Hà Xuân Nguyên
Làng của đồng
bào các dân tộc bản địa ở Kon Tum nói riêng, Tây Nguyên nói chung đều sống theo
nếp tự quản, vận hành trên cơ sở luật tục(1) - theo đó, ngoài Trưởng
làng quản lý chung còn có các bô lão, thầy cúng và những người giỏi về chỉ huy
quân sự thời còn “chiến tranh làng”...
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, cũng như sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền các cấp,
các già làng (và người có uy tín trong cộng đồng) là hạt nhân nòng cốt của tổ hòa giải, đã vận động bà con thực hiện có hiệu quả phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư, Toàn dân tham gia phát
hiện tố giác tội phạm, giáo dục cảm hoá người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư…
Đồng thời, các già làng cũng đã tích cực tuyên truyền, giáo dục bà con nâng cao
ý thức cảnh giác với âm mưu các thế lực thù địch; thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội; thực hiện kế hoạch hoá gia đình; chăm lo
vệ sinh môi trường; thực hiện phong trào khuyến học, vận động học sinh đến
trường... Thông qua những việc làm đó, cộng đồng các dân tộc tỉnh Kon Tum đã gắn bó càng
gắn bó keo sơn hơn, đã đoàn kết càng đoàn kết hơn…, góp phần bồi đắp, hun
đúc nên nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, tiên tiến và đậm đà bản sắc
dân tộc.
Tuy nhiên, trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống dân tộc đang
đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi rất cần có sự góp sức của các già làng. Bởi
gần đây, qua quan sát thực tế chúng tôi thấy rằng, các hiện tượng văn hóa ngoại
lai du nhập có biểu hiện “lệch chuẩn” với thuần phong mỹ tục truyền thống đang được
một bộ phận thanh niên tiếp nhận ngày càng phát triển đáng lo ngại…
Giải pháp để ứng phó với
thực trạng trên đã có nhiều, được nhiều ngành, nhiều cấp triển khai, tôi xin
không nhắc lại, nhưng xin kiến nghị một vài ý nhỏ sau:
1. Đối với các già làng:
- Các cụ đã gương mẫu rồi
càng phải gương mẫu hơn nữa, phải tự nâng cao trình độ bản thân, phải hiểu biết
nhiều về kiến thức xã hội, tự nhiên để dạy và truyền lại cho con cháu không để
mai một văn hóa truyền thống vốn có từ lâu đời; đồng thời
__________________________________________________________
(1). Đó là những quy ước, quy tắc xã hội chỉ dẫn cách đối nhân xử thế, xác định
hành vi tội phạm theo truyền thống văn hóa của cư dân, xác lập hệ thống tôn ti
trật tự, chế định các mối quan hệ xã hội. Luật
tục không chỉ có giá trị khi phân xử mà còn là “kim chỉ nam” khuyên răn, hướng
dẫn nhằm làm cho mọi người sống đúng theo tập tục truyền thống của cha ông
mình.
tiếp tục phát huy những việc đã làm được, làm sao cho
bà con nhân dân một lòng tin Đảng và theo Đảng…;
- Trong bất cứ vấn đề gì, già làng phải là người làm trước cho bà con thấy để
họ tin rồi làm theo; nói đúng như làm, phải đi sâu đi sát cơ sở, biết bà con cần gì... để có cách tuyên
truyền, vận động thích hợp và kịp thời đề đạt những yện vọng của bà con để chính
quyền xem xét, giải quyết một cách thỏa đáng…
2. Đối với chinh
quyền các cấp:
- Để tạo điều kiện cho các già làng làm tốt các nhiện vụ
trên, các cấp chính quyền, các ngành chức năng cần có chính sách hỗ trợ, tùy theo
điều kiện, khả năng cho phép có thể đưa các già làng đi tham quan, học hỏi có
thêm nhiều kinh nghiệm về hướng dẫn bà con thực hành (nội dung đã được các địa phương triển khai, nhưng chưa thường xuyên);
đồng thời định kỳ tổ chức gặp mặt, thông tin một số tình hình liên quan của đất
nước và địa phương cho các già làng biết để làm tốt công tác vận động, tuyên
truyền…
- Liên quan đến già làng, tôi mạnh dạn đề nghị: Đối
với các làng dân tộc nên quy định già
làng kiêm luôn trưởng thôn. Bởi khi đặt ra quy định già làng làm trưởng thôn - theo tôi sẽ có những mặt được cơ bản là:
Thứ nhất,
sẽ tranh thủ được sự ủng hộ của già làng - điều này cũng có nghĩa là đã lôi kéo
được quần chúng trong làng.
Thứ hai, chuyển chế độ hỗ trợ trưởng thôn cho
già làng hưởng (tuy không nhiều) có điều kiện động viên già làng tích cực tham
gia công tác xã hội, đồng thời giảm bớt một đầu mối ở cấp cơ sở. Điều này phù
hợp với chủ trương cải cách mà chúng ta đang thực hiện.
Thứ ba,
quy định già làng làm trưởng thôn cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đang tôn
vinh vai trò già làng, tạo tiền đề trong việc tiếp tục bảo lưu, phát huy các
giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp từng dân tộc cho phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện mới, vừa tạo lập một cơ chế đề kháng hiệu quả chống lại các lai căn
văn hoá không lành mạnh bên ngoài tác động.
Thứ tư, để
già làng làm trưởng thôn là bước đi sáng tạo của chính quyền cơ sở trong việc
vận dụng chỉ đạo của Trung ương vào thực tế địa phương (chứ không phải việc
làm đó là vi phạm pháp luật, không chấp hành quy định cấp trên). Vấn đề này
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tế, hợp với quy luật và đặc điểm vùng
đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ ở Kon Tum mà tôi nghỉ ở cả Tây nguyên hiện
nay.
Thứ năm, về vấn đề kinh phí. Theo quy định
hiện hành, nhiệm kỳ trưởng thôn là 2 năm. Kinh phí chi cho mỗi lần tổ chức họp
dân để bầu trưởng thôn theo tôi ít nhất là 500.000 đồng/thôn, ngân sách chi cho
công việc này sẽ không nhỏ (như tỉnh Kon
Tum có 842 thôn, tổ dân phố, trong đó có 677 thôn dân
tộc. Do vậy, khi tổ chức bầu trưởng thôn chi phí bỏ ra ít nhất là
500.000 đồng/thôn). Bài toàn kinh tế đã đặt ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ
để có cách lựa chọn thích hợp.
Tuy nhiên, bên
cạnh mặt được đã nêu, việc quy định già làng kiêm trưởng thôn cũng có mặt trái
cần nêu ra để thảo luận, trao đổi một cách thẳng thắn, đó là:
Một, hiện
nay có một số già làng tuổi quá cao, sức yếu, không có trình độ, nếu “cơ cấu”
vào làm trưởng thôn sẽ gặp không ít khó khăn. Đối với trường hợp này chính
quyền cơ sở cần linh động, không máy móc, cứng nhắc, tức là xem xét, lựa chọn
vị kế nhiệm già làng tương lai để trao cho chức vụ trưởng thôn.
Hai, thực
tế nhiều làng có nhiều tộc người sinh sống, có thể mỗi tộc người theo một tôn
giáo, già làng cũng theo một tôn giáo nhất định nào đó. Vậy, khi đảm nhận thêm
chức vụ trưởng thôn liệu già làng có sự thiêng lệch chăng ? Theo tôi, vấn đề
này cũng không quá lo lắng. Bởi trưởng thôn chỉ là người truyền đạt, thực thi
nhiệm vụ của cấp trên giao phó, nên cấp trên sẽ giám sát. Nhưng bằng kinh
nghiệm thực tế, tôi tin rằng dù theo tôn giáo nào, dù đại diện cho tộc người
nào, đã là công dân hay tín đồ trong một làng thì ý thức về vai trò trách nhiệm
đối với già làng vẫn không thay đổi.
Ba, hiện nay nhiều nơi trong một làng (làng
ở đây được hiểu là ngang với cấp thôn, tổ dân phố) còn có thêm nhiều làng
nhỏ nữa (ít nhất là 02 làng nhỏ), như vậy có xảy ra mâu thuẫn khi để già
làng làng này nhân danh trưởng thôn qua lãnh đạo già làng làng khác không -
nhất là khi 02 làng không cùng tộc người, tôn giáo ? Điều này có thể xảy ra,
nhưng thực tế số làng có đặc điểm ngoại lệ này rất ít. Nếu có, thì giải quyết
bằng cách để dân tự chọn trưởng thôn hoặc đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết
định thành lập thêm thôn, làng mới (nếu
đủ điều kiện).
Bốn, có ý
kiến nêu rằng, hiện nay nhiều làng không có già làng thì lấy ai làm trưởng
thôn. Tôi cho rằng đây là ngộ nhận. Bởi vì, đã là làng của người dân tộc đều có
già làng, thậm chí có dân tộc còn có cả hội đồng già làng. Sở dĩ chính quyền
“không thấy” già làng là do không sâu sát cơ sở, không biết phát huy được tác
dụng của già làng đối với xã hội, nên không quan tâm. Mặt khác, trong vùng có
đạo vai trò già làng ít được đề cao hơn vai trò của những chức sắc, chức việc
tôn giáo. Như vậy, hướng giải quyết tốt nhất cho tình huống này là để dân và
tín đồ cùng lựa chọn.
Tóm tại, vấn đề nêu ra không mới, song rất thực tế,
rất mong các cấp, các ngành có trách nhiệm liên quan xem xét./.
_________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét