậy mở tủ lục trong cặp tư liệu lấy đưa cho tôi
bài thơ Kỷ niệm Hồ Chủ tịch 3 khổ, đánh máy trên nửa trang
giấy Ronéo vàng rộm và một chùm thơ đánh máy trên giấy pơ-luya mỏng. Chùm thơ
16 bài vừa sáng tác vừa dịch, mang tựa đề Thăng
Long Ký Sự.
Kỷ niệm
Hồ Chủ tịch
Giải phóng quê
hương khỏi đọa đày
Chí Người như núi
vững không lay.
Tình người như
nước lan tràn cả,
Kỷ niệm người như
một bậc Thầy.
Bậc Thầy cao cả
của non sông
Cùng với Thuyền
Sư đôi điểm đồng
Cách mạng tình
người về nẻo Chánh,
Phá vòng nô lệ
thoát lao lung.
Lao lung vì chẳng rõ đường ra,
Dẹp hết ma tâm, sạch giống tà.
Cần kiệm thanh cao nuôi Chí lớn,
Lòng thành trong sạch Nước
Tác giả không ghi thời điểm sáng tác bài thơ nầy. Theo văn
cảnh và ý tứ trong thơ thì có lẽ Sư bà đã sáng tác bài Kỷ niệm Hồ Chủ tịchngay
trong những ngày vui đất nước được giải phóng và thống nhất vào cuối tháng 4
đầu tháng 5-1975.
Đối với chùm thơ Thăng
Long Ký Sự, Sư bà ghi
rõ thời gian sáng tác «Mùa thu Bính thìn 1976», trong dịp Sư bà đi thăm miền
Bắc. Trong 16 bài trong Thăng
Long Ký Sự có hai bài
thơ dịch: Bài Cảm Thời của Nguyễn Trải do cụ Cao Xuân Huy
(Giáo sư Bác cổ Hà Nội) sao lục và bài Đi
Chùa của Hồ Chủ tịch do
cán bộ Phật giáo Vũ Ngọc Hồng sao lục tặng Bà. Xin trích bài Đi chùa của của Hồ Chủ tịch
Sơn trung tiều phu xướng
Thủy thượng khách Thuyền quy,
Như thi trung họa họa
Trung thi kỳ họa thi
Thích nữ Diệu Không dịch,
Chú tiều trong núi hát
Khách Thuyền trên sông về.
Như thơ trong bức vẽ
Bức vẽ trong lời thi
(Mùa Thu Bính Thìn 1976).
Trong chuyến đi thăm Thăng Long Hà Nội cuối năm 1976 ấy, Bà đã
đến viếng nhiều cảnh, nhiều người như Thăm
Chùa Xưa, Thăm
Tháp Quảng Đức (chùa
Hòa Giai Hà Nội), Thăm
Tháp Bổn Sư Hồ Chủ Tịch (*), Thăm Trường Quảng Bá, Đêm Thu Trên Hồ Tây, Đi
Thăm Mộ .v.v. và đặc biệt, xin trích bài Sư bà đi
Thăm lăng Hồ Chủ tịch
Dù người còn mất chẳng hề chi,
Thống nhất non sông mới lạ kỳ.
Bất diệt muôn đời đều nhớ rõ,
Những lời Di chúc lúc ra đi.
Tâm và ý của Sư bà đối với Hồ Chủ tịch thể hiện đầy đủ trong
thơ của Sư bà. Qua đó ta thấy tâm và ý của một Ni trưởng Phật giáo khác với
tâm và ý của các nhà yêu nước khác, khác với các vị lãnh đạo cách mạng đối
với Hồ Chủ tịch. Sư bà là một trong những ngưởi biết gia đình Bác từ thuở ấu
thơ. Sư bà không những viết về sự nghiệp cứu nước của Bác mà Sư bà cùng đồng
hành họat động yêu nước, yêu dân với Bác. Tuy nhiên, Bác là người đứng đầu
Cách mạng Việt
Sư bà không phải là người của Bác. Theo Sư bà, Bác Hồ có “đôi
điểm đồng” với Phật giáo. Đôi điểm đồng đó là khát vọng “Giải phóng quê
hương khỏi đọa đày”, là “Cách
mạng tình người về nẻo Chánh/ Phá vòng nô lệ thoát lao lung”. Cách mạng Việt
Gác Thọ Lộc (Huế), tháng 12-2007
[1] Sư bà Diệu Không thế danh là Hồ Thị
Hạnh, sinh năm 1905 (có nơi ghi 1906) em gái út trong gia đình 9 anh chị em
con của cụ Hồ Đắc Trung. Năm 1930 cô Hạnh lập gia đình với Cử nhân Cao Xuân
Xang sinh được một người con trai (Cao Xuân Chuân), hương lửa chưa quá một
năm thì phu quân của bà mất vì bệnh lao. Từ đó bà lao vào việc từ thiện xã
hội, rồi gởi con cho chị nuôi, bà xuất gia đầu Phật với pháp hiệu Thích nữ
Diệu Không. Sư bà đã thành lập nhiều chùa Sư nữ ở miền Nam VN, ba ngôi nổi
tiếng nhất Diệu Đức, Hồng Ân, Kiều Đàm ở Huế.
[2] Tức Cao Xuân Tiếu (1865-1939)
[3] Tức Cụ Cao Xuân Dục thân sinh của Cao
Xuân Tiếu và Cao Xuân Xang.
[*] Chú thích của sachhiem.net: Một vài đọc giả Phật giáo cho
rằng chưa từng nghe chữ "bổn sư" dùng cho người không xuất gia.
Thắc mắc này được tác giả Tâm Hằng Nguyễn Đắc Xuân trả lời như sau: "Đó
là nguyên văn của Sư Bà Thích nữ Diệu Không, nên tôi không thể sửa."
|
11/1/15
Việc nhà, việc nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tâm và ý của Sư bà Thích nữ Diệu Không
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét