Phạm
Đỗ Chí[1]
1. Hai nền kinh tế đó là gì?
Nhiều chuyên gia
ở Việt Nam thường trực theo dõi các nền kinh tế tư bản (hay thị trường) và kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các biến chuyển lý thuyết, với nhiệm vụ chính là
để giữ gìn những đặc trưng cho
nền kinh tế Việt Nam hiện nay được mệnh danh “kinh tế thị trường với định hướng
chủ nghĩa xã hội”. Vài chuyên
gia này có nhiệm vụ chính là cho ra những cảnh báo chính trị ở cấp cao nhất nếu
thấy nền kinh tế thị trường dù chỉ đang phôi thai ở Việt Nam đi “chệch đường”
nghĩa là khác đi với các “nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội”.
Có
quá nhiều giấy mực đã bàn về đề tài trên, nhất là để so sánh những ưu khuyết
điểm của kinh tế thị trường và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi không dám
mạn bàn thêm các vấn đề to lớn này, nhưng khuôn khổ bài ngắn này sẽ đặt vấn đề
một cách khác: Muốn ghi lại vài nhận định thiết thực về hai nền kinh tế thực sự
đang song hành ở xứ ta: nền
kinh tế sinh lợi (dịch từ chữ “profit-making
economy”) và nền kinh tế
đặc lợi (tạm dịch từ “rent-seeking economy”[2], hay còn có thể hiểu nôm na hơn là“tìm
lợi” - hay sát thực tế nhất là “đặc
biệt cho nhóm lợi ích”, theo
các giải thích dưới đây).
Nền kinh tế sinh
lợi chính là nền kinh tế được hướng dẫn bởi các nguyên tắc thị trường, kết quả
của hơn hai thập kỷ Đổi Mới, nôm na là đang được dẫn đầu bởi giới doanh nhân
của nền kinh tế thị trường tìm lợi nhuận (profit) đích thực từ sản xuất bằng
cách kiếm được doanh thu (revenue) cao hơn phí sản xuất (cost) -viết theo phép
số học đơn giản là: lợi nhuận
= doanh thu trừ phí sản xuất. Nền kinh tế này còn bao gồm đại đa số các
thành phần cư dân thành thị làm việc trong các hãng xưởng công tư nhằm mục đích
sinh lợi nhuận (profit) kinh doanh đích thực như định nghĩa ở trên, người làm
việc trong các khu vực sản xuất dịch vụ thật sự theo định nghĩa GDP, hay nông
dân ở tất cả các vùng nông thôn tham dự vào việc sản xuất nông sản vốn là trụ
đỡ của nền kinh tế cả nước qua các thời đại…
Trái lại, nền
kinh tế đặc lợi (rent) không cần thiết phải dựa vào sản xuất mà chỉ đơn giản là
tiền hay lợi (rent) kiếm được do các đặc quyền kinh tế như thế độc quyền sản
xuất (monopoly) hay ưu đãi tín dụng (các công ty nhà nước)…, hay đặc quyền
chính trị như ở vị trí chính trị cao có thể ban phát giấy phép hoạt động kinh
tế trong một chế độ dựa vào xin-cho, hay đặc quyền thông tin như biết trước
những tin tức có lợi cho một hành vi kinh tế hay mua bán (thí dụ biết trước tin
qui hoạch một vùng đất nên trực tiếp chạy đi mua hay cho người nhà/đàn em đi
mua đất trước để bán lại với giá cao hơn nhiều lần lúc thông tin đó được chính
thức công bố cho mọi người biết), hay giản dị nhất là lợi kiếm được nhờ tham
nhũng do ở các vị trí chính trị hay hành chính cao có thể ban phát chức tước,
lợi lộc kinh tế (cấp phép dự án không thông qua các qui luật thông thường, hay
các loại giấy phép xin-cho trong khu vực sản xuất buôn bán v.v…).
Có muôn hình
vạn trạng trong xã hội ta bây giờ về cách tìm đặc lợi mà không dựa vào sản xuất. Sự xuất hiện nhan nhản của các “CÒ”
kiếm tiền trung gian ở khắp nơi và trong mọi địa hạt từ sinh hoạt kinh tế ở mức
phức tạp đến luồn lách pháp luật như “chạy án” hay xin “quotas”, hay để vượt
qua vài thủ tục hành chính hay giấy tờ ở cấp thấp, đơn giản nhất như để vượt
qua các hàng đuôi chờ dài ở các bến xe rạp hát đông người…
Rất khó để định
lượng được chính xác tỷ trọng của hai nền kinh tế song hành này trong nền kinh
tế tổng thể của Việt Nam
bây giờ. Nhưng chỉ có thể tạm ước tính vai trò tương đối của cả hai qua những
thời kỳ kinh tế chính như từ thời bao cấp (trước 1989), đến 25 năm Đổi Mới thực
sự (1991-2006), và sau đó từ 2007 đến nay khi một số nguyên tắc và vận hành căn
bản của kinh tế thị trường lại bị thay đổi bởi ảnh hưởng của các nhóm lợi ích
quan trọng và chi phối quá lớn nền kinh tế quốc gia, khiến nhiều qui luật thị
trường bị thay thế bởi các biện pháp hành chính và sự tái xuất hiện và bùng
mạnh thêm của các Tổng công ty với nhiều đặc quyền ưu thế trong sản xuất và
hưởng phân bổ tín dụng nhưng lại gây những thất thoát tài chính nghiêm trọng
cho quốc gia.
Có thể tạm hình
dung các hình ảnh cùng tỷ trọng tương đối dưới đây của 2 nền kinh tế trên nhằm
mục đích phân tích chính sách, chứ không nhằm định lượng chính xác để hy vọng
bài nói chuyện ngắn này không bị chỉ trích là thiếu luận cứ dữ kiện thống kê
hay tinh thần khoa học nghiêm túc:
- Trong thời bao
cấp trước cải tổ kinh tế: nền kinh tế sinh lợi (hay thị trường) chiếm độ
70-75%, và nền kinh tế đặc lợi 25-30 %;
- Trong thời kỳ
Đổi Mới, nền kinh tế thị trường dù đang giai đoạn phôi thai đã tăng cường vai
trò của các sinh hoạt kinh tế chính thống và nâng tỷ trọng của khu vực kinh tế
sinh lợi lên 80-85% và khu vực kinh tế đặc lợi xuống còn 15-20%;
- Trong thời kỳ
từ 2007 đến nay, khu vực sinh lợi có thể đã rơi xuống còn 65-70% và khu vực đặc
lợi đã chiếm ưu thế mới đến 30-35 %.
Nhưng nghiêm
trọng nhất, bài này không muốn chỉ nói đến vấn đề công bằng hay đạo đức xã hội
khi các nhóm lợi ích hay hưởng đặc lợi về chính trị kinh tế đã hưởng lợi quá
nhiều trong 5-6 năm qua, mà là trên phương
diện hiệu quả chính sách kinh tế--là mục tiêu chính của bài này. Sự thiên
vị hay ưu đãi các nhóm lợi ích (interest groups) và nhóm tìm đặc lợi
(rent-seekers) đã dẫn dắt đến tình hình kinh tế tài chính khủng hoảng hiện tại
với tăng trưởng kinh tế sụt giảm nghiêm trọng (5-6 %, mặc dù công bằng cũng
phải công nhận là do ảnh hưởng một phần của hai năm suy thoái kinh tế thế giới
2008 - 2009), so với 5 năm 2001-2005 (GDP tăng 7 %-8 %).
Nhưng đáng lo
nhất là sự mất cân bằng vĩ mô (macroeconomic disequilibrium) và các mất mát
thua lỗ tài chính khổng lồ (colossal financial losses) của khu vực công trong
vài năm qua. Hai nguyên nhân chính mới đây đã được các chuyên gia phân tích đầy
dủ và sâu sắc:[3]
(i) Nhận xét gần
đây nhất là của TS Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và
Chính sách (VEPR), dựa trên khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư quá lớn, cho rằng “tiết kiệm của Việt
Nam so với thế giới không hề thấp (khoảng 35 %) tuy nhiên tổng đầu tư/GDP của
Việt Nam giai đoạn từ 2006 -2011 lại quá lớn, trung bình đều trên 40%; riêng
năm 2011, do Chính phủ thực hiện chính sách cắt giảm đầu tư công để kiềm chế
lạm phát nên con số này chỉ dừng ở mức 34,6%”. Và “sở dĩ đầu tư của Việt
Nam luôn ở mức cao là do mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa trên mở
rộng đầu tư nhưng chất lượng đầu tư ngày càng giảm, năng suất nền kinh tế không
được cải thiện.”
(ii) Thêm vào
đó, Chính phủ lại tập trung
vào đầu tư công và cho các Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì
hiệu quả đầu tư của khư vực này thấp theo nhiều nghiên cứu khác nhau, kết quả
là làm suy giảm toàn bộ năng suất nền kinh tế, điển hình là làm hệ số ICOR tăng
nhanh từ 4-5 lên 7-8 trong những năm gần đây. TS Vũ Thành Tự Anh cũng đã
dẫn chứng rằng: “Xét về
mức độ phân tán/tập trung của các tập đoàn nhà nước thì Việt Nam cũng xếp
vào hàng “vô địch”. Nếu ở Việt Nam, điểm số này là 6,4 thì Hàn Quốc chỉ là 1,7;
Indonesia là 2,1; Philippines là 3,1; thậm chí Trung Quốc cũng chỉ mức 2,3.” Cũng theo ông, tỉ lệ doanh
số của 10 đại tập đoàn kinh tế Việt Nam trên GDP thuộc loại lớn nhất
thế giới. Cụ thể, tỷ lệ này của Việt Nam lên tới 37,3%, chỉ đứng sau Hàn Quốc
thời gian trước khủng hoảng, còn lại đều vượt xa các nước khác.Thí dụ để so
sánh: Trung Quốc (9,4%), Đài Loan (19%), Indonesia (25%), Brazil (8%),
Argentina (11%) và Mexico (10%).[4]
Nhưng chúng tôi
muốn nhấn mạnh nhiều hơn các vấn đề chính sách tương lai trong phần sau, không
phải đơn thuần là các chính sách có tính “kỹ trị” như tài khóa ngân sách hay
giá cả…theo các thảo luận thông thường, mà là các
vấn đề căn bản hơn về thể chế, về tái lập nguyên tắc thị trường, về khu vực
kinh tế chủ đạo dẫn dắt mới, nói chung về sự thay đổi triết lý và tư duy kinh
tế căn bản để điều hành guồng máy kinh tế mới trong tinh thần một Đổi Mới đợt
II (“Economic Renewal” Mark II).
2. Vài vấn
đề chính sách lớn và khẩn cấp trước mặt
a. Vấn đề đặc lợi của một nhóm lợi ích hay
đặc quyền nhỏ (thí dụ nhan nhản là Vinashin, EVN, hay các DNNN khác sẽ được
điều tra đem ra ánh sáng công luận trong tương lai…) gây nên mất cân bằng vĩ mô
căn bản giữa tổng chi tiêu và để dành, phần lớn do khu vực đặc lợi
(rent-seeking economy), đã gây nên lạm
phát cao ngất ngư trong suốt 6 năm qua (2007-2012) và là một hình thức thuế trá
hình được trả bởi đại đa số cư dân thuộc khu vực sinh lợi (profit-making economy). Hình ảnh tiêu
biểu đau lòng tương phản giữa các đoàn xe lộng lẫy hay các căn hộ cao cấp luôn
tắt đèn bỏ trống sở hữu bởi khu vực đặc lợi, so với một thành phần lớn dân cư
đang phải chạy từng bữa cơm bớt dần thịt cá do ảnh hưởng lạm phát và sống lây lất
ở các vùng ven đô hay nông thôn.
b. Ưu tiên
chính sách số một vẫn phải là giảm lạm phát, không phải bằng cách đẩy lãi suất
lên cao nữa, mà bằng
cách cắt giảm các món chi tiêu công hay bán công khổng lồ vẫn tiếp tục cho các
nhóm đặc quyền dưới tên những Tổng công ty ưu đãi, các dự án “khủng” thiếu hiệu
quả kinh tế nhưng vẫn được theo đuổi do nhóm lợi ích chi phối chính sách, các
chương trình phát triển vùng/cảng/khu chế xuất thiếu hiệu quả kinh tế, tiếp tục
được tài trợ hay hưởng ưu đãi tín dụng do “các nhân vật hay người thân đứng
sau”.
c. Tình trạng đình đốn sản xuất kéo dài
từ 3 năm nay đang kéo theo sự phá sản khủng khiếp của nhiều doanh nghiệp, nhất
là vừa và nhỏ, và gây khốn đốn cho nhiều doanh gia có tim óc thật sự trong khu
vực sinh lợi vì thiếu tiếp cận tín dụng. Dần dà khu vực tư doanh sẽ được thay
thế bởi các DNNN vẫn có ưu tiên tín dụng và chúng ta sẽ trở lại thời xưa khi tỷ
trọng khu vực nhà nước hay nền kinh tế đặc lợi lại có dịp được phình to hơn với
cơ chế xin-cho càng tràn lan thay vì phải thu hẹp dưới Đổi Mới I, bản thân tự
nó đang bị lung lay tận gốc rễ vì các cơ chế thị trường tự do như tín dụng ngân
hàng, lãi suất hay tỷ giá tự do đang bị thay thế bởi các thị trường chợ đen
khác nhau hay biện pháp hành chính thay thế. Ai
có thể nói chúng ta vẫn theo hay đang đẩy mạnh Đổi Mới trong 3-4 năm qua với
các chính sách hiện hữu?
d. Đặc biệt là
các chính sách của NHNN hiện nay nhằm mục đích “chữa cháy ngắn hạn” bằng các
biện pháp hành chính thêm dồn dập hay đã kéo dài khá lâu, được lầm tưởng là
đang có tác động tốt cho bệnh nhân là toàn nền kinh tế hay dân cư được “ngấm
thuốc” sẽ khỏi bệnh, chẳng hạn tỷ giá tạm ổn định, lãi suất đang có chiều xuống
nhờ “trần lãi suất”, phân bổ tín dụng giữa các ngân hàng do NHNN ấn định để cứu
hệ thống ngân hàng hay giúp các “ngân hàng nhỏ”…Thật sự nếu phân tích kỹ thì
các dấu hiệu trên chỉ mang tính cách tạm thời thiếu bền vững.
(i) Tỷ giá tạm
yên năm nay 2013 không phải do “ngấm thuốc” tốt mà thật sự là phản ánh tình
trạng đình đốn sản xuất đang rất nguy kịch kéo dài từ quý 2/2011, khi các dữ
kiện thống kê cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp và ngay cả nông nghiệp tăng
trưởng chậm dần, nhập khẩu sụt giảm hẳn khiến mức nhập siêu hàng năm từ 10-12
tỷ USD từ các năm trước 2011 có lẽ trở thành xuất siêu năm nay.
(ii) Các lãi
suất chính sách và lãi suất huy động trần được giảm mạnh đang đi đúng hướng
theo lý luận trên đây. Nhưng việc tiếp tục duy trì lãi suất trần này cũng như
việc phân bổ trực tiếp mức tăng tín dụng (quotas) cho từng ngân hàng đặt ra
nhiều dấu hỏi cho các quan sát viên kinh tế cả trong và ngoài nước về hiệu quả
thật sự của các cải cách của NHNN. Duy trì lãi suất cho vay trần là tiếp tục
“giết” các ngân hàng nhỏ, vì họ khó huy động vốn nơi các trương mục nhỏ lẻ của
đa số dân cư. Lại một lần nữa, khu vực kinh tế sinh lợi hay thị trường bị thiệt
thòi vì tuân theo luật lệ chính thức được công bố chỉ được trả lãi suất thấp cố
định. Còn khu vực đặc lợi tuy số ít nhưng có nhiều tiền bỏ vào ngân hàng hơn
vẫn được trả trên mức lãi suất chính thức đó.
(iii) Các ngân
hàng lớn chỉ phải trả 5-6% cho vốn huy động của đa số dân cư tìm đến ngân hàng
lớn cho yên tâm, nhưng lại được thả lỏng để cho vay trong thị trường 1 (tức là
với các doanh nghiệp hay tư nhân ngoài hệ thống NH) ở mức thỏa thuận riêng với
mức cao khủng cho NIM (net interest margin—mức lợi biên ngân hàng) theo tiêu
chuẩn quốc tế. Nhờ đó “nhóm lợi ích” gồm vài ngân hàng to lại đang hưởng lợi
ích lớn nữa trên thị trường 2 với các NH khác qua thị trường liên ngân hàng.
Khó nói không hề có chuyện nhóm lợi ích trong hệ thống NH hiện nay khi các biện
pháp hành chính đã làm nảy sinh vô số rủi ro đạo đức (moral hazards).
(iv) Thêm một
biện pháp hành chính nữa từ cuối tháng 2/2011 là việc NHNN áp dụng phân bổ tín
dụng cho từng ngân hàng theo các tiêu chuẩn "riêng", gây ra những
lệch lạc trong thị trường. Một lần nữa, khu vực kinh tế đặc lợi vẫn được hưởng
lợi và chịu thiệt hại là khu vực sinh lợi hay thị trường và đa số doanh nghiệp
vẫn khó tiếp cận tín dụng nên còn nhiều hãng sẽ vẫn tiếp tục phá sản. Đa số dân
cư chỉ được lãi suất huy động trần thấp trong khi các NH lớn cho vay ở mức cao
trên TT 1 cho các doanh nghiệp cần vốn trong khu vực thị trường sinh lợi đang
bàn đến.
e. Vấn đề lớn nữa là cần xem lại vai trò
của chính sách tài khóa để kích cầu bằng cách bội chi ngân sách và vay ồ ạt qua
trái phiếu chính phủ trong năm nay 2013.
f. Vấn đề sau
nữa cho tái cấu trúc kinh tế và chính sách tài chính công là cần đưa mới vai
trò chủ đạo của doanh nghiệp tư nhân thay vì các DNNN. Đây là một quyết định cả chính trị lẫn
kinh tế can đảm nhất trong bối cảnh chính trị hiện tại của VN. Sẽ cần giảm cả
tỷ lệ thu lẫn chi ngân sách so với GDP trong vài năm tới như kim chỉ nam dẫn
đường cho chiến lược kinh tế mới này. Một biện pháp gây sốc nhưng rất quan
trọng là giảm thuế doanh nghiệp từ 25% xuống còn 20% trong bước đầu.
g. Sau cùng,
cố gắng tạo lối ra cho các thị trường chứng khoán và bất động sản bằng sự cải
thiện môi trường vĩ mô bền vững và tìm các nhà đầu tư mới có thể “gây sốc” và
tái lập niềm tin lâu dài cho thị trường và người đầu tu. (xem khung 1).
Khung 1. Lối ra cho các TT Chứng Khoán và Bất Động Sản
v Tình hình kinh tế vĩ mô phải có
bước ngoặt nhanh chóng để gây lại niềm tin là Chính Phủ thực sự sẽ kiểm soát
được tình hình kinh tế vĩ mô.
v Cần giảm lạm phát thêm trong các
quý 1-2/2014 và dẫn đến giảm lãi suất cuối quý 2. Thị trường BĐS cũng sẽ phục
hồi từ từ sau TTCK khi lãi suất có dấu hiệu giảm thực sự.
v Giải pháp tối ưu và khả thi hiện
tại rõ ràng là phải dùng chính sách tài khóa để hỗ trợ thực sự chính sách
tiền tệ nhằm giảm tổng cầu và lạm phát, và từ từ sẽ nới lỏng chính sách tiền
tệ để giảm lãi suất.
v Bất
động sản: cần các cú sốc từ việc tái cơ cấu nền kinh tế và có mặt các nhà đầu
tư mới
v Sau khi thị trường BĐS được khởi
động từ lãi suất, thị trường này chỉ có thể phục hồi nhanh chóng nếu có cú
sốc ào ạt từ các nhà đầu tư mới (thí dụ thực tế nhất và “hấp dẫn” nhất là các
nhà đầu tư Nhật bản đang tìm cách di dời cư dân và nhiều xưởng hãng từ các
vủng bị tsunami và dò rỉ từ trung tâm nguyên tử quanh vùng Tokyo), đây sẽ là
điều gây tác động tâm lý mạnh nhất cho BĐS ở Việt Nam.
v Ngoài ra các chính sách tái cơ
cấu nền kinh tế sẽ tiếp sức mạnh mẽ cho nhu cầu BĐS nếu khu vực tư nhân được
đóng vai trò chủ đạo trong nỗ lực giảm thật sự đầu tư công và vai trò các
doanh nghiệp nhà nước. Việc giảm thuế doanh nghiệp xuống 20% sẽ là bước đầu
cho chính sách này.
|
KẾT LUẬN NGẮN CÙNG ĐỀ XUẤT ĐỊNH LƯỢNG
CHO CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRUNG HẠN ĐẾN 2015
(1) Sau các nhận
định ngắn gọn và thẳng thắn về thực trạng kinh tế đất nước năm 2013, chúng tôi
chỉ muốn đề nghị là nên thay đổi chiến lược căn bản từ cấp chính trị cao nhất
về đường hướng và thể chế của nền kinh tế đến áp dụng ngay các biện pháp cấp
thiết vĩ mô ngắn và trung hạn đến 2015 để tái lập các cân bằng vĩ mô đã mất
trong 6 năm qua từ 2007:
(2) Giảm bớt các đặc quyền và ưu đãi
hiện có của khu vực kinh tế đặc lợi (rent-seeking economy) và nâng cao vai trò
của khu vực doanh nhân tư nhân là đầu máy (locomotive) của khu vực kinh tế thị
trường hay sinh lợi (profit-oriented economy)
(3) Trong tinh
thần trên, tuyên bố chính thức vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế tư nhân thay
vì các DNNN là bước sáng kiến thứ nhất
(4) Giảm gánh
nặng thuế nói chung của nền kinh tế (giảm dần tỷ lệ tổng thu/GDP) và giảm thuế
doanh nghiệp nói riêng từ 25% xuống 20% từ năm nay là bước chủ động thứ hai
(5) Tập trung
việc tái cấu trúc ba ngành kinh tế vào một cơ quan chỉ đạo duy nhất dưới sự đôn
đốc trực tiếp và toàn thì của một Phó Thủ Tướng với sự trợ giúp của các chuyên
gia trong và ngoài chính phủ, cùng với một thư ký đoàn (secretariat) gồm chuyên
viên các bộ liên hệ thuộc loại “trẻ, giỏi” đang có mặt rất nhiều trong các cơ
quan hay trên các diễn đàn kinh tế.
(6) Công bố
chính thức một định hướng bằng số cho các chính sách vĩ mô trung hạn (thí dụ
trong bảng kèm dưới đây) để hướng dẫn về định hướng chính sách mới của chính
phủ và tái lập niềm tin cho các doanh nhân và giới đầu tư.
(7) Cần sự minh
bạch thông tin hơn lúc nào hết, các chỉ số suy yếu kinh tế rất rõ ràng từ khu
công nghiệp và nhập khẩu như bàn trên, và cần cập nhật hóa số tăng trưởng GDP
cho ba năm qua 2011-2013. Tổng cục Thống kê cũng cần giải thích rõ hơn về các
tính toán của mình. Ngoài ra thị trường tài chính vẫn đợi sự công bố chính thức
các số liệu về khảo sát tiền tệ và dự trữ ngoại hối như NHNN đã hứa trước đây.
Bảng
1: Vài chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trung hạn cho 2013-2015
|
||||||
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
Tỷ lệ tăng GDP thực (%)
|
6,8
|
5,9
|
5,1
|
5,0
|
5,5
|
6,0
|
Lạm phát (tăng %)
|
11,7
|
18,2
|
8,0
|
6,5
|
5,0
|
5,0
|
Tỷ giá VND/USD*
|
21.000
|
21.300
|
21.500
|
21.200
|
22.300
|
23.000
|
Bội chi ngân sách (% GDP) **
|
-5,5
|
-4,9
|
-4,8
|
-5,3
|
-5,0
|
-4,5
|
Đầu tư toàn xã hội (% GDP) ***
Đầu tư công/GDP (%)****
|
41,9
18
|
38
15
|
36
14
|
32
13
|
30
11,5
|
30
10
|
Tổng phương tiện thanh toán (%)
|
25,3
|
12
|
12
|
13
|
14
|
16
|
Tổng tín dụng trong nước ( %)
|
29,8
|
14
|
15
|
10
|
10,5
|
12,0
|
Cán cân tài khoản vãng lai (% GDP)
Cán cân thanh toán (tỷ USD)*****
|
-4.4
-3,1
|
-7.1
2,0
|
-4.9
5,2
|
-4.3
9,5
|
-3.9
10,9
|
-3.8
12,7
|
Dự trữ ngoại hối (tỉ USD)
Dự trữ ngoại hối (tuần nhập khẩu)
|
14,0
8,6
|
16,0
7,0
|
17,6
7,9
|
28,1
12
|
38,0
13
|
50,7
14
|
Nguồn: Các số liệu 2011-15 dựa trên các
tính toán ước tính và dự báo của tác giả.
Ghi chú:
1)
Số liệu 2010 là số thực hiện, 2011 là ước thực hiện, từ 2012-2015 là số mục
tiêu
2)
*Tỷ giá tự do vào cuối năm (theo mục tiêu trượt giá 1,5-2% mỗi năm như trong
quá khứ)
3)
**Theo cách tính của Việt Nam
4)
*** Chưa tính đầu tư từ tín dụng ngân hàng
5)
**** Chưa tính đầu tư của địa phương, phần không đưa vào cân đối ngân sách.
6)
***** Cán cân thanh toán tổng thể trong năm 2011-2015 thặng dư tổng cộng
40,3 tỷ USD
[1] Tác giả là chuyên gia kinh tế độc lập.
[2] Chữ “rent” nôm na nhất có thể dịch là “địa tô” trong kinh
tế học, thường được nói đến để chỉ thu nhập của những sở hữu chủ đất đai, là
một trong các yếu tố đầu vào căn bản của sản xuất như lao động (labor),
tư bản (capital), và đất đai (land).
[3] Xin xem “Vì sao bất ổn vĩ mô của Việt Nam kéo dài?, của Khánh Linh (TTVN) trên mạng
cafef.vn, http://cafef.vn/20120321043525142CA33/vi-sao-bat-on-vi-mo-cua-viet-nam-keo-dai.chn,
báo cáo về buổi Tọa đàm “Hướng tới một khung khổ chính sách kinh tế vĩ mô cho
Việt Nam
trong trung và dài hạn” (21/3/2012).
[4] Đã dẫn trên ở chú thích 2.
Tác giả gửi cho viet-st
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét