Ngày 18-02-1998, Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ.
Từ chủ trương
này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn (Pháp lệnh số
34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20-04-2007), Chính phủ ban hành nhiều nghị định
hướng dẫn thực hiện dân chủ trong các loại hình cơ quan, doanh nghiệp... Ngoài ra, còn có nhiều văn bản khác được các
cơ quan liên quan ban hành làm cơ sở điều chỉnh, hướng dẫn thực hiện quy chế
dân chủ ở các cấp, các ngành(1).
Trên cơ sở
các văn bản chỉ đạo liên quan, hướng dẫn của Trung ương, ngày 10-10-2006, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Kon Tum ban hành Chỉ thị số 04-CT/TU về đẩy mạnh triển khai
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp đến, ngày 20-09-2008, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Kon Tum ban hành Kế hoạch số 435/KH-UBND về triển khai thực hiện Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; quy chế dân chủ ở công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn và đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh
nghiệp. Nội dung cơ bản của Chỉ thị và Kế hoạch này là yêu cầu các cơ quan, đơn
vị xây dựng chương trình hành động cụ thể, tổ chức quán triệt nội dung Chỉ thị
số 30-CT/TW cho cán bộ, đảng viên; Đài Phát thanh - Truyền hình phối hợp với
Báo Kon Tum đẩy mạnh tuyên truyền nội dung Chỉ thị 30 bằng tiếng kinh và tiếng
dân tộc… để giúp quần chúng nhân dân hiểu và cùng phối hợp chính quyền thực
hiện cho tốt quy chế dân chủ cơ sở…
--------------------
(1) Như: Chỉ thị số 38/1998/CT-TTg ngày 11-11-1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc triển khai thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan; Thông tư liên tịch
số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-UBTWMTTQVN ngày 31-03-2000 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Văn
hoá Thông tin và Uỷ ban TWMTTQVN hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện quy ước,
hương ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Hướng dẫn số 14/HD-BCĐ ngày
20-01-2005 của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ Trung ương về tiếp tục chỉ
đạo xây dựng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg
ngày 16-11-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế công khai tài
chính đối với ngân sách nhà nước các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các doanh
nghiệp nhà nước và quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của dân….).
Nghị
định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08-09-1998 về quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động cơ quan, Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13-12-1999 về quy chế thực hiện
dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước, Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28-05-2007 về
quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Nhìn chung, việc triển khai thực hiện quy
chế dân chủ được tiến hành đồng bộ ở 03 loại hình: Ở xã, phường, thị trấn; ở công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và ở cơ quan, doanh nghiệp nhà nước.
Qua hơn 13 năm triển khai, đến nay đã có nhiều kết quả, cụ thể:
- Một, hoạt động của các cơ quan
đi vào nề nếp, quy cũ hơn; tạo không khí công khai, dân chủ, khơi dậy được tiềm
năng trí tuệ của cán bộ, công chức, viên chức... Những
quy định về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị; trách nhiệm của cán bộ,
công chức; những điều cán bộ, công chức phải được biết, được tham gia ý
kiến để thủ trưởng cơ quan quyết định; những việc cán bộ, công chức giám sát
kiểm tra; mối quan hệ và giải quyết công việc với công dân, cơ quan, tổ chức;
quan hệ với cấp trên, cấp dưới... cho đến việc thành lập Ban chỉ đạo và ban
hành các văn bản triển khai thực hiện ở từng cơ quan, đơn vị (như Quyết thành thành lập hoặc củng cố, kiện
toàn lại Ban Chỉ đạo; quy chế thực hiện quy chế dân chủ của cơ quan, đơn vị;
quyết định quy chế chi tiêu nội bộ; quy chế về mối quan hệ phối hợp giữa thủ
trưởng cơ quan và Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở...) được lãnh đạo các cơ
quan, đơn vị chấp hành nghiêm túc.
- Hai là, ý thức
trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức đối với công việc được nâng cao,
cơ bản đã khắc phục được tình trạng sợ va chạm, dám thẳng thắn đấu tranh để tạo
động lực thúc đẩy..., đã tác động tích cực đến công tác xây dựng cơ quan trong
sạch, vững mạnh. Lãnh đạo các cấp đã chủ động tổ chức đối thoại trực tiếp
với các tầng lớp nhân dân, thành tâm nghe dân phát biểu nguyện vọng, để kịp
thời giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở. Cùng với đó, các cuộc họp của Hội
đồng nhân dân tỉnh, đặc biệt là các buổi trả lời chất vấn của lãnh đạo các cơ
quan chính quyền được truyền hình trực tiếp để nhân dân theo dõi, tham gia góp
ý kiến và giám sát... đã góp phần tạo nên sự đồng thuận giữa Đảng với dân trong
các quyết sách chính trị có liên quan đến các vấn đề "quốc kế, dân
sinh" ở địa phương. Đó là nền tảng sức mạnh, là động lực bên trong để
chúng ta có thể giải quyết một cách cơ bản, vững chắc những vấn đề tưởng chừng
như chưa thể giải quyết được trong điều kiện trước mắt.
- Ba là,
triển khai thực hiện Quy chế dân chủ trong các loại hình cơ quan đã góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đảng viên; năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; mang lại sự đổi mới quan điểm và
phong cách lãnh đạo theo hướng phát huy tinh thần dân chủ của cán bộ, công chức,
viên chức và dân chủ hóa, công khai hóa mọi hoạt động theo quy định.
- Bốn là, trong tổ chức thực hiện
đã có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, giữa các địa phương; có sự
vận dụng linh hoạt, gắn việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với việc cải cách
thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa; thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm chống lãng phí, nhất là Cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh...
Riêng
đối với loại hình doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần...,
mặc dù trong thời gian qua tình hình kinh tế thế giới suy thoái, nhưng các
doanh nghiệp cơ bản vẫn trụ vững, làm ăn có lãi. Yếu tố quan trọng làm nên những
thành công đó chính là các doanh nghiệp đã công
khai về phương án sản xuất, kinh doanh; phương án sắp xếp lại lao động, tuyển
dụng, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, phân phối lợi
nhuận, trích lập các quỹ, thi tay nghề, bổ nhiệm, đề bạt, quản lý, sử dụng dịch
vụ công… Nhiều đơn vị đã tích cực giải quyết những khó khăn, vướng mắc của
người lao động; xây dựng mối quan hệ lao động đồng thuận, hài hòa, ổn định, tiến
bộ trong doanh nghiệp; xây dựng tác phong, lề lối làm việc theo hướng tạo thuận
lợi cho khách hàng... nhờ đó đã góp phần ngăn ngừa tình trạng độc đoán, tăng
cường sự đoàn kết, kiểm tra, giám sát và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các đơn vị.
Tóm lại, việc triển khai
thực hiện quy chế dân chủ trong các loại hình cơ quan đã có sự chuyển biến tích
cực, đã tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở hơn trong xã hội, quyền làm chủ
của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức được phát huy, niềm tin của nhân
dân vào chế độ được tăng cường, ý thức và phong cách làm việc của cán bộ đảng,
chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có trách nhiệm với
dân hơn, do vậy đã hạn chế phần nào tình trạng khiếu kiện, khiếu kiện đông
người, khiếu kiện vượt cấp… . Có thể khẳng đây là một chủ trương đúng, hợp với
xu thế của thời đại, hợp với nguyện vọng và ý chí của cán bộ, công chức và nhân
dân; đồng thời cho thấy dân chủ hoá các lĩnh vực trong hoạt động cơ quan đã trở thành một động
lực to lớn quyết định trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
Nguyên nhân của thành công trên có nhiều, nhưng theo tôi
nguyên nhân quyết định vẫn là con người. Con người cụ thể ở đây là đảng viên,
cán bộ, công chức, viên chức đã hiểu được những tư tưởng then chốt của quy chế
dân chủ, đã thống nhất được ý chí, hành động nên mới tạo kết quả tốt cho cả một
tập thể.
Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện quy
chế dân chủ trong các loại hình cơ quan trên địa bàn tỉnh Kon Tum vẫn còn bộc
lộ những tồn tại, vướng mắc đó là:
Về tồn tại:
- Một số cấp ủy, chính quyền chưa gắn lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội với xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Vai trò giám sát của mặt trận, các đoàn thể nhiều địa phương chưa tích
cực.
- Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, xây dựng chương trình thực hiện ở
một số cấp ủy, chính quyền chưa được coi trọng đúng mức.
- Việc xây dựng quy chế thực hiện dân chủ ở một số cơ quan còn hình thức,
chưa sát yêu cầu nhiệm vụ đơn vị.
- Trong
lãnh đạo, điều hành của một số cấp ủy, thủ trưởng cơ quan chưa gắn thực hiện
quy chế dân chủ với nhiệm vụ chính trị của đơn vị, nên công tác kiểm tra, đôn
đốc, sơ kết, tổng kết tại đơn vị chưa được coi trọng. Vẫn còn dư luận chê trách
về thiếu tinh thần trách nhiệm, gây phiền hà của một số cơ quan trong giải
quyết công việc với công dân. Nhận thức về dân
chủ và phát huy quyền làm chủ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức cũng
như lãnh đạo các cơ quan, đơn vị còn hạn chế, do đó việc chỉ đạo thực
hiện quy chế dân chủ của các cấp uỷ đảng, chính quyền còn hình thức, thiếu
quyết tâm; một số lãnh đạo ngại không trực tiếp đối thoại, không công khai hoá hết
các hoạt động theo quy định, sợ ảnh hưởng đến quyền lợi cửa mình.
- Một số trưởng thôn, tổ trưởng dân phố năng lực điều hành còn lúng túng,
tinh thần trách nhiệm và tác phong làm việc chưa tốt. Khối lượng công việc tự
quản ở thôn ngày càng nhiều, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố thường thay đổi,
chế độ phụ cấp thấp, nên hạn chế nhất định đến chất lượng điều hành tự quản ở
khu dân cư.
Về những vướng mắc đó là:
- Quy định về các việc phải làm, phải
biết... cho thủ trưởng cơ quan và cán bộ, công chức nhưng lại chưa quy định
biện pháp chế tài kèm theo nên việc chấp hành các quy định này vẫn còn tùy
thuộc khá nhiều vào sự nhận thức, đặc biệt là quan niệm, tính cách của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
- Việc công khai tài chính là một
biện pháp quan trọng để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện quyền giám sát,
kiểm tra nhằm ngăn chặn những sai phạm trong các hoạt động có liên quan... Nhưng
thực tế cho thấy, quy định này vẫn mang tính hình thức. Bởi có không ít cán bộ,
công chức, viên chức ít am hiểu về nghiệp vụ kế toán nên sự tiếp thận những
thông tin này khá thụ động.
Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện đúng thực
chất ? Theo tôi, trong thời gian tới, các cấp, các ngành phải triển khai thực
hiện tốt một số nội dung công việc sau:
Một là, phải kiện
toàn, củng cố, nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở. Đây là vấn đề lớn, không dễ thực hiện trong một
sớm một chiều được, song vẫn phải thực hiện nghiêm túc. Hệ thống chính trị cơ
sở ngay từ bây giờ nếu không được kiện toàn, củng cố, đổi mới, cũng như vai
trò, trách nhiệm của cán bộ cơ sở, nhất là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt, nếu
không tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không ngừng học tập... sẽ bị
đào thải.
Hai là, giáo dục nhận thức
cho cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Công việc này phải
thực hiện thường xuyên, liên tục.
Ba là, tăng cường
công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân, các đoàn thể cùng cấp trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Đây cũng là
một vấn đề rất quan trọng. Bởi vì, đặc điểm chung của hệ thống chính trị nước
ta là quyền lực nhà nước không phân chia mà tập trung thống nhất, có sự phân
công, phân cấp và phối hợp trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Do vậy, các cấp, các ngành, các tổ chức phải có sự phối hợp đồng bộ,
tránh tình trạng có nơi chồng chéo, có nơi bỏ trống địa bàn. Theo tôi, để thực
hiện tốt công việc này, giữa các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ liên quan... phải
đề ra quy chế phối hợp một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch, làm cơ sở cho nhân
dân giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước.
Bốn là, để thực hiện
tốt các việc trên, phải chọn khâu đột phá là công tác cán bộ. Phải thực hiện
chế độ, chính sách đãi ngộ gắn với nâng cao trách nhiệm và công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cơ sở.... Cán bộ có
đủ phẩm chất, năng lực, trình độ mới bố trí vào các chức danh lãnh đạo. Gần
đây, ta chú trọng nhiều đến công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ. Điều đó là
cần thiết, nhưng trong quy hoạch phải tuyệt đối tránh tình trạng “chạy chức” -
bởi đó là mầm mống cho chủ nghĩa cơ hội, thực dụng phát triển.
Năm là, cần phải đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, dân chủ hình thức và tư tưởng cơ hội, cá
nhân chủ nghĩa cũng như lợi dụng dân chủ dẫn đến vô tổ chức, thiếu kỷ cương.
Sáu là, đã đến lúc chúng ta phải sửa đổi, bổ sung các văn bản
quy định về thực hiện quy chế dân chủ theo hướng cần phải luật hóa và cụ thể hóa
các nội dung về thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các cơ quan. Bởi
vì, khi đã luật hóa thì quá trình kiểm tra, xử lý những cá nhân, tập thể vi
phạm phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm minh và sẽ hạn chế được tối đa
những vấn đề, nội dung mang tính hình thức, làm giảm ý nghĩa sát thực trong nội
dung có tính thể chế, cụ thể:
- Phải có quy định về
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan (phải lắng nghe ý kiến, phản ánh, phê bình
của cán bộ, công chức; chịu trách nhiệm về sử dụng tài sản cơ quan, tiết kiện
kinh phí; thực hiện các quy định về công khai tài chính; phối hợp với Công đoàn
tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức).
- Phần quy định về những
điều cán bộ, công chức phải được biết; được tham gia ý kiến trước khi thủ
trưởng cơ quan quyết định; những việc cán bộ, công chức kiểm tra, giám sát.
- Bổ sung phần chế tài về
xử lý các trường hợp mà thủ trưởng cơ quan hoặc cán bộ, công chức vi phạm;
- Có quy định về hệ thống
các chính sách, cơ chế, môi trường làm việc.... để mỗi cán bộ, công chức phát
huy cao nhất được tính dân chủ, sáng tạo để phục vụ công việc chung.
Cuối cùng, liên quan đến thực hiện quy chế chế dân chủ, tôi
cũng đề nghị Trung ương sớm có quy định về cơ chế giám sát, phản biện của xã hội đối với các chủ
trương, chính sách do các cơ quan nhà nước ban hành để cán bộ, công chức thực
hiện nhằm tránh sự lạm dụng, lợi dụng hoặc bị quy chụp khi đề cập đến những vấn
đề nhạy cảm.
Nếu thực hiện tốt những vấn đề
trên, cùng với sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên, tôi tin rằng việc
sửa đổi, bổ sung và triển khai thực hiện quy chế dân chủ trong thời gian tới ở
các cơ quan hành chính sẽ có nhiều kết quả tốt đẹp.
-----------------
Đ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét