Thạc sĩ Hà Xuân Nguyên
Trong
đạo Công giáo, bên cạnh tổ chức mang tính chất hành chính điều khiển các hoạt động
của giáo hội như: Toà Giám mục, các giáo hạt, giáo xứ, còn có các Dòng tu. Theo
giáo luật, Dòng tu là những cộng đồng tín hữu từ bỏ trần thế để cống hiến trọn đời
cho việc đạo góp phần xây dựng giáo hội để cứu rỗi cho nhận loại. Khi chấp nhận
cuộc sống tận hiến, các tín hữu phải giữ trọn 4 điều khấn: Giữ cuộc đời độc thân
trọn vẹn (Thanh khiết), giữ cuộc đời nghèo khó, không ham của
thế gian (Thanh bần), nghe lời bề trên (Vâng phục), sống trong tình cảm anh em trong một gia đình (Huynh đệ).
Dòng
tu có hai loại sau:
-
Dòng tu theo quy chế Toà thánh: Là những dòng tu lớn, có lâu đời, mang tính chất
quốc tế, có trụ sở đặt tại Rôma (như dòng: Đôminicô, Chúa Cứu thế...). Việc lập
ra các Dòng tu này do Đức Thánh cha quyết định - thường gọi đây là Dòng miễn trừ.
-
Dòng tu theo quy chế giáo phận: Là những dòng tu do Giám mục giáo phận thành lập,
thuộc quyền điều khiển của Giám mục nơi thiết lập và thường chỉ di chuyển trong
một giáo phận (như dòng: Mến Thánh giá, Thánh tâm.....) - thường gọi đây là Dòng không miễn trừ.
Mỗi
Dòng tu đều có hiến chương, quy chế hoạt động và hệ thống tổ chức riêng, thông
thường có 3 cấp: Bề trên dòng (mang tính quốc tế, còn gọi là bề trên cả hay bề trên tổng quyền), Tỉnh dòng (thường là các cơ sở ở trong nước) và
cộng đoàn tu viện ở cơ sở. Các dòng tu theo quy chế giáo phận hay Toà thánh đều
thuộc quyền điều hành của Bộ Tu sĩ thuộc giáo triều Rôma.
*
* *
Tại
giáo phận Kon Tum hiện nay (bao gồm 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum), qua điều tra,
khảo sát, có các Dòng tu sau: Ảnh Phép lạ, Phao lô, Chúa Quan phòng, Mến Thánh
giá, Chúa Cứu thế... với trên 200 nữ tu khấn trọn và trên 100 nữ sinh đang tập
tu (khấn tạm). Riêng đối với Dòng tu Ảnh Phép lạ có trụ sở chính đóng tại số 13
- đường Nguyễn Huệ - thị xã Kon Tum - tỉnh Kon Tum có lịch sử ra đời, phát triển
mang tính đặc thù hơn so với các dòng tu khác, đó là Dòng tu dành cho các phụ nữ
người dân tộc ở Kon Tum, chuyên hoạt động từ thiện và hỗ trợ Toà Giám mục đối với
việc truyền giáo trong vùng đồng bào dân tộc.
1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG TU
"CÁC CHỊ EM ẢNH PHÉP LẠ"
Môi trường truyền giáo
ở Tây nguyên những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đối với giáo hội Công giáo
gặp nhiều khó khăn. Đó là:
- Cuộc truy quét gay
gắt các Trưởng đạo giáo đồ đạo Gia tô
tại Bình Định từ năm 1860 của chính quyền phong kiến đương thời đã bắt được Giám
mục Stêphanô Quenok Thể (Quenok Thể là người khởi xướng việc truyền đạo lên Tây
nguyên, bị bắt năm 1861 và sau đó bị chết trong tù), nên mọi sự liên lạc giữa Tây
nguyên và đồng bằng bị gián đoạn. Hơn nữa, đối với người dân Tây nguyên, tàn dư
của chế độ mẫu hệ còn ảnh hưởng lớn, vai trò của phụ nữ trong cộng đồng luôn được
đề cao (yếu tố chủng tộc, trong khi đó, tôn giáo do các thừa sai Pari đem đến
khác xa với phong tục, truyền thống tín ngưỡng của người dân. Bởi vậy, đây là
những lực cản chủ quan tác động, là bức tường ngăn cách, ít nhiều gây khó khăn
cho các giáo sĩ Pháp.
- Các Linh mục truyền
giáo ở Việt Nam nói chung, tại Tây nguyên nói riêng đã vấp phải sự kháng cự không
riêng gì từ phía người kinh, người thượng chưa theo đạo, mà cả với chính quyền
thân Pháp đương thời. Ông Robert, Đồn trưởng Đăk Psi (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon
Tum ngày nay) đã có những biện pháp quá
cứng nhắc, trấn áp các tín đồ người kinh, xúi dục đồng bào bỏ đạo... đã phần nào
làm giảm uy tín của các vị thừa sai, cũng như của đạo Công giáo đang hiện diện
tại Tây nguyên (vì mâu thuẫn này mà các Linh mục đã xúi dục tín đồ người Xơ đăng
nổi dậy tấn công vào đồn Đăk Psi giết chết Robert vào năm 1901). Mặt káhc, việc
thành lập khối liên minh cánh tả gồm các nhóm: Cộng hoà trung phái, cấp tiến, cấp
tiến xã hội và xã hội chủ nghĩa theo chính sách bài tôn giáo. Dựa vào các phe cánh
tả, các Hội viên Hội Tam Điểm phát động phong trào bôi nhọ các giáo sĩ thừa sai
truyền giáo ở Đông Dương năm 1905 - 1907. Mục đích của việc làm này là để Chính
phủ Pháp chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô lớn đó là việc gây ra sự chia rẽ giữa
người dân tộc vốn tôn trọng các thừa sai để nhằm xây dựng một chính quyền thân
Pháp hơn thân với giáo hội. Ông Gúenot cũng như ông Sabatier vùng Đà Lạt theo
chính sách không cho người kinh lên Tây nguyên và xúi dục cả người kinh Công giáo
phản đối lại các linh mục bằng cách đòi đất nhà thờ lại vì đã xâm phạm đến đất
tư. Uy tín của các giáo sĩ ít nhiều bị lên án.
Như vậy, từ những khó
khăn trên, để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo ở miền Tây nguyên, từ năm 1913,
các nữ tu dòng Mến Thánh giá đầu tiên thuộc giáo phận Đàng trong là các xơ: Kiểng,
Nghề, Lại và Lưu được mời gọi lên phục vụ tại trường đào tạo Iao phu Quenok, và
giúp giáo hội mở các lớp may vá nội trú cho người dân tộc.
Đến
năm 1938, Đức cha Martial Jannin (thường gọi là Đức cha Phước) - Giám mục đại
diện tông toà tiên khởi giáo phận Kon Tum mời các Nữ tử Dòng bác ái thánh Vinh
Sơn người Pháp là: Soeur Joseph Gérente và Soeur Généviève Daras giúp giáo xứ
Phương Nghĩa có trách nhiệm đào tạo tín hữu là học sinh học tập và chuẩn bị
tinh thần cho các em học sinh dâng mình cho Chúa.
Sau
lễ Phục sinh năm 1938, đã có 3 nữ sinh là người dân tộc xin đi tu, sống đời tu,
tập sự đời sống tu trì bằng cách theo các xơ phục vụ bệnh nhân. Ngày
27/11/1938, 3 học sinh này chính thức được làm lễ mang ảnh Phép lạ. Thế nhưng,
do Luật Dòng Nữ tử bác ái thánh Vinh Sơn nghiêm khắc, không thích hợp với lối sống
của tín đồ, nên ít có người tham gia (từ năm 1938 đến năm 1940 chỉ có được 6 nữ
sinh đi tu).
Ngày 22/4/1942, cha
Gioan Sion Khâm (lúc đó là bề trên Dòng thánh Giuse Kin Châu ở giáo phận Qui Nhơn)
được bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Kon Tum đã thấy được thực trạng của công
cuộc truyền giáo trong giai đoạn này nên giao cho nữ tu Marie Gilnert trọng trách
xúc tiến việc thành lập Hội Dòng Ảnh phép lạ. Đến năm 1944, điều kiện cơ bản để
xin Toà thánh phê chuẩn việc thiết lập Hội dòng nữ người dân tộc cho vùng truyền
giáo, nhưng không được chấp thuận (vì Toà thánh cho rằng: Tại Việt nam đã có nhiều hội dòng, các thiếu nữ này nên xin nhập vào các
dòng ấy...). Do vậy, Đức cha Khâm đích thân qua Rôma để gặp Đức Thánh cha để
trình bày mọi vấn đề rõ ràng hơn. Sau thời gian chờ đợi, đến ngày 3/2/1947, Toà
thánh có văiệt nam thư chấp nhận cho giáo phận Kon Tum được thành lập Hội dòng
mới gồm các thiếu nữ người dân tộc. Đến ngày 6/4/1947, Toà Giám mục Kon Tum có
Nghị định thư thiết lập Hội dòng do Đức cha Sion Khân và Cha Nguyễn Văn Cẩn ký
Như vậy, việc hình
thành Hội dòng Tu mang ảnh phép lạ là thành quả của một quá trình chuẩn bị lâu
dài nhằm tiến đến việc xây dựng một đội ngũ cốt cán là thanh nữ đồng bào dân tộc,
tạo nên các hạt giống tốt cho công cuộc truyền giáo về sau.
2. VỀ TỔ CHỨC DÒNG TU "CÁC CHỊ EM ẢNH PHÉP LẠ"
2.1. Tên gọi Ảnh Phép lạ
Lúc đầu, Giám mục
Jannin Phước chọn tên cho dòng là Đức
Trinh nữ Maria vô nhiễm nguyên tội làm quan thầy bổn mạng cho nhóm thanh nữ đi tu và cũng có ý định muốn đặt
cho Hội dòng tương lai tên là: Các con cái
đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội. Đến ngày 6/4/1947, trong Sắc chỉ thành lập
dòng, Giám mục Sion Khâm đã chọn tên dòng là: Filles de la Médaille Miraculeuse, dịch ra tiếng Việt có nghĩa: CÁC CHỊ EM ẢNH PHÉP
LẠ.
Vậy,
Ảnh phép lạ có nghĩa là gì ? Theo giải
thích của các nữ tu và tài liệu chúng tôi có được, thì đây là do Mẹ Maria hiện
ra vào ngày 27/11/1830, tỏ ý với thánh nữ cần làm và phổ biến Ảnh phép lạ có đức trinh nữ Maria đứng
xoè 2 tay ra, chung quanh có ghi hàng chữ: Lạy
Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin cầu nguyện cho chúng con là kẻ chạy đến cùng
mẹ, và mặt bên kia có ghi chữ M
với trái tim. Phép lạ đầu tiên là sự
trở lại vào giờ hấp hối của cựu Tổng Giám mục chống đối giáo hội: Pradk - Giám
mục thành Malimes.
Theo
quan điểm của giáo hội Công giáo Kon Tum, nói đến Ảnh phép lạ là nói đến Đặc ân vô nhiễm nguyên tội, tuyên xưng mẹ là
đấng cứu giúp con cái loài người. Thông thường, hiện nay dân chúng gọi Các chị em Ảnh phép lạ thành Dòng Ảnh phép lạ, và cũng có thể bằng một danh xưng ngắn gọn hơn là Dòng Ảnh vảy.
Ảnh phép lạ là danh xưng của Hội Dòng nữ
tu người dân tộc phục vụ cho anh em dân tộc Tây nguyên (giới hạn ở đây là anh
em dân tộc trong giáo phận Kon Tum), và còn là lời cầu khẩn của các vị chủ chăn
giáo phận xin mẹ Maria biến đổi cả một khối người dân còn mê tín dị đoan, lạc hậu
này được sống văn minh, tiến bộ hơn và thành người con của Thiên chúa sống
trong yêu thương, phục vụ nhau. Các vị chủ chăn cũng xin trao trọn các chị em
trong hội dòng và cả vùng dân tộc cho mẹ Maria như mẹ đã hiện ra vào ngày
27/11/1830 với bà thánh Catarina de Labourê và đã hứa cho những ai mang ảnh mẹ. Hội Dòng ảnh phép lạ chọn ngày lễ
27/11 hàng năm làm Lễ Quan Thầy của toàn hội dòng.
2.2. Mục đích hoạt động của dòng "Các chị em Ảnh phép
lạ"
Hiến
pháp và Nội dung của Dòng có ghi: Ơn gọi mục đích tiên khởi và chính yếu mà Thiên
chúa đã mời gọi và qui tụ các chị em Ảnh phép lạ là thánh hoá bản thân với nhiều hoa quả tốt đẹp hơn là khi họ sống
trong gia đình mình, nhờ các hồng ân mà họ nhận được trong ơn gọi của mình. Đồng
thời, trong báo cáo của Hội dòng gởi cho Toà Khâm sứ Toà thánh Vaticăn tại Việt
Nam ngày 10/6/1971 cũng nói rõ: Mục đích của Hội dòng là tạo điều kiện cho các thiếu nữ Công giáo người dân tộc đạt đến một đời
sống tu sĩ chân thật trong khung cảnh thích hợp với khả năng và tâm tình của họ.
Ở
đây, chúng ta cần lưu ý, việc thánh hoá bản thân hay tạo điều kiện cho thiếu nữ
Công giáo người dân tộc đạt đến một đời sống tu sĩ chân thật cũng vừa là mục đích
tối thượng của giáo hội Công giáo, vừa tạo cơ sở cho việc gây dựng ảnh hưởng của
đạo Công giáo trong vùng đồng bào dân tộc. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, lực
cản chính của các giáo sĩ khi đến Tây nguyên - Việt Nam ở những năm cuối thế kỷ
19 là sự cấm đạo, bắt đạo của chính quyền đương thời, nên ở người Việt Nam việc
chấp nhận văn hoá Công giáo khác với phong tục tập quán truyền thống là rất khó
khăn rồi, chứ chưa nói đến là đồng bào dân tộc. Trước sự mạnh uy lực của quân đội
Pháp, sau Hoà ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn chấp nhận để cho giáo
hội Công giáo Pháp tự do truyền đạo tại Việt Nam. Tiếp đến, khi chính quyền dân
chủ nhân dân ra đời năm 1945, tình hình chính trị lúc này phức tạp, thực dân Pháp
một lẫn nữa quay lại xâm lược nước ta, cuộc chiến xảy ra trên toàn quốc. Tình hình
Tây nguyên lúc này có phần thuận lợi hơn cho giáo hội Công giáo khi tiến hành các
hoạt động truyền giáo. Năm 1908, cơ sở trường đào tạo Iao phu Quenok ra đời để đào
tạo đội gnũ thầy giảng là người dân tộc đi truyền đạo trong vùng dân tộc. Năm
1947, Dòng tu Các chị em ảnh phép lạ ra đời là sự tiếp tục ra đời là một bước
tiếp tục tạo sở cở ổn định bền vững cho sự nghiệp thánh hoá bản thân như mục đích của Dòng đã ghi.
2.3. Bản chất của Dòng tu Ảnh Phép lạ
Dòng
tu Các chị em Ảnh Phép lạ lập thành
một hội dòng truyền giáo, thuộc địa phận, dưới quyền bề trên tổng quyền là Giám
mục giáo phận Kon Tum. Họ tích cực tham gia vào công việc và đời sống của giáo
hội địa phương, cách riêng dạy giới trẻ, viếng thăm các bệnh nhân, phụ giúp các
công việc của sứ vụ truyền giáo theo những chỉ đạo riêng biệt do Giám mục giáo
phận ấn định khi cần thiết.
Như
vậy, sự năng động và sự sống còn của Hội dòng là Truyền giáo. Vấn đề này trong Hiến pháp và Nội qui của dòng có nói
rõ: Việc truyền giáo là mục đích thứ hai
như một vài hội dòng khác mà khẳng định đó là bản chất của hội dòng. Có thể nói, công tác truyền giáo
như bản chất, mục đích chuyên biệt, là động lực cấu tạo thành thiết lập hội dòng.
Cơ sở để đi đến việc thành lập dòng Các chị em ảnh phép lạ là do:
1. Về mặt xã hội: Thời gian đầu,
khi các thừa sai mới đặt chân lên vùng Tây nguyên (1851 - 1888) tình trạng an
ninh không ổn định: Sự xung đột giữa các làng, giữa các dân tộc cướp bóc của cải
và tranh quyền kiểm soát; mêm tín dị đoan, lạc hậu, nền luân lý đạo đức rất ít
thích hợp với niềm tin Kitô giáo. Nhưng các thừa sai đã cố gắng từng bước vận động,
giải thích người dân nên tình trạng xã hội tương đối khả quan hơn.
2. Về văn hoá: Việc các cha cố dùng mẫu
tự Latinh để tạo chữ viết cho các dân tộc tại Tây nguyên mà nhờ đó việc phổ biến
kiến thức kho học tiến bộ cho dân chúng được tiến hành thuận lợi. Sau khi tình
hình an ninh tương đối ổn định, các thừa sai nhận thấy cần tổ chức cho người dân
học văn hoá. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, năm 1908, các vị bề trên vùng truyền
giáo Kon Tum đã thành lập Bol Iao phu, quan tâm chính yếu là dạy giáo lý và đảm
trách việc dạy văn hoá thay cho các linh mục để các linh mục có đủ thời gian lo
mục vụ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vai trò của các nữ tu là rất cần thiết.
Do đó, vị đại diện tông toà, Giám mục Jannin Phước đã mời các nữ tu dòng Mến Thánh
giá ở Gò Thị lên giúp trường Tê Rê Xa thuộc giáo xứ Tân Hương vào năm 1932. Trường
này đã nâg cao học vấn và lối sống văn minh cho người dân tộc. Các thừa sai nhận
thấy rằng các thiếu nữ người dân tộc đã hội đủ điều kiện tinh thần, kiến thức,
khả năng để dấn thân cách trọn vẹn cho công tác đặc biệt là ngành văn hoá. Dựa
vào những thành quả cụ thể đã thu lượm được từ trước mà Giám mục Sion Khâm dẫn
chứng có sức thuyết phục Toà thánh ban phép cho thành lập Hội dòng nữ người dân
tộc để phục vụ cho người dân tộc, trong các buôn làng xa xôi, đặc biệt là cho nữ
giới, cho bà mẹ tương lai.
3. Về y tế: Ngoài nhu cầu dạy chữ cho
thanh thiếu niên, công việc làm cần thiết khác mà bản thân người nữ tu dân tộc
mới giải quyết được lâu bền và mang nhiều thành quả đó là công tác y tế. Tây
nguyên lúc này, ngoài bệnh sốt rét cố hữu còn nhiều thứ bệnh truyền nhiễm khác,
mà tự bản thân các thừa sai không thể đảm trách được.
Đến
năm 1932, Toà Giám mục Kon Tum có 1 chuẩn y viện, với 122 địa điểm phát thuốc,
22 cô nhi viện với 240 cháu mồ côi, một nhà thương phong ở Đăk Kia. Trước nhu cầu
quá lớn như vậy, Giám mục giáo phận Kon Tum nhận thấy cần có bàn tay từ thiện,
hy sinh của các nữ tu người dân tộc lo cho người dân tộc sẽ có kết quả hơn. Đây
là điều kiện cho việc hình thành cộng đồng nữ tu các chị em dòng ảnh phép lạ.
Tuy nhiên, đây là những lý do chính. Bên cạnh những nhiệm vụ trên, Dòng còn có nhiệm vụ huấn nghệ cho giới nữ thanh
niên người dân tộc để họ trở thành những bà mẹ văn minh, gương mẫu, biết giáo dục
con cái; đồng thời, từ những trung tâm giáo dục này các thanh nữ tìm được hướng
đi cho đời sống của mình trong tu viện Dòng Ảnh Phép lạ.
3. Hiến pháp - Nội dung
Ta
có thể nôm na rằng: Hiến pháp định hướng cho tinh thần, hướng đi đeỉ làm sống hội
dòng; Nội duy là qui định những cách thức thực hiện tinh thần, hướng đi của dòng;
Đào tạo thực hiện, ứng dụng Hiến pháp từng giai đoạn, bằng phương pháp thích hợp
vào toàn thể và từng ứng sinh để họ đạt được mục đích thánh hoá bản thân cũng
như phục vụ giáo hội địa phương theo nội quy đã qui định. Cụ thể là:
3.1. Về ơn gọi
-
Ơn gọi của Dòng là thánh hoá bản thân
-
Người sáng lập Dòng là Giám mục Sion Khâm, Đại diện Tông toà Kon Tum và Nữ tu
Marie Gilbert - Dòng Bác ái, được chính thức công bố thành lập ngày 6/4/1947.
-
Tên Dòng: Dòng thuộc địa phận, tên: Các chị em Ảnh Phép lạ
-
Trong Giáo hội: Dòng thuộc Hội Dòng được xem xét, chuẩn y của Toà thánh bằng chỉ
dụ ngày 3/2/1947, và được Đức Giám mục Kon Tum tuyên bố thành lập ngày 6/4/1947.
-
Cuộc đổi đời liên tục: Để Phúc âm hoá bằng tình yêu phục vụ, chị em dòng luôn đổi
đời, thích hợp tiếng gọi của giáo hội và trở nên dấu chỉ thời đại.
-
Tinh thần của dòng: Sống đức tin, vâng phục bề trên và Thiên chúa trong kiêm
nhu và quảng đại, trong trách nhiệm, cách tích cực và liên kết với khổ hạnh.
-
Một đời sống duy nhất: Trong suy ngẫm tin mừng chị em khám phá ra cáhc thức hoàn
toàn được công tác bác ái siêu nhiên và nhân loại.
-
Liên kết với Chúa Kitô: Trong khiễm nhu, đơn sơ, bác ái, kính trọng và quý mến
con người, đặc biệt là đem đến những người bị thiệt thòi cùng khổ và sứ điệp tình
thương cho họ.
-
Tìm Thánh ý Chúa trong mọi người, nhất là phục vụ những người nghèo khổ.
-
Bền vứng trong ơn gọi.
-
Đức Maria, Quan thầy của Hội Dòng: Lễ bổn mạng vào ngày 27/11. Hội Dòng sùng kính
Thánh cả Guise.
-
Bản tính của Dòng: Thuộc địa phận, phục vụ tích cực đời sống giáo hội địa phương,
đặc biệt dạy dỗ giới trẻ, thăm viếng bệnh nhân, giúp các công việc của vùng
truyền giáo theo qui định.
3.2. Đời sống thiêng liêng
-
Luật sống chính là Chúa Jêsu
-
Sống trong bàn tay của Cha trên trời
-
Để Chúa thánh thần hướng dẫn và ý thức mình vâng phục thần khí, trở nên khí cụ
của Ngài
-
Là con cái của giáo hội: Họ có quyền tham dự vào chức Tư tế của Chúa Jê su và
nhờ đức ái, họ làm cho giáo hội được hiện diện trước mặt mọi người.
-
Lời Chúa: Các chị em đọc Tin mừng và học hỏi Tin mừng
-
Phụng vụ: Đời sống Phụng vụ là "trục" của đời sống thiêng liêng và tông
đồ
-
Thánh lễ tạ ơn: Họ tham gia tích cực vào thánh lễ tạ ơn, lắng nghe lời Chúa và
hy lễ Mình - Máu của Chúa Kitô, tưởng niệm cái chết và sống lại của Người, là dấu
chỉ thực hiện duy nhất với giáo hội và cuộc đời của hội dòng.
-
Giờ kinh: Liên kết với Chúa Kitô, giáo hội trong lời ca tụng Thiên chúa
-
Hoán cải: Để đổi đời luôn mãi, các chị em năng chạy đến Bề trên hoà giải với tấm
lòng đơn sơ và phó thác. Để bắt chước Chúa Kitô thập giá và tham dự vào sự khổ
nạn cứu rỗi của Người, các chị em biết quý trọng hãm mình cá nhân.
-
Thực hành các công việc đạo đức.
-
Suy gẫm: Tập suy gẫm, các chị em tìm được ánh sáng đức tin, ý Chúa và tìm được ý
Người trong mọi biến cố.
-
Linh thao: Tĩnh tâm, xem xét lại đời sống Công giáo và tìm đến đời sống trung
thành với đức Kitô.
-
Chuyện trò - thỉnh lặng: Quí trọng thỉnh lặng - chuyện trò trong bác ái, kín đáo
theo nhu cầu của đời sống chung.
3.3. Đời sống chung - Các lời khuyên Tin mừng
-
Đời sống chung: Lời khuyên Tin mừng - Các chị em sống trọng cộng đoàn huynh đệ
và hướng đến bác ái hoàn hảo nhờ thực hành lời khuyên Tin mừng, để thích hợp phục
vụ cho những người bạc phước nhất.
-
Các lời khấn công khai và riêng: Những lời khấn công khai: Các chị em khấn lại từng năm một trước đấng bản quyền hoặc
vị đại diện Ngài, giữ những lời hứa: Khiết
tịnh, nghèo khó và vâng lời theo Hiến pháp và nội quy của dòng.
-
Khiết tịnh tự nguyện
-
Tinh thần từ bỏ
-
Tinh thần siêu thoát
-
Đức khó nghèo tông đồ
-
Đơn giản trong cuộc sống
-
Liên đới trách nhiệm - làm việc
-
Chứng tá của đời sống khó nghèo
-
Vâng phục Thiên Chúa Cha theo mẫu của đức Kitô
-
Đức vâng phục cách tích cực và có trách nhiệm. Tinh thần phục vụ có đối thoại.
Các vị bề trên theo thánh ý Thiên Chúa thực thi quyền hạn của mình trong tinh
thần bác ái và phục vụ, mặc dù sự quyết định thuộc quyền của họ, những tham khảo
các thành viên của cộng đoàn và cố gắng tạo sự hiệp nhất giữa họ, vì hiệp nhất
tình cảm và con tim giúp rất nhiều cho sự hiểu biết và hoàn thành ý định của
Thiên chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét