22/11/13

ĐỐI THOẠI VỚI BÙI TÍN - Điểm sách "Mặt thật" của Bùi Tín


                                                              California, ngày 02-02-1994

Thân gửi anh Bùi Tín !
Lần đầu tiên tôi được biết đến Bùi Tín là qua tập phim VIỆT NAM : A TELEVISION HISTORY. Lúc đó Bùi Tín trông hơi ốm, ăn nói nhỏ nhẹ, có cảm tình với người xem phim.
Sau khi Bùi Tín bỏ Việt Nam qua Pháp, rồi xuất bản cuốn Hoa Xuyên tuyết, tôi lại được nhìn thấy Búi Tín có mập hơn đôi chút. Đọc hết cuốn Hoa xuyên tuyết, tôi tự nói với tôi: Bùi Tín đã bỏ Đảng cộng sản đi "tìm tự do" nhưng ít ra anh cũng đã không nói xấu hoặc chửi bới những người đã cùng cộng tác với anh trong suốt mấy chục năm qua hoặc các cấp trên của anh. Bởi vì, theo thói thường khi người ta đi tìm một "minh chủ" mới, người ta thường nói xấu những "minh chủ"' cũ để tỏ ra rằng anh đã dứt khoát, để được đón nhận một cách ít ngờ vực hơn ! Bùi Tín còn giữ được một chút khí tiết, kể cũng đáng phục. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự đánh giá của một số người ở hải ngoại, còn đa số những kẻ lưu vong ở hải ngoại quyết "chống cộng" tới người cuối cùng (chống bằng mồm dĩ nhiên) thì lại đã kích Bùi Tín thậm tệ, cho rằng Bùi Tín là kẻ trá hàng, thấy khối Cộng sản Đông âu sụp đổ nên bỏ Cộng sản để hàng phục bọn chúng hầu hy vọng có một chổ đứng trong một tương lai mới. Tôi thấy thương Bùi Tín quá ! Bùi Tín đã từng là kẻ chiến thắng, hiên ngang vào Dinh Độc Lập nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Tướng Dương Văn Minh, nay bị chúng đánh giá hỗn xược như vậy chắc không khỏi đau lòng.
Tuy nhiên, bước chân đã lỡ, không biết sẽ phải làm gì hơn !
Cho đến khi Bùi Tín xuất bản cuốn MẶT THẬT để kể ra hết những cái xấu xa của chế độ Cộng sản miền Bắc và cổ võ cho nhóm dân chủ đa nguyên của Nguyễn Gia Kiểng thì tôi lại thấy thương Bùi Tín hơn nhiều.
Bùi Tín biết rất nhiều chuyện ở miền Bắc và anh đã viết hết ra những điều anh trông thấy và nghe thấy. Anh viết khá trung thực, tuy rằng anh nhấn mạnh ở những lầm lỗi của những nhà lãnh đạo miền Bắc hơn là những công lao của họ để cả cuộc đời vào nhà khám để cố giành giật lại chủ quyền cho dân tộc, chấm dứt nạn nô lệ thực dân sau gần một thế kỷ bị đô hộ. Người đọc sách tìm thấy sự cố ý của tác giả ở điểm này. Và Bùi Tín kết luận là những người lãnh đạo hiện nay (hấu hết đã già) có lầm lỗi nhiều hơn công trạng, những đánh giá của anh có đúng hay không là điều lịch sử sẽ phân tích khách quan.
Tôi là một người sanh ra ở miền Trung nhưng trưởng thành ở miền Nam. Tôi đã từng cầm sũng chiến đấu trong quân đội miền Nam gần hai mươi năm, thương tích của tôi cũng nhiều. Tôi đã được dạy rằng chiến đấu như vậy để chống Cộng sản, xây dựng tự do dân chủ cho quê hương. Nhưng đến khi tôi được biết rằng cái lý tưởng mà họ gán ghép cho tôi chỉ là ngụy tạo, che đậy cho biết bao âm mưu đen tối, thì cả tuổi thanh xuân của tôi đã không còn. Nhìn lại quê hương suốt bao nhiêu năm chinh chiến điêu linh tôi chỉ còn biết khóc.
Cũng như Bùi Tín biết nhiều chuyện ở miền Bắc, tôi được chứng kiến tận mắt, nghe thấy bằng tai biết bao chuyện ở miền Nam. Chỉ khác là tôi không có tài như Bùi Tín để viết lại thành một cuốn sách như cuốn MẶT THẬT của Bùi Tín. Do đó tôi chỉ xin được tóm tắt những điều tôi được biết sau đây. Tôi nghĩ rằng nếu mình chỉ nhìn  thấy một chiều, không có cái nhìn bao quát cho toàn thể những diễn biến xảy ra cho dân tộc Việt Nam suốt một trăm năm qua thì chắc chắn sự đánh giá phải sai lầm.
Nều Bùi Tín chịu khó suy nghĩ sâu một chút thì anh phải thấy rằng kể từ năm 1954 tới nay, trên đấu trường chính trị ở Việt Nam chỉ có hai thế lực đối chọi với nhau mà thôi. Một bên là Đảng Cộng sản được hỗ trợ bởi khối Cộng sản quốc tế và một bên là khối Công giáo, dựa vào sức mạnh của thực dân cướp nước, dựa vào những âm nưu của Tòa thánh Vaticăn và các thế lực đế quốc. Các đảng phái hoặc các giáo phái khác quá yếu kém về tổ chức, quá rời rạc, mặc dầu có lý tưởng cao, nên đã bị thủ tiêu một cách dễ dàng bởi hai đấu thủ chính là Cộng giáo và Cộng sản.
Trước năm 1945, thì chỉ có khối Công giáo là độc quyền chính trị mà thôi. Họ dựa vào thực dân để lớn mạnh. Mặc dầu Đảng Cộng sản đã được thành lập từ năm 1930, nhưng còn ở trong vòng bí mật và bị Đảng Công giáo theo dõi và đàn áp mạnh mẽ. Họ hợp tác với Pháp, làm mật thám cho Pháp để  tiêu diệt Đảng Cộng sản cũng như họ đã làm nhiều năm trước để tiêu diệt các đảng phái quốc gia trong phong trào Văn Thân, Cần Vương và các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học, Trần Cao Vân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám....(những người này là những người yêu nước, không phải Cộng sản).
Năm 1945 là một thời điểm đặc biệt cho Việt Nam. Thực dân Pháp mới bị Đức đánh bại tại chánh quốc chưa phục hồi kịp, ở Việt Nam, chánh quyền thuộc địa bị Nhật xóa bỏ. Vau Bảo Đại mất hậu thuẫn và sợ chết nên vội vàng thoái vị để nhường chánh quyền cho Mặt trận Việt Minh, lúc đó hầu như được toàn dân ủng hộ, trừ những người Công giáo. Người Công giáo tạm thời ở trong tình trạng yếu thế, nhưng họ cũng biết rằng chánh quyền lúc đó cũng còn non yếu nên họ không sợ. Họ siết chặt hàng ngũ, tàng trữ võ khí, lập ra những khu Công giáo tự trị để chờ ngày quân Pháp đổ bộ lên để tái chiếm thuộc địa để họ có thể có hậu thuẫn của thực dân. Quả tình những điều họ tính toán đều đúng cả ! Khi quân đội viễn chinh Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, lần này họ cũng gặp được một điều kiện hết sức thuận lợi là được một đạo quân thứ năm yểm trợ hết mình. Nỗi bất hạnh của dân tộc Việt Nam lại trở lại với chín năm kháng chiến đầy máu và nước mắt.

Cho tới năm 1954 thì sự tương tranh giữa Công giáo và Cộng sản lại càng rõ rệt hơn hết. Miền Bắc không còn một thế lực nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Miền Nam do Công giáo thống trị và họ đã nhanh chóng tiêu diệt hết các thế lực khác: Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên bị đánh tan tành một cách dễ dàng. Nhóm Việt Quốc ở miền Trung có kháng cự lại được đôi chút, nhưng sự tấn công tàn bạo vào chiến khu Ba Lòng của Việt Quốc với cuộc thảm sát rùng rợn đã tận diệt hoàn toàn đảng đối lập cuối cùng. Người Công giáo Việt nam đưa ra một "lý tưởng chống Cộng", lấy cớ để xây dựng tự do - dân chủ. Còn người Cộng sản miền Bắc thì đưa ra "lý tưởng chống ngoại xâm cứu nước".
Không phải tất cả mọi người miền Bắc đều là Cộng sản cả, cũng như không phải tất cả những người miền Nam đều là Công giáo. Nhưng dù muốn dù không, họ đều bị cuốn vào cuộc chiến tương tàn đó và cái thảm kịch đau đớn nhất của dân tộc Việt Nam cũng ở đó mà ra. Thảm kịch đó lại càng làm cho nỗi đau lòng còn tăng thêm mãi khi nghĩ tới biết bao gia đình với cha con, anh em bị bắt buộc chiến đấu ở cả hai phía tàn sát lẫn nhau. Thảm kịch đó lại càng rõ nét hơn hết khi ta biết rằng dân tộc Việt Nam có rất nhiều cơ hội giành độc lập trong tay thực dân Pháp, nhưng những cơ hội đó đã bị người Công giáo làm tay sai cho Pháp, chỉ điểm cho Pháp giết chết hết những người yêu nước (những cơ hội đó là lúc Pháp suy yếu: phải đầu hàng Đức trong trận chiến 1870, thất trận tại Mê-hi-cô, thua Anh quốc, kiệt quệ trong thế chiến thứ nhất, bị Đức đánh bại trong thế chiến thứ hai...). Việt Nam là nước cầm ngọn cờ đầu trong các phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng Việt Nam đã về chót, chỉ vì có những người quyết vùi dập quê hương mình để tôn thờ một quốc gia khác nhỏ bé hơn là quốc gia Vaticăn. Kể từ ngày Hòa ước 1884, đặt đất nước hoàn toàn dưới ách thực dân thống trị có lẽ không ngày nào người Việt Nam không chiến đấu để giành lại chủ quyền. Nếu các phong trào Cần Vương, Văn Thân đã giành được độc lập cho dân tộc thì làm gì có Cộng sản, làm gì có trận chiến tranh mấy chục năm với cảnh núi xương sông máu. Người Công giáo phải chịu tránh nhiệm về những cảnh tan tóc này ! (Xin đọc: VIỆT NAM : WHY DID WE GO của AVRO MANHATTAN).
Có người cho rằng dân tộc Việt Nam có tính quật cường lớn lao, tại sao lại để cho hai tập đoàn thiểu số lôi kéo vào sự chém giết lẫn nhau suốt mấy chục năm rùng rợn như vậy ? Thực ra, cũng có nhiều người biết đến điều đó và họ đã đứng lên nhưng số phận họ ra sao chắc Bùi Tín biết rõ hơn tôi. Bùi Tín có thể cho rằng miền Nam không phải do Công giáo hoàn toàn thao túng mà từ cuối 1963 tới 1965 có sự gián đoạn của chính quyền Công giáo khi Phật giáo đứng lện vận động quần chúng đánh đổ Công giáo và vạch trần âm mưu của các tay sai Vaticăn trong công cuộc "cai thầu chộng Cộng" để lấy tiền của Mỹ và tài nguyên của dân tộc để gởi về Vaticăn. Điều đó có nhiều khúc mắc cần được nói rõ. Phật giáo thật ra không phải là một thế lực chính trị. Năm 1963, Phật giáo bị dồn vào đường cùng với sự đàn áp tàn bạo của Công giáo nên họ bắt buộc phải đứng lên, dù chưa sửa soạn gì cả. Cuộc vùng dậy của Phật giáo tưởng đã bị dập tắt một cách nhanh chóng, với những cảnh xe tăng cán người, những cảnh bắt bớ thủ tiêu, những cảnh tấn công giữa đêm vào tất cả các chùa chiền trên toàn quốc, tàn sát những vị tăng; nhưng Phật giáo đã gặp được một cái may nho nhỏ. Đó là lúc đó kế hoạch nuôi dưỡng chiến tranh để lấy tiền của Mỹ và bành trướng tôn giáo của Ngô Đình Diệm và Vaticăn đã bị bại lộ. Người Mỹ đã bắt đầu tỉnh ngộ và họ đã bị Vaticăn lôi kéo vào một cuộc chiến không chánh nghĩa, một cuộc chiến hao tiền tốn của với biết bao sanh mạng của thanh niên Mỹ sẽ phải bị hy sinh không phải cho quyền lợi của nước Mỹ, nên họ muốn đổi chính sách, không cho Vaticăn và Ngô Đình Diệm lợi dụng nữa. Ngô Đình Diệm lại còn định bắt tay với Cộng sản để hất cẳng Mỹ nữa nên Mỹ phải ra tay trước. "Chế độ Công giáo miền Nam" bị lật đổ trong hoàn cảnh đó. Các nhà lãnh đạo Phật giáo không biết gì về chánh trị cả, cứ tưởng rằng mình có sức mạnh quần chúng, tưởng rằng mình lật đổ được chánh quyền Công giáo. Nhưng họ đã lầm. Người Công giáo mất chánh quyền tạm thời nhưng sức mạnh của họ vẫn còn đầy đủ. Hàng ngũ họ kỷ luật, lại được sự hỗ trợ của Vaticăn, và họ sẵn sàng chịu làm bù nhìn cho ngoại bang, miễn là họ được trở lại cái ghế chánh quyền. Do đó, sau hai năm đầy xáo trộn do Công giáo gây nên (nào gậy gộc xuống đường, nào đảo chính, chỉnh lý, nào hỗn loạn khắp nơi), các nhà lãnh đạo Phật giáo và các tướng lãnh điên đầu đâu biết rằng đó là kế hoạch  kế hoạch gây ung thối để dân chán gét, để dễ trở lại thống trị. Thật vậy, chỉ khi chánh quyền Công giáo trở lại, Miền nam mới hết bị hỗn loạn. Tội nghiệp cho các nhà lãnh đạo Phật giáo, có lý tưởng cao, có hy sinh lớn, nhưng chỉ vì dốt về chánh trị, nên đã bị Công giáo truy kích đến tại hang ổ cuối cùng ở thành phố Huế. Cho đến nỗi mang bàn thờ Phật xuống đường họ cũng không tha, với không biết bao nhiêu người bị sát hại.
Vậy thì trừ một thời gian ngắn đó, Miền nam chỉ có một thế lực là Công giáo. Và chắc Bùi Tín phải đồng ý với tôi rằng cuộc tương tranh giữa Công giáo và Cộng sản đã bắt dân tộc Việt Nam không còn một chọn lựa nào khác: hoặc là chọn Công giáo, hoặc là chọn Cộng sản mà thôi. Nếu cố tình có người không chọn hai thế lực đó, thì số phận của những người này sẽ không khác gì những Nguyễn Thái Học, những Huỳnh Phú Sổ, những Lý Đông A hoặc sau này như những Nguyễn Tường Tam, như Tạ Chí Diệp, như Vũ Văn Mẫu mà thôi.
Thảm kịch của dân tộc Việt Nam là ở chỗ đó. Trong thời gian này chắc Bùi Tín chiến đấu ở miền bắc. Anh có lý tưởng chống ngoại xâm, chiến đấu cho những người dân quê cơ khổ, những người bị áp bức. Tôi chiến đấu ở Miền nam với một lý tưởng được dạy là chống độc tài để xây dựng tự do dân chủ.
Bùi Tín đã viết hẳn một cuốn sách gọi là MẶT THẬT để kể hết mọi chuyện ở Miền Bắc. Tôi biết nhiều chuyện ở Miền Nam, nên tôi nảy ra ý định so sánh những điều anh viết ra với những điều anh biết xem sao.
Thứ nhứt: Là về vấn đề cai trị, Bùi Tín cho rằng Miền bắc công sản có một guồng máy Công an cai trị hết sức khủng khiếp. Guồng máy đó càng lớn thì tự do dân chủ của người dân càng bị thu hẹp. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng Miền nam cũng có những cơ quan mật vụ khủng khiếp không kém. Nào là mật vụ của Ngô Đình Cẩn ở miền trung, mật vụ của Ngô Đinh Nhu, mật vụ của Trần Kim Tuyến, mật vụ của Ngô Đình Thục... những cơ quan mật vụ này có toàn quyền bắt bớ giam cầm hoặc thủ tiêu. Chẳng có tòa án nào xét xử cả. Chẳng có luật sư nào bênh vực cả. Nhà cách mạng Võ Tam Anh, Nguyễn Bảo Toàn đã bị thủ tiêu ra sao? mật vụ trói hai ông rồi cho vào bao bố, chúng dùng gậy đánh co nhừ tử trước khi cột bao bố vào một vật nặng rồi thả xuống sông nhà bè. Nhà cách mạng Tạ Chí Diệp cũng bị giết tương tự. Ông Tạ Chí Diệp là con cụ Tạ Chương Phùng, người đã từng nuôi Ngô Đình Diệm trong lúc hàn vi, thế mà Ngô Đình Diệm đã trả ơn cụ bằng cách giết ông Tạ Chí Diệp chỉ vì ông này tố cáo những âm mưu bất nhân của tập đoàn cần lao Công giáo. Biết bao nhiêu người đã bị thủ tiêu như vậy. Mỗi lần giết được một người đối lập quan trọng, bọn giết người trở về báo cáo với Ngô Đình Nhu đều được Nhu khen “Bien, très biên!” rồi thưởng cho chúng hàng triệu đồng (tiền của ngân sách quốc gia). Còn ở miền trung thì mật vụ  của Ngô Đình Cẩn còn tàn bạo hơn nhiều. Theo tác giả Chu Bằng Lĩnh, người nghiên cứu nhiều về Đảng cần lao Công giáo, thì số người bị thủ tiêu ở Miền trung vào khoảng ba trăm ngàn (300.000) người! Lẽ dĩ nhiên, giết ba trăm ngàn người cộng sản không phải là dễ. Cộng sản khi mạnh thì họ tấn công, khi yếu thì họ rút lui vào rừng sâu núi thẳm, những người bị giết có lẽ chỉ là những người dân vô tội không theo Công giáo hoặc những người có máu mặt bị chúng chụp mũ Cộng sản ròi giết để cướp đoạt tài sản.
Thứ hai là Công giáo miền Nam thường chê miền Bắc không có tự do dân chủ, nhưng những người Công giáo Miền nam đã xây dựng tự do dân chủ ở miền Nam ra sao ! Mọi cuộc bầu cử toàn là bịp bợm với những người đắc cử với số phiếu gần một trăm phần trăm. Quốc hội chỉ toàn một đám nghị gật theo đóm ăn tàn, nịnh bợ Ngô Đình Diệm để được Ngô Đình Diệm ban phát cho những bổng lộc bất chánh.
Còn người dân được hưởng những tự do gì !
Chúng ta hãy lấy một cái tự do ra để so sánh là tự do cư trú. Miền Bắc Cộng sản có chế độ hộ khẩu. Nếu người nào không có hộ khẩu thì chắc chắn là mệt lắm đó. Miền Nam có sổ gia đình. Nếu không có sổ gia đình, đêm đến cảnh sát đến xét nhà cũng rất nguy.
Nhưng nguy khốn nhất là những người ở vùng quê. Họ không được cư trú trong nhà của họ nữa. Nhà ngói, cây mít được ông cha để lại đã nhiều đời, nay họ được lệnh phải bỏ nhà cửa ruộng vườn để vào ở trong những ấp chiến lược. Mỗi ấp chiến lược là một đơn vị chiến đấu có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, có quân đội, có súng ổng, có cảnh sát. Mỗi ấp chiến lược sẽ có một nhà thờ, còn đình chùa miếu mẹo thường ở những nơi am thanh cảnh vắng, xa cách ấp chiến lược và thường là những nơi "oanh kích tự do".
Nhà thờ sẽ là đầu não của mọi ấp chiến lược. Tất cả mọi sinh hoạt tâm linh, y tế, giáo dục, hành chính, kinh tế, an ninh đều diễn ra ở nhà thờ. Không người dân ở ấp chiến lược nào lại có thể từ chối đến nhà thờ được. Nếu có người nào bướng không chịu lễ lạy ở nhà thờ thì tên họ chắc chắn sẽ bị ghi trong một cuốn sổ đen. Ngày mai ra đồng làm việc, chiều về sẽ bị gọi lên chất vấn là trong lúc làm việc ở ngoài đồng đã tiếp xúc với những ai, có liên lạc gì với Việt cộng không ? Một bản án vô hình làm họ điên đầu. Thôi thì đến nhà thờ lễ lạy một chút nào có mất gì ? Lại được cha xứ ân cần vỗ về và công an cũng vui vẻ ngay. Họ trở thành người Công giáo lúc nào họ cũng không biết nữa. Chính sách bành trướng tôn giáo bằng ấp chiến lược là một âm mưu thâm độc của Ngô Đình Diệm, và hắn tự hào tuyên bố là sẽ Công giáo hóa Việt Nam trong vòng vài năm, trong khi những phái bộ truyền giáo Pháp với đầy đủ quyền hành đã chỉ mua chuộc và bắt buộc được độ 4 % dân Việt Nam theo đạo.
Hồng y Spéllman có đến Việt Nam nhiều lần để nhắc nhở Ngô Đình Diệm là "cuộc chiến đấu này là để mở mang nước Chúa". Và Ngô Đình Diệm đã tuân hành một cách triệt để dù có phải giết bao nhiêu người.
May thay ấp chiến lược đã bị thất bại. Người dân quê hương lại được trở về vườn xưa nhà cũ; họ không bị mê hoặc bởi những cái bánh vẽ: lên thiêng đường sau khi chết nữa ! Nhiều người bỏ Công giáo tuyên bố: "Mình thờ cúng cha mẹ mình, việc chó gì phải xin phép thằng râu xồm mũi lõ nào !". Còn Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người đã theo Công giáo từ nhỏ, sau khi đọc kỷ lịch sử giáo hội Công giáo và tìm hiểu kỷ càng, ông tuyên bố: "Cả thế giới đã bị lừa bịp bởi một lời náo láo vĩ đại".
Thứ ba là Bùi Tín viết rằng miền Bắc có nạn sùng bái cá nhân, đi đến đâu cũng thấy nói Bác Hồ vĩ đại, đi đến đâu cũng thấy hình ảnh Karl Marx, Lênin...Nạn sùng bái cá nhân ở miền Nam còn kinh khủng hơn nhiều.
Bài hát "Suy tôn Ngô Tổng thống" bị hát ra rả suốt ngày ở những nơi công cộng. Mỗi xuất hát bóng người ta phái đứng lên chào cờ. Chiếc cờ được chiếu lên màn hình có ảnh Ngô Đình Diệm ở giữa lá cờ. Người ta bị bắt buộc tôn sùng không những Ngô Đình Diệm mà cả anh em ông ta nữa, nhất là Ngô Đình Thục và Ngô Đình Cẩn. Mọi người vào gặp Ngô Đình Diệm, dù là sĩ quan cấp bậc cao đến đâu, dù là Bộ trưởng, Thủ tướng đều phải hết sức khúm núm. Có người phải quỳ gối khi nói chuyện với Ngô Đình Diệm, phải xưng "con", dù lúc đó Ngô Đình Diệm chưa đến tuổi sáu mươi. Cụ Lê Hữu Dản, một người chống cộng rất hung hăng, có tường thuật lại là một hôm cụ vào Dinh Độc Lập gặp Ngô Đình Diệm, cụ thấy có một người đang quỳ xuống nói chuyện với Ngô Đình Diệm, trong đó có Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đang quỳ xuống trình bày đồ án kiến trúc của ông ta dưới mặt đất. Tại sao không để đồ án trên bàn ? Ông Hồ Chí Minh có bắt ai phải quỳ khi nói chuyện với ông ta không ? Mọi người nói chuyện với Ngô Đình Diệm xong khi ra phải đi thụt lùi, không được phép quay lưng lại Tổng thống. Nhiều ngược được chứng kiến một ông Bộ trưởng (Trương Văn Chôm) khi vào chào "cậu" Ngô Đình Cẩn ở miền Trung xong đi ra, ông ta đi giật lùi thế nào mà đụng cái cầm đôn bằng cành khiến cầm đôn đổ bể tan tành. Ông ta sợ hãi xanh máu mặt. May thay, lúc đó cậu Cẩn thấy ngộ nghĩnh, nên cười khoái trá không bắt tội ông ta !
Thứ tư  là Bùi Tín viết rằng anh chưa thấy ở đâu một đảng phái (Cộng sản) lại dùng tiền ngân sách quốc gia để phát triển Đảng. Điều này thì anh quá thật thiển cận. Nếu anh sống ở miền Trung trong thời gian Đảng Cần Lao Công giáo cầm quyền thì anh sẽ thấy đảng Công giáo không những dùng ngân sách quốc gia để phát triển đảng mà còn lấy tiền của quốc gia để gởi về Vaticăn để góp phần vào việc mở mang nước Chúa. Số tiền bị ăn cắp của dân tộc Việt Nam, theo các nhà sử học thuộc nhóm văn - sử - địa và người Mỹ ước tính, là vào khoảng 19 tỷ đô la. Nhưng có lẽ con số đó còn chưa được đúng lắm. Bởi vì, ngoài tài nguyên của dân tộc Vệt Nam, lúc đó Mỹ đổ tiền vào như nước cho bọn cai thầu chộng cộng tha hồ tiêu dùng. Chúng còn dùng tiền của ngân sách quốc gia tưởng thưởng cho những kẻ giết người như đã nói ở trên. Tệ hại hơn nữa, chúng còn dùng tiền để cho bọn cha cố ăn chơi trụy lạc cả ở Việt Nam và ngoại quốc. Trường hợp các linh mục Cao Văn Luận, Thanh Lãnh, Mai Ngọc Khuê là điển hình. Cao Văn Luận dán díu với người đẹp Ngô Thị Như Hà (cô này rất nổi tiếng vì mối tình tay ba Hà - Lãnh - Hồ), rồi đưa nàng sang Chicago mua nhà và cấp dưỡng cho nàng, ngoài ra hắn còn dụ dỗ được mấy nữ sinh trường Đồng Khánh, mang các nàng đi ngoại quốc để dễ dấu điếm. Mỗi lần hắn đi "công du" (bằng tiền của ngân sách quốc gia) là một lần hắn du hí với người đẹp này. Còn Ngô Đình Cẩn và tay chân của hắn là những con quỷ dâm dục, ở Huế không ai là không biết. Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo ở miền Bắc có dán díu với các nữ sinh không ? Có mang các người đẹp đi ngoại quốc để lâu lâu có dịp đi công du không ? Trường hợp Công giáo Nguyễn Văn Thiệu còn ô nhục hơn. Hắn  gian díu với một nữ ca sĩ (Kim Loan) rồi mua nhà cho nàng ở bên Đức. Mỗi lần hắn đi công du ở Đức thì người Đức phài dàn chào tiếp đón hắn tử tế vì hắn là nguyên thủ quốc gia. Nhưng mục đích của cuộc công du là gì thì người Đức thừa biết. Do đó, năm 1973, tên Nguyễn Văn Thiệu đến Đức, Thủ tướng Đức lúc bấy giờ là Wlly Brandt đã phải nói: "Có những khách viếng thăm mà chúng ta không muốn họ đến mà chỉ muốn họ đi cho khuất mắt" (Nguyên văn tiếng Đức : Es glbt Besucher, đie man Beber gehen sicht ais kommen).
Thứ năm là Bùi Tín viết rằng trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã có đến mấy chục ngàn người bị tố khổ, bị kết tội là địa chủ cường hào, ác bá ở thôn quê. Số người bị tử hình và tịch thu tài sản lên tới mấy ngàn, không có luật sư nào bên vực cho họ cả trước tòa án nhân dân. Có nhiều người bị oan ức. Tôi hoàn toàn đồng ý với Bùi Tín về vấn đề này, vì nếu đã có tới mấy ngàn người bị chết tất nhiên phải có người bị oan. Các nhà lãnh đạo Cộng sản cũng đã công nhận là họ đã làm sai và đã sửa sai, tuy rằng sửa sai chỉ đỡ một phần nào, không thể làm sống lại những người đã chết. Lên đến những quy mô lớn như ở Trung Quốc, trong cuộc cải cách ruộng đất và cuộc Cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông đã giết hàng chục triệu người. Còn ở Liên Xô thì Stalin đã giết chết hoặc đầy ải cả 6 - 7 triệu người Nga trong các trại tù ở miền Siberia đầy băng tuyết. Sự giết chóc của Mao Trạch Đông và Stalin thật là khủng khiếp và đã được nhà văn Dương Thu Hương so sánh với sự giết chóc của Tần Thủy Hoàng. Nhưng Dương Thu Hương chưa được biết về sự giết chóc của những người Công giáo của "Tòa thánh" Vaticăn. Nếu so sánh những sự giết chóc của Cộng sản với sự giết chóc của Công giáo thì ta thấy :
Thứ nhất: Người Cộng sản chỉ tiêu diệt những người chống lại họ, những kẻ thù của họ, hoặc những kẻ cường hào ác bá, trong khi người Công giáo giết cả những người không hề chống lại họ, không phải là kẻ thù của họ. Họ chỉ có một tội là không theo Công giáo mà thôi. Trong trận chiến Việt Nam vừa qua, nếu tính con số những người bị Cộng sản giết và những người bị Công giáo giết thì số người bị Công giáo giết nhiều hơn gấp bội. Ngoài con số 300.000 người bị Ngô Đình Cẩn thủ tiêu ở miền Trung kể trên, số người bị giết ở miền Nam không thể đếm được. Nếu ta chỉ ở Sài Gòn thôi thì ta có thể không nhìn thấy. Nhưng nếu về miền quê mới thấy nổi đau khổ của người dân không thể kể sao cho xiết ! Du kích quân Việt cộng có thể phục kích ở một làng xã nào đó rồi họ rút đi, những người dân quê còn lại sẽ là mục tiêu của những sự trả thù của cả đoàn quân mệnh danh là  "Quân đội quốc gia" với cảnh tra tấn, hãm hiếp, giết chóc không thể kể sao cho hết được. Cuối thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70, dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, kế hoạch  Phượng Hoàng của miền Nam được báo cáo là đã tiêu diệt gần được một triệu đảng viên Đảng Cộng sản ở nông thôn. Con số này còn làm tôi đau lòng. Đảng viên Đảng Cộng sản đâu ra nhiều đến thế ! Vả lại, giết họ không phải dễ, có lẽ là những người dân lành bị giết oan mà thôi. Hơn nữa, việc bắn pháo binh bừa bãi vào các làng mạc và các vùng oanh kích tự do, vào các cơ sở văn hóa và tôn giáo không phải Công giáo, là những kế hoạch có tính toán hẳn hoi. Trước khi chạy khỏi miền Bắc, người Công giáo còn cố tình giật mìn sập chùa Một Cột ở Hà Nội vì chùa này là một biểu hiện của một thời cực thịnh của Phật giáo, một thời oanh liệt nhất của dân tộc Việt.
Lên tới những quy mô lớn hơn, về phương diện quốc tế, thì những sự giết chóc của Công giáo lại còn khủng khiếp hơn Cộng sản gấp bội. Mao Trạch Đông và Stalin chỉ là những kẻ tập giết người mà thôi. Ta biết rằng, Chúa Jê-su là người Do Thái, ông tự nhận là con ông trời, nhưng những người Do Thái không tin ông. Thế là ông thù hằn, nguyền rủa và tìm cách tận diệt quê hương đã sinh ra ông. Lúc đó nước Do Thái đặt dưới quyền cai trị của thực dân La Mã. Thay vì đoàn kết dân tộc để chiến đấu thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, ông lại liên kết với thực dân để tiêu diệt đồng bào mình (xin đọc SECRETS OF THE DEADSEA SCROLLS). Rồi trong suốt gần hai ngàn năm, các đệ tử của Jê-su tìm đủ mọi cách để đánh phá tan tành quốc gia Do Thái. Dù dân Do Thái có trốn ra khỏi nước cũng bị theo đuổi, giết chóc ở khắp mọi nơi. Jê-su còn nguyền rủa dân tộc ông: "ngày nào được Do Thái lập lại được thành một quốc gia, thì nhân loại đã đến ngày tận thế" (Điều này sai bét !). Trong trận thế chiến thứ hai, các đệ tử của Jê-su (Giáo hoàng Piô XII) đã toa rập với Hit-le để giết sáu triệu dân Do Thái khắp Âu châu. Sau khi Hit-le bị đánh bại, nhiều người đòi đem Giáo hoàng Piô XII ra tòa án quân sự ở Nuremberg để xét xử như một tội phạm, nhưng Tướng Mỹ Elsenhower không muốn làm nhục mấy chục triệu người Công giáo Mỹ nên đã xí xóa vụ này (xin coi "Hồi ký của Tướng Elsenhower"). Vả lại, Tướng Elsenhower còn cần ve vãn những người Công giáo Mỹ để ông sau này ứng cử Tổng thống. Và quả nhiên ông đã đắc cử Tổng thống Mỹ vào năm 1952.
Suốt cả thời trung cổ, giáo hội Công giáo La Mã làm mưa làm gió ở châu Âu. Họ có xây dựng tự do dân chủ hay không ? Sự thành lập những tòa án dị giáo và sự giết chóc những người ngoại đạo, kể cả Tin Lành cùng thờ một Chúa, trong suốt mấy trăm năm đã trả lời cho câu hỏi đó. Số người bị giết lên đến mấy chục triệu.
Nhưng sự xâm lược châu Mỹ và sự "mở mang nước Chúa" ở châu Mỹ la tinh mới là những trang sử khủng khiếp nhất của Công giáo. Giáo hoàng Alexander VI (xin tìm đọc tiểu sử vị này) cầm bản đồ thế giới ra rồi lấy một cục phấn vẽ một đường chia đôi thế giới cho hai quốc gia con ruột của Tòa thánh Vaticăn là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để hai đứa con này làm nhiệm vụ mở mang nước Chúa.
Các sắc dân Maya, Aztec và Inca ở châu Mỹ xưa sống hiền hòa, không có Bộ quốc phòng. Họ không chống lại ai, không thù hằn ai. Thế nhưng họ đã bị giết chóc một cách hết sức dã man ! Có khi họ đang tế lễ ở một đền thờ thì các đoàn quân mang thập ác ở đâu kéo tới đâm chém hết, chỉ còn vài người khỏe mạnh kịp chạy vào rừng. Những người này vô cùng ngạc nhiện không hiểu tại sạo.
Muốn truyền đạo cho nhanh, La Mã chủ trương giết hết đàn ông, chỉ còn đàn bà con gái để chúng dễ đồng hóa. Nếu Bùi Tín có dịp đi du lịch các xứ nam mỹ châu ngày nay, thì anh sẽ thấy chỉ còn toàn là những người lai mà thôi. Không kiếm nổi một người bản xứ nữa, và Công giáo nay là quốc giáo của các quốc gia ở vùng này. Những trang sử vô cùng đẩm máu đã xảy ra suốt mấy thế kỷ. Nhân dịp kỷ niệm ngày Columbus tìm ra Mỹ châu năm 1993, đài truyền hình PBS (băng tầng số 9) ở Mỹ có kể lại một nông trại ở một vùng gọi là Hispaniola, trong đó có sáu mươi ngàn người dân bản xứ làm nô lệ. Nhiều vị linh mục trực tiếp cai quản nông trại này. Dân chúng bị đánh đập tàn nhẫn, ăn uống thiếu thốn, làm việc vô cùng cực nhọc. Sau 5 năm, chỉ còn khoảng 5.000 người sống sót (do đó họ phải mang nô lệ Phi châu tới thay thế) ! Mà có tới hàng ngàn nông trại như vậy. Các sử gia ước lượng số người bị giết ở châu Mỹ la tinh vào khoảng hơn 100 triệu người. Đây là những việc được làm nhân danh Phúc Âm, nhân danh bác ái.
Thứ hai: Người Cộng sản như Stalin và Mao Trạch Đông dù có giết người sai, nhưng cũng có lúc cũng có người Cộng sản khác công nhận là sai để sửa chữa. Stalin tàn nhẫn thì có Khrushchev kể tội Stalin. Mao Trạch Đông tàn nhẫn thì có Đặng Tiểu Bình xét lại. Những người Cộng sản Việt nam làm sai trong cuộc cải cách ruộng đất, họ cũng biết công nhận là sai để sửa lại, họ cách chức Trường Chinh, xin lỗi và phục hồi danh dự cũng như bồi thường thân nhân những người bị oan ức.
Trái lại, người Công giáo không bao giờ nhận họ sai. Giáo điều của họ là "Tòa thánh Vaticăn không bao giờ sai lầm" ! Sự giết chóc ấy khủng khiếp ở châu Mỹ la tinh đã được các sử gia vạch trần, thế nhưng cho tới năm 1992, Giáo hoàng Jonh Paul II, nhân ngày kỷ niệm Columbus vẫn đọc diễn văn ca ngợi các đoàn quân viễn chinh diệt chủng cho rằng dù có giết hết bao nhiêu người nữa, nhưng họ cũng vẫn đáng được ca ngợi vì đã mở mang nước Chúa ở châu Mỹ.
Ơí Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã tàn hại quê hương ra sao, thời gian cũng chưa đến nổi lâu lắm để người dân có thể quên được. Thế nhưng người Công giáo vẫn tiếp tục xuyên tạc sự thật, chửi bới những nạn nhân của chính họ và tiếp tục ca ngợi Ngô Đình Diệm như một chí sĩ, một chiến sĩ tranh đấu cho tự do. Và họ còn lập cả một nhóm "Phục hưng tinh thần Ngô Đình Diệm" ở hải ngoại nữa. Còn những tên việt gian bán nước bị các vua chúa xử tội ở các thế kỷ trước thì họ coi là những ông "Thánh tử vì đạo". Thật tôi không hiểu sao vẫn có người bị họ lừa bịp. Truyền thống tàn hại Tổ quốc, phá nát quê hương đã có từ thời Jê-su (khi ông phá tan nước Do Thái), nên ta không lạ nếu những người Công giáo quyết tàn phá nước Việt Nam hoặc tìm cách dâng nước cho Vaticăn, nô lệ hóa dân tộc cho những thần quyền và thế quyền đầy xảo trá và dơ bẩn.
Sách lược vủa họ là là mê hoặc giáo dân để xiết chặt hàng ngũ, tạo sức mạnh của sự cuồng tín. Nhờ có nhiều tiền cướp được của nước Việt Nam trong thời thực dân và khi Ngô Đình Diệm còn làm Tổng thống, nay họ tung ít tiền ra nắm giữ được các cơ quan truyền thông, báo chí hải ngoại, để hướng dẫn dư luận thuận lợi cho họ. Nếu người nào nói trái với ý họ thì họ đánh phá tan tành. Thí dụ trường hợp của cụ Đỗ Mậu, nhờ theo Ngô Đình Diệm từ thời còn hàn vi, lại cùng quê với Ngô Đình Diệm, nên được Diệm cho giữ chức Giám đốc Nha an ninh quân đội. Nhờ ở chức vụ này cụ biết rõ những nhơ bẩn khủng khiếp của chế độ Công giáo trị ở miền Nam, nên cụ đã viết lại một cách trung thực cuốn Hồi ký VIỆT NAM MÁU LỬA QUÊ HƯƠNG TÔI, với những tài liệu hết sức chính xác (chắc Bùi Tín chưa đọc ?).

Những người Công giáo rất tức tối. Họ ra lệnh cho các tay sai xuyên tạc chửi bới cụ Mậu rầm trời trên các báo chí hải ngoại; đồng thời những tay sai này phải viết tới gần 20 cuốn sách để đả kích và xuyên tạc cụ Mậu. Chưa thỏa lòng, họ còn tung tiền ra mua hết sách của cụ Mậu để thủ tiêu; đồng thời đe dọa đốt các tiệm sách có bán sách của cụ Mậu. Mục đích của họ là gì ? Là để xuyên tạc lịch sử. Vì khoảng năm  mười năm sau, nếu một sử gia đi tìm tài liệu để viết sử sẽ không tìm thấy cuốn sách của cụ Mậu đâu nữa, trái lại ông ta sẽ tìm thấy rất nhiều sách của Công giáo viết. Và sử gia đó có lẽ phải viết vào cuốn sử của ông như sau: Năm 1963, miền Nam được lãnh đạo bởi một chí sĩ vì dân vì nước, không giết người, dân chúng rất sung sướng, tôn thờ ông ta như một ông thánh; nhưng ông thánh đó đã bị một bọn người ngu xuẩn giết chết ! Trước khi chết, ông còn phán rằng: "Nếu tôi chết, hãy trả thù cho tôi !".
Anh Bùi Tín thân mến,
Tôi đã so sánh một vài điểm chính về việc làm của hai thế lực tương tranh trên quê hương chúng ta trong suốt mấy chục năm qua. Lẽ dĩ nhiên còn nhiều vấn đề nữa mà tôi không thể đề cập hết được, vì nếu viết hết thì tôi sẽ phải viết một cuốn sách dầy hơn cuốn của anh, thôi thì cho là tạm đủ. Bùi Tín có thể nói với tôi rằng: Tôi bỏ Cộng sản để ra ngoại quốc, nhưng tôi đâu có theo Công giáo. Tôi chủ trương xây dựng tự do dân chủ cho đất nước theo phương thức dân chủ đa nguyên đấy chứ !
Thú thực, những điêu anh nói đã có nhiều người làm trước anh từ lâu rồi. Tôi biết họ là những người yêu nước thật sự. Họ có tài có đức hơn anh nhiều. Họ có lý tưởng thật cao. Họ không yêu Công sản và chán ghét Công giáo đến cực độ. Nhưng việc làm của họ không đi đến đâu, vì họ bị cả hai thế lực đánh phá tan tành. Có người chết cho lý tưởng của họ, có người chán nản bỏ về quê vui thú điền viên.
Ơí trong nước, Đảng Cộng sản đang giữ chánh quyền. Công giáo đang củng cố lực lượng một cách âm thầm ở thế nằm vùng chờ ngày Cộng sản suy yếu.

Ơí hải ngoại, người Công giáo tuy ít nhưng họ cũng đã hoàn tất được một chính thể "độc tài hải ngoại". Họ nắm giữ hầu hết các cơ quan truyền thông, dọa dẫm các cơ sở sinh hoạt của Việt kiều và đánh phá những người không theo họ. Ơí xứ Mỹ hoặc Pháp như anh biết, muốn kết tội một người nào là một điều rất khó, phải có bằng chứng cụ thể, phải đưa ra một hội đồng, bàn cãi rất lâu (có khi tới mấy năm) về các bằng chứng đó, với những luật sư bênh vực, xem thực sự người đó có tội thật không, sau đó phải đưa ra tòa với những bản án rõ rệt.
Thế nhưng, khi người Công giáo muốn kết tội ai, họ chỉ việc chụp mũ, chẳng có bằng chứng gì cả, chẳng có bàn cãi gì cả. Sau đó họ thi hành ngay bản án, hoặc bằng cách biểu tình chửi bới hết sức bẩn thỉu (như vụ Thanh Lan), hoặc bằng cách đốt nhà, ám sát (như trương hợp của Đoàn Văn Toại, Dương Trọng Lâm). Ơí một xứ luật pháp nghiêm minh như xứ Mỹ này mà họ còn làm được như vậy. Thật không khác gì các tòa án dị giáo thời trung cổ. Thử hỏi họ sẽ ra sao nếu họ nắm được chánh quyền ở toàn quốc Việt Nam ?
Ở ngoại quốc, khối Công giáo lập ra rất nhiều hội đoàn. Hoặc có nhiều hội đoàn không phải do họ lập ra nhưng họ cố len lỏi vào để khống chế, để nắm quyền lãnh đạo. Tất cả chỉ vì mục đích: trở lại nắm chính quyền ở Việt Nam sau này. Khối dân chủ đa nguyên của Nguyễn Gia Kiềng cũng chỉ là một công cụ của Công giáo mà thôi. Họ đã viết ra một cương lĩnh dân chủ đa nguyên thật hay, thật là hấp dẫn, thật là dân chủ, thật là yêu nước. Tôi đọc bảng cương lĩnh đó cũng phải mê. Nhưng đó cũng chỉ là công cụ để cướp chánh quyền mà thôi. Bởi vì, khi chưa có chánh quyền trong tay thì người Công giáo thường chê trách người Cộng sản là không có tự do dân chủ, làm chư chỉ có họ là những nhà vô dịch xây dựng tự do dân chủ. Nhưng khi họ nắm được chính quyền rồi thì lại khác hẳn. Cương lĩnh đó chỉ là một tờ giấy lộn. Miền nam Việt Nam trước kia chẳng có một Hiến pháp hết sức hay đẹp đó sao ? và Ngô Đình Diệm đã thi hành Hiến pháp đó ra sao chắc tôi khỏi cần nhắc lại.
Thì ra cái cương lĩnh dân chủ đa nguyên đó chỉ là một phương tiện để lừa bịp. Họ đã lừa được khá nhiều người, kể cả những tay cự phách như Trần Thanh Hiệp, như Nguyễn Ngọc Huy, như Bùi Tín. Như vậy, thật không lạ khi họ lừa bịp được các em sinh viên du học ở Tiệp, ở Đức, ở Nga. Những người này vốn bất mãn với Đảng Cộng sản, nay họ viết báo ca tụng Ngô Đình Diệm làm tôi buồn cười quá ! Chẳng khó khăn gì khi họ lừa bịp được những người trong nước chưa có cơ hội biết nhiều về họ, trong đó có thể có cả Dương Thu Hương, Phan Đình Điệu, Nguyễn Huy Thiệp, Thích Huyền Quang....Những người này dù có lật đổ được Cộng sản cũng không nắm được chính quyền. Một cái bành vẽ có thể có thể lừa được mấy trăm triệu người thì nếu ta có bị lừa cũng đừng nên buồn. Người Mỹ mà còn bị Vaticăn lừa nữa: Nhảy vào Việt Nam và bị lỗ hơn ba trăm tỷ đô la còn Vaticăn thì lời. Lâu lâu mới có một người sáng suốt như bác sĩ Nguyễn Văn Thụ. Nhớ lời ông nói: "Cả thế giới bị lừa bởi một lời nói láo vĩ đại". Lời nói láo đó là gì ? Là một lời hứa láo. Bởi vì, tôi cũng có thể hứa với Bùi Tín là, nếu Bùi Tín theo tôi, làm nô lệ cho tôi thì bao nhiêu tội lỗi của Bùi Tín tôi sẽ gành giùm hết. Và lúc chết Bùi Tín được lên thiêng đàng ! Hứa như thế nào có khó khăn gì ? Ai làm không được ?
Anh Bùi Tín thân mến !
Công cuộc xây dựng tự do dân chủ ở Việt Nam có nhiều phức tạp, chứ không giản dị như anh tưởng. Một đứa con nít cũng biết rằng "tự do dân chủ là tốt đẹp hơn độc tài", huống chi là những nhà lãnh đạo của một quốc gia. Thế nhưng, khi tự do dân chủ được dùng như một khí giới để khuynh đảo, để lật đổ thì họ phải dè dặt là điều dễ hiểu. Vả lại, những kẻ hô hào cho tự do dân chủ, một khi họ nắm được chánh quyền rồi họ lại độc tài hơn những người họ đã lật đổ thì sao ? Biết bao xương máu và công sức của dân tộc Việt Nam đã đổ ra để giành lại chủ quyền, thoát ách đô hộ của thực dân, nay chúng ta lại muốn chui vào một ách nô lệ nữa sao ? Một khi người Công giáo nắm được chính quyền rồi thì không có cách gì lật đổ được họ. Họ sẽ giết hết những người chống đối ! Nên nhớ, cuối năm 1963, Phật giáo chỉ gặp may thôi vì chánh quyền non yếu, do các nhà lãnh đạo Phật giáo điều hành trông thật thảm thương trước sự khuynh đảo của người Công giáo. Và Công giáo đã đoạt được chính quyền một cách dễ dàng.
Một định luật của khối Cộng sản là: Khi nào Cộng sản từ bỏ sự chuyên chính của họ là họ chết ngay. Nước Nga chỉ mới xét lại và đổi mới một chút mà đã sụp đổ tan tành. Xô viết liên bang trở thành Xô viết tan hoang. Vaticăn  thật là khoái trá. Không gì khoái bằng những kẻ thù của mình chém giết lẫn nhau. Chính Thống giáo, Hồi giáo đáng giết nhau ở vùng đất Liên bang Xô viết cũ. Họ đang dàn cảnh cả việc giết chết hết những người Hồi giáo ở Bosnia với chủ trương "làm sạch chủng tộc".
Dùng chiêu bài tự do dân chủ, họ suýt nữa lật đổ được cả chánh quyền ở Bắc Kinh. Nếu chánh quyền Trung Quốc không  dẹp bỏ được vụ Thiên An Môn thì nay nước Trung Hoa đã tan tành rồi. Quảng Đông sẽ là một quốc gia độc lập, Kiến Phước, Tứ Xuyên, Vân Nam, Tân Cương, Hải Nam cũng sẽ là những quốc gia độc lập chém giết lẫn nhau. Người lãnh đạo chỉ kém cương quyết và kém sáng suốt một chút thôi thì quốc gia sẽ lâm vào đại họa.

Ngày nay, người Mỹ đã bỏ cấm vận, đã trở lại Việt Nam với một bàn tay thân ái nhưng với một âm mưu vô cùng quỷ quyệt. Họ quyết trả thù cho lần bại trận đầu tiên trong lịch sử của dân tộc họ. Lật đổ được chánh quyền Cộng sản là họ chuyển bại thành thắng một cách dễ dàng. Lần này không dùng quân đội và khí giới, nhưng họ được nhiều thuận lợi nhờ sự hỗ trợ rất tích cực của Vaticăn với đạo quân thứ năm Công giáo hết sức hùng mạnh.

Muốn đảo chính tại một quốc gia nào, điều cần thiết không phải là quân sự mà là sửa soạn tâm tư của dân chúng tại quốc gia đó. Hiện nay, ở Việt Nam tôi thấy có một hiện tượng đáng ngại là dân chúng Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc, ngưỡng vọng người Mỹ nhiều quá. Họ mê Mỹ quá rồi. Họ mê đồng đô la Mỹ, mê âm nhạc Mỹ, mê cách sống Mỹ, mê cả những Việt kiều ở Mỹ về ! Họ mê Cô-ca-cô-la Mỹ, mê thuốc lá Mỹ ! Người Mỹ đã thành công trong công cuộc chuyển hóa nhân tâm của người Việt, kể cả một số lớn đảng viên Cộng sản và họ đi được một phần ba trên đường khuynh đảo. Các đài phát thanh quốc tế như BBC Anh quốc, đài Pháp quốc tự do, đài tiếng nói Hoa Kỳ, đài Á châu tự do đều là những công cụ giúp Mỹ trong công cuộc chuyển hóa nhân tâm này. Sách lược của họ là nói thật 100 % điều, nhưng lâu lâu chỉ nói láo một điều thôi, là người ta sẽ bị mắc lừa vào câu nói láo này ngay ! Các nhà lãnh đạo Việt Nam thật ngây thơ khi để dân chúng bị tuyên truyền quay lại chửi chánh quyền một cách công khai. Họ chỉ là những tay mơ trong một canh bạc bịp. Họ cũng ngây thơ tưởng ve vảng được người Công giáo. Có biết đâu rằng những người Công giáo là những người không chuyển hóa được. Một khi Vatican ra lệnh thì họ thi hành ngay tức khắc, dù có phải nhảy vào biển lửa.
Đạo quân thứ năm của Vatican thật là lợi hại. Chính vì thế, tại các quốc gia Hồi giáo như Alegerie, Tunisie, Lybie.. .khi mới giành được độc lập khỏi tay thực dân, họ phá bỏ ngay các nhà thờ, vì họ biết đây là những công cụ của thực dân xâm lược. Trung Quốc cũng làm tương tự và trong lễ Giáng sinh năm 1993, họ đã ra lệnh cấm dân chúng không được cử hành lễ, không được mua cây thông, không được chăng đèn kết hoa. Âún Độ vừa mới trục xuất hai công ty Côcacola và Pepsy Cola, Vì đây là những ổ gián điệp.
Sách lược xâm lược này  đã đến độ tinh vi không thể tưởng tượng được. Việc làm này không đánh giá đúng mức đều có thể là tai họa. Thí dụ, việc viện trợ thuốc trừ sâu giúp cho nông nghiệp của các quốc gia kém mở mang tưởng  là một hành động hào hiệp, thực chất chỉ là việc loại bỏ những hóa chát độc hại không được phép dùng trong nước nay đem cho các nước khác ! Một cuộc hành quân cứu đói được Liên Hợp quốc cho phép, thực chất là một cuộc xâm lược để nô lệ hóa như ở Sômalia. Đến nổi ngay cả những người đói cũng đành phải cầm súng đứng lên để đẩy lùi cuộc xâm lăng. Ngay cả những hành vi nhân đạo cũng có đầy hậu ý. Lợi dụng những người Việt Nam trong nước nghèo khó, hay những người ở các trại tỵ nạn đang tuyệt vọng, Vatican dùng chính sách "phóng tài hóa thu nhân tâm" để bành trướng tôn giáo. Theo thống kê của họ thì hiện nay có 1000 người Việt Nam được "rửa tội" mỗi ngày.
Một Việt kiều du lịch về nói rằng, có một sĩ quan Công an của Việt Nam nói với ông ta rằng: "sao người Mỹ nhân đạo đến thế. Tôi biết có một cụ già 80 tuổi bị liệt nửa người. Cụ có  năm người con, một người ở Mỹ, bốn người ở Việt Nam. Người con ở Mỹ bảo lãnh cho cụ được "sum họp gia đình". Dĩ nhiên chánh phủ Việt Nam cho phép ngay, vì giữ cụ ở lại cũng chẳng lợi lộc gì. Sang đến Mỹ cụ viết thư về khiến mọi người đều cảm động. Cụ được săn sóc tận tình ngay từ khi đến phi trường. Một chiếc xe Hồng thập tự sạch sẽ với những nhân viên ăn nói hết sức lịch thiệp đưa cụ vào nhà thương. Các bác sĩ chuyên khoa kiểm soát lại bệnh tật của cụ từ đầu. Những cô điều dưỡng xinh đẹp săn sóc cụ kỹ hơn con cụ. Sau đó cụ đưọc đưa về nhà. Lâu lâu nhân viên y tế tới thăm hỏi cụ và sẵn sàng giúp đỡ nếu cụ cần điều gì. Ngoài ra, cụ còn được trợ cấp 650 đô la mỗi tháng. Cụ không tiêu hết, cụ còn gởi được chút đỉnh về giúp bốn người con ở Việt Nam. Sao người Mỹ nhân đạo đến thế. Bởi thấy cụ già đó sang Mỹ chẳng mang đưọc cái lợi lộc gì cho Mỹ cả, trái lại người ta phải hầu hạ cụ, phải mất nhiều thì giờ về cụ, phải tốn tiền vì cụ nữa. Quả tình tôi không hiểu nổi".
Anh Công an không hiểu là đúng, vì anh ở Việt Nam đâu có hiểu tầm quan trọng của dịch vụ quảng cáo. Người Mỹ đã chi ra một số tiền nhỏ để quảng cáo. Họ quảng cáo cái gì ? Thực rằng họ quảng cáo cho lòng nhân đạo của nước Mỹ (dù nhân đạo thật hay nhân đạo giả). Anh Công an đã phục họ nhân đạo. Cái mà người Mỹ muốn là gì ? Thực rằng là sự chuyển đổi tâm tư của người Công an, cũng như bao nhiêu người khác nữa. Người ta ngưỡng vọng Mỹ là vì thế ! Một mai khi người Mỹ tổ chức được một cuộc đảo chính, hoặc một cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ ở Hà Nội chẳng hạn, thì anh Công an đó chắc chẳng muốn đàn áp cuộc biểu tình đó làm gì.
Người Mỹ đã dùng cách đó và rất nhiều phương tiện thiện xảo khác nữa để chuyển hóa tâm tư con người (bồn người con cụ già kể trên chắc đã trở thành cái loa tuyên truyền  cho Mỹ). Và họ đã thành công trong việc làm  tan tành khối Cộng sản Đông Âu. Họ suýt làm thành công ở Trung Quốc. Và Việt Nam cũng đang là thí điểm của họ. Một vài người trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những chuyển đổi tâm tư, kể cả những sĩ quan trong quân đội. Điều này do ông Stephen Young, một người Mỹ, kể lại ông sang Việt Nam định tổ chức "Diễn đàn dân chủ". May mắn nhờ những kinh nghiệm ở Đông Âu, ở Trung Quốc, nên tạm thời những nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã thoát hiểm. Nhưng không biết họ se tinh khôn đến bao giờ. Bởi vì, đứng ở hải ngoại nhìn về mới thấy họ có nhiều sơ hở.
Anh Bùi Tín thân mến !
Tôi  xin lỗi đã lang bang nói nhiều ra ngoài chủ đề của bức thư này. Nhưng tôi quả tình vẫn tin tưởng ở một tương lai xán lạng của quê hương. Nhiều Việt kiều du lịch về nói rằng, Việt Nam đang trong tình trạng phát triển rất mạnh. Công cuộc xây dựng rầm rộ ở khắp mọi nơi, vì ở trong nước đã có không khí cởi mở hơn trước nhiều. Thực ra, những nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã vứt hết mớ lý thuyết Cộng sản đi từ năm 1989 tới nay rồi. Họ đã chuyển hóa và chắc chắn rằng chẳng bao lâu Việt Nam sẽ trở thành một con rồng Á châu giống như năm con rồng hiện nay. Nhật Bản, Hồng Công, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Tân Gia Ba là những con rồng Á châu với những phép lạ kinh tế khiến mọi người phải thán phục. Ngay cả ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên cũng đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Những quốc gia này học hỏi kỹ thuật tây phương nhưng không bị tây phương hóa. Họ vẫn giữ tinh thần Á châu cao quý.
Nhưng có một quốc gia không khi nào có thể trở thành một con rồng Á châu được, đó là Phi Luật Tân. Phi Luật Tân đã bỏ Á châu lấy Công giáo làm quốc giáo và tàn sát hơn 1 triệu người Hồi giáo ở đảo Mindanao. Mặc dầu may mắn không bị chiến tranh tàn phá trong suốt mấy trăm năm, nhưng quốc gia đó quả tình không khá. Đi du lịch Phi Luật Tân mới thấy dân chúng thật là đau khổ. Tất cả các Tổng thống của Phi đều do giáo hội Công giáo đưa lên qua những cuộc bầu cử bịp bợm. Chánh quyền toàn do giáo hội Công giáo thao túng. Giáo hội này luôn luôn làm tay sai cho Vatican và có nhiệm vụ vơ vét của cải để chuyển về "Tòa thánh" hầu góp phần mở mang nước Chúa. Do đó, dân chúng đói khổ là điều không lạ. Một hai vị Tổng thống có lẽ cắn rứt lương tâm, không chịu làm tay sai cho Vatican thì bị ám sát (Tổng thống Massaysay). Người Phi Luật Tân không được học lịch sử của mình. Ngay cả cái tên Phillpines cũng là một mối ô nhục cho dân tộc họ, mà suốt mấy trăm năm không có ai dám sửa đổi. Phillpines là do tên của vua Phiilip đệ nhị, một tên vua Tây Ban Nha thực dân hết sức tham vọng, hết sức tàn ác và hết sức dâm đãng. Philip II đã đem quân xâm lược Phi Luật Tân, đặt dân tộc này dưới ách nô lệ và dùng những phương tiện khủng khiếp để Công giáo hóa nước này giống ở Nam Mỹ. Sự tàn ác của Philip II thật không bút nào tả xiết, thế nhưng giáo hội Công giáo Phi Luật Tân vẫn viết trong cuốn sử của dân tộc họ rằng Philip II là một chí sĩ đã mang ánh sáng Phúc Âm tới giáo hóa dân tộc dã man. Suốt 300 năm qua, không lẽ không có một học giả Phi Luật Tân nào nghiên cứu về cuộc đời của Philip II hay sao ? Thưa rằng vẫn có, nhưng những học giả này không dám làm gì vì nạn độc tài Công giáo quá tàn bạo.
Anh Bùi Tín thân mến !
Thơ tôi đã dài, tôi muốn chấm dứt ở đây. Chắc anh cũng thắc mắc là tôi so sánh những điều anh viết về Cộng sản miền Bắc với những điều tôi viết về Công giáo miền Nam để làm gì ? Nếu  phải chọn giữa Cộng sản và Công giáo thì tôi phải chọn ai ? Thực là khó cho tôi !
Chọn Công giáo ư ? Tôi đã biết quá nhiều về họ với những giáo lý bịp bợm, những hành động tàn ác phản dân hại nước suốt bao năm qua.
Chọn Cộng sản ư ? Tôi đã cầm súng chống lại họ suốt gần 20 năm. Tôi đã từng bị Cộng sản cầm tù nhiều năm. Tôi đâu có ưa gì Cộng sản. Nhưng đấy là trường hợp cá nhân của tôi. Tôi không để cho những tức khí nhất thời làm sai lạc những nhận định của tôi về dòng lịch sử của dân tộc, về những nguyên nhân của nổi thống khổ của quê hương suốt hơn một trăm năm qua,  về vấn đề đâu là cứu nước, đâu là bán nước.
Tôi đã quá già không còn chọn lựa được nữa. Nhưng tôi muốn nhờ anh qua bức thư này nói giùm với các bạn trẻ hai điều :
Thứ nhất: Các bạn sẽ là những nhà lãnh đạo tương lai của nước Việt Nam. Các bạn sẽ hết sức cẩn thận vì những mưu mô thâm độc ngụy trang dưới những hình thức hết sức tinh vi. Các bạn phải chịu khó đọc sách nhiều và luôn ghi nhớ những bài học của lịch sử.
Thứ hai: Dù các bạn muốn theo một con đường nào mà các bạn cho là hay nhất, dù các bạn có tôn thờ một giáo điều nào, dù lý tưởng có tuyệt vời đến mấy đi chăng nữa thì con đường đó, lý tưởng đó, giáo điều đó cũng phải đặt dưới quyền lợi và danh dự của Tổ quốc Việt Nam.
Đó là những điều tâm huyết tôi muốn nói với các bạn. Còn riêng tôi chỉ còn có một ước vọng: Đó là tôi sẽ trở về, tôi sẽ trở về để một mai được chết trên mảnh đất quê hương.
Xin cám ơn anh Bùi Tín./.
                                                                               Thân ái.
                                                                     Kính
                                                                                 TRẦN VÂN ANH
Đại tá, cựu sĩ quan quân lực VNCH




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét