7/11/13

QUAN ĐIỂM KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO



Thạc sĩ  Hà Xuân Nguyên

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuyên suốt toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Chưa nói đến các tôn giáo nguyên thủy, trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng, có nhiều tôn giáo đang tồn tại, ảnh hưởng sâu rộng trong một bộ phận lớn quần chúng nhân dân.


Nhân loại đã từng có thời kỳ thần quyền tôn giáo thống trị xã hội, chi phối cuộc sống con người không chỉ ở phần hồn mà cả phần xác, không chỉ bên đạo mà cả bên đời. Lịch sử cũng từng biết đến những vụ đụng độ tôn giáo quyết liệt, những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, không chỉ trong thời kỳ trung cổ với những cuộc thập tự chinh kéo dài dai dẵng hàng trăm năm mà người Ki-tô giáo tiến hành giành lại Jê-su-gia-lem trong tay người Hồi giáo, mà ngay cả trong thời hiện đại với sự bức hại của chủ nghĩa Na-di đối với người Do Thái hồi thế chiến thứ II làm trên dưới 6 triệu người chết, hoặc với những cuộc chiến tranh ở Nam Tư cũ, ở vùng Vịnh, với những sự kiện chính trị ở Angieria mà đằng sau đó có sự đan xen những động cơ tôn giáo phức tạp.

Vậy tôn giáo là gì mà có ma lực cuốn hút con người làm cho họ sùng tín mãnh liệt, đồng thời lại có thể liên kết hoặc ngược lại, đẩy loài người tới chỗ kỳ thị lẫn nhau ? Nó là gì mà có tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đạo đức, ảnh hưởng tới tư tưởng, tình cảm và hành động của đông đảo quần chúng đến như vậy, và diện mạo, số phận của nó trong xã hội tương lại sẽ ra sao ?

Đã không ít người cố gắng tìm lời giải đáp cho những vấn đề tương tự. Có người đứng về mặt chức năng tiêu cực để nói tôn giáo là thuốc độc của nhân dân. Có người lại nhìn nhận tôn giáo từ sự nhận thức luận để nói nó là sản phẩm của sự u mê ngu dốt, là sự phản ánh hư huyễn méo mó thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Từ cách nhìn nhận trên đã làm cho không ít người nhận xét về tôn giáo một cách phiến diện, xa thực tế và không đúng với bản chất sự vật.

Theo các nhà khoa học cho rằng Tôn giáo (Religion) có nguồn gốc từ Religare - nghĩa là ràng buộc, nối liền con người với một siêu linh nào đó. Religion cũng có nghĩa là Legere: thâu lượm, thâu lượm thêm hoặc thu nhận thêm phần ngoài khu vực đã được biết đến, khu vực siêu hình, siêu lý tính. Ngay từ buổi sơ khai của loài người, tôn giáo xuất hiện dưới hình thức đầu tiên là hồn linh giáo cho rằng mọi vật tự nhiên đều có linh hồn, và sau đó phát triển thành đa thần giáo, rồi độc thần giáo.
Trước hết, theo quan điểm của các nhà thần học duy tâm bao giờ cũng cho ý thức quyết định vật chất, mọi sự vật hiện tượng trên thế giới này đều do Chúa sáng tạo nên bởi những phép mầu.

Từ thời trung cổ, ở Tây âu có nhiều nhà triết học nổi lên, thể  hiện rõ lập trường, tư tưởng, thái độ của mình đối với đời sống xã hội và tôn giáo, luôn đề cao ca ngợi niềm tin tôn giáo. Téc-tu-liêng (160 - 230) thì khẳng định: “Niềm tin tôn giáo của con người vào vị Chúa cứu thế là một chân lý không thể chứng minh được”(1). Còn Ôguytanh (354 - 430) coi ý thức con người là độ đo của chân lý. Ông lập luận rằng  dù cho nghi ngờ thế nào đi nữa thì chúng ta cũng phải tin là chúng ta đang tồn tại, đang vận động, đang phấn đấu. Lý luận nhận thức của ông được xây dựng trên lập trường tôn giáo và thần học. Mục đích nhận thức của con người là nhận thức về thượng đế và chỉ đạt được nhờ vào niềm tin. Ông coi thượng đế là cái gì huyền ảo, hư ảo, là sức mạnh tuyệt đối. Chính vì vậy,  ông khuyên con người phải tin để hiểu và cần phải hiểu để mà tin. Trong khi đó, Giăngxicốt Ơrigiennô (810 - 877) lại hô hào “nhiệm vụ cao cả của trí tuệ là giải thích ý nghĩa của kinh thánh”(2). Riêng Tômát Đacanh (1225 - 1274) là nhà thần học được giáo hội trao nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu biến học thuyết  của Arxtốt (học thuyết về linh hồn và thể xác) thành cơ sở lý luận của nhà thờ, lại tuyên truyền tư tưởng về sự thống trị của Chúa (nhà thờ) đối với xã hội, đề cao giáo hội, tuyệt đối hóa niềm tin con người vào một thực thể mơ hồ. Như vậy, trong cuộc sống đời thường, con người nhiều khi có những phút giây thăng hoa để làm dịu đi bởi những khổ đau trần thế, cũng như đó là một sự vật bình thường được con người thần thánh hóa trở thành cái cao siêu và quay lại chi phối chính bản thân họ. Xã hội lúc này dưới sự kiểm soát và chi phối của nhà thờ, kinh thánh xem như là chân lý tuyệt đối, khoa học phải dựa vào thần học và phụ thuộc vào thần học; mọi sự lý giải của khoa học đi ngược lại kinh thánh đều bị bác bỏ và lên án, thậm chí nhà thờ lại còn thủ tiêu. Đêm trường trung cổ của loài người cũng bắt đầu từ đấy mà ra...

Còn bọn bồi bút tư sản cũng không vượt qua con đường duy tâm luận, hòng đánh tráo định nghĩa, lấy khái niệm này giải thích khái niệm khác dẫn tới sự mơ hồ, điển hình là Kant, Tylor cho rằng: tôn giáo là một luân lý đạo đức, không có nó thì xã hội loài người sẽ bị loãng (!). Khái niệm này không nói lên được bản chất của vấn đề, cho tôn giáo là nhu cầu, là món ăn tinh thần của con người, cho tôn giáo như một học thuyết, một chủ nghĩa mà nó làm ổn định các hành vi xã hội và quan hệ xã hội. Họ bằng cách này hay cách khác khuyên con người không nên tìm hiểu tôn giáo mà nên tin vào tôn giáo.

-------------------------------------
(1). Tập bài giảng lịch sử Triết học - tập 1, Khoa triết, Phân viện Hà Nội, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, trang 73.
(2). Sđd. trang 81.

Sở dĩ có được những “lời khuyên” như trên là từ kinh nghiệm bản thân của giai cấp tư sản đã được lịch sử dạy cho bài học suốt gần 3 thế kỷ về tham vọng thống trị của mình. Bơiớ, vào nửa sau thế kỷ 17 ở Tây âu đã diễn ra những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội do sự phát triển của các quan hệ sản xuất TBCN nên đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến bảo thủ làm nảy sinh những lĩnh vực sản xuất mới, những nhu cầu của cá nhân và xã hội, những giai tầng xã hội mới thúc đẩy sự phát triển của khoa học. Rồi đến “thế kỷ ánh sáng” đã mở đường cho các nhà tư tưởng lớn của thời đại bộc lộ quan điểm của mình trước vận hội mới của lịch sử.

Vấn đề tôn giáo được đem ra bàn bạc, phê phán trên phương diện đạo đức và xã hội. Đến thế kỷ 18, giai cấp tư sản bắt đầu tấn công vào hệ tư tưởng nhà thờ vào nhiều khía cạnh, tiên phong đầu tiên là Spinoza khi ông cho rằng: Chúa là do con người sáng tạo ra nên chẳng có gì là trừu tượng cả; kinh thánh là sản phẩm của con người tất sẽ có những điều đúng, điều sai. Tiếp đến, nhà tư tưởng Rút-xô (1712 - 1778) trong tác phẩm “Bàn về kế ước xã hội 1743” đưa ra khái niệm về tôn giáo xã hội, tôn giáo công dân. Đó là thứ tôn giáo sẽ mền dẻo, điều hòa các giá trị con người, là cầu nối liên kết cộng đồng con người với nhà nước nhưng nó không kèm cặp con người. Còn Mông-téc-ki-ơ (1689 - 1755) lại đề cập đến tình cảm tôn giáo, cho tôn giáo rất cần cho xã hội, nhưng lại đặt vấn đề: tôn giáo tách khỏi nhà nước, trường học tách khỏi nhà thờ và tôn giáo là việc riêng tư.

Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 18 đầu 19, cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN và sự thắng lợi của các quan hệ tư sản trên tất các lĩnh vực của đời sống xã hội ở những nước Tây âu tiên tiến; đồng thời cũng bộc lộ rõ sự không hài hòa về mặt lợi ích của các giai cấp cơ bản trong xã hội TBCN. Lúc này, giai cấp tư sản ở các nước châu Âu đã hốt hoảng nhận thấy phong trào cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản Anh và Pháp. Viễn cảnh lịch sử của những trận chiến giai cấp tất yếu xảy ra đã làm cho giai cấp tư sản lo ngại, và điều đó đã góp phần thúc đẩy sự thỏa hiệp giữa ý thức hệ tư sản và giáo hội để cả đôi bên cùng tồn tại. Khẩu hiệu, chủ trương của những người lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 là truy kích tôn giáo đến cùng, nhưng đến nay (1794) bị Napôleông phản bội, quay lại bắt tay với giáo hội để đem lại vinh quang cho bản thân mình. Một lần nữa ông lại khẳng định: tôn giáo trong xã hội không thể mất đi, còn bất công xã hội thì tôn giáo còn đất sống. Đi xa hơn một chút, cũng từ cách quan niệm trên, nhà xã hội học Comte lại cho rằng: “Tôn giáo như một chiến lược xã hội để tạo ra sự đồng thuận. Một xã hội, giống như một cơ chế, cần tìm một điểm cân bằng chung quanh những giá trị được mọi người tán thánh, những cách nhìn chung về thế giới”(1). Theo quan điểm này, khi đứng ở đỉnh cao của sự tiến hóa,

--------------------------------------
(1). Sabinno Acquaviva - Enzopace - Xã hội học tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội 1998, trang 36.


tiến bộ khoa học tất yếu dẫn đến một chổ kết thúc tôn giáo, thì cũng đúng là tôn giáo “hóa thân lại” vào lúc nó biến mất ở một giai đoạn cao của tinh thần và tâm lý con người đó là khoa học.

Như vậy, suy cho cùng, dù quan niệm về tôn giáo và xã hội có khác nhau so với các nhà duy tâm thần học thời phong kiến, song giai cấp tư sản vẫn luôn luôn coi trọng đề cao tôn giáo, lợi dụng nó trong việc cai trị, dùng ngọn cờ tôn giáo để mở rộng phạm vi ảnh hưởng, thậm chí dùng tôn giáo gây chiến tranh để xâm chiếm thị trường. Mặc dù giai cấp tư sản luôn đề cao khẩu hiệu: nhà thờ và nhà nước phải độc lập, nhưng thực tế lại khăng khít với nhau vì một số mục đích, quyền lợi chung. Kinh nghiệm của bài học lịch sử để lại cho chúng ta thấy được tính phức tạp của sự “đoàn kết” này mà hệ lụy của nó làm cho các nước chậm phát triển rơi vào ách thống trị của thực dân, và bài học càng đau xót hơn là chính lực lượng giáo hội trong nước lại làm hậu thuẫn cho các thế lực ngoại bang để thôn tính, đánh phá Tổ quốc, quê hương. Vì vậy, khi nhận xét về mối quan hệ này, Lênin cho rằng: “Với những ai suốt đời phải lao động và sống cảnh thiếu thốn, tôn giáo khuyên họ hãy chịu đựng nhẫn nhục ở dưới trần gian này, ru ngũ họ bằng hy vọng sẽ đưọc đền đáp lại ở thiêng đường. Còn kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn giáo khuyên họ làm điều thiện dưới trần gian”(2).

Còn quan niệm của các nhà duy vật trước Mác bàn về tôn giáo và đời sống xã hội có nhiều, nhưng đáng để chúng ta quan tâm nhất là Phoi-ơ-bách khi ông cho rằng: một định nghĩa về tôn giáo cũng như là bản chất của con người, một bản chất đã được khách quan hóa, nghĩa là được xem xét tôn sùng như một bản chất khác, xa lạ và riêng biệt đối với con người. Quan niệm cụ thể của ông về tôn giáo được đề cập ở các khía cạnh sau:

- Tôn giáo là hình thái ý thức của con người, là thuộc đời sống tinh thần của con người.
- Trong lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi cá nhân con người thì cũng luôn luôn đúng như vậy, tôn giáo có trước triết học. Bởi lẽ, trước khi tìm thấy được bản chất bên trong của mình, con người đã đẩy nó ra ngoài, con người đã khách thể hóa bản chất của mình thành một bản chất khác.
- Quá trình phát triển của tôn giáo là quá trình con người nhận thức sâu sắc hơn chính mình, khám phá nhiều hơn chính mình và do vậy, tôn giáo là thái độ của con người đối với chính mình.


--------------------------------------
(2). Lênin - Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1978, trang 6


Từ những nội dung trên, Phoi-ơ-bách cho rằng: “Con người tư duy thế nào thì Chúa của họ như thế. ý thức về Chúa là ý thức về con người rút ra về bản thân nó” (1). Con người không phải do thượng đế sinh ra, mà trái lại con người tạo ra thượng đế theo hình ảnh của mình. Ông không quy bản chất tôn giáo về riêng một năng lực nào đó của con người, mà theo ông trong tôn giáo đã phản ánh toàn bộ con người tuy là phản ánh một cách sai lệch. Chính vì quan niệm phiến diện siêu hình tự nhiên chủ nghĩa như thế về bản thân con người đã đưa Phoi-ở-bách tới quan niệm phi lịch sử về tôn giáo. Ông cho rằng tôn giáo phản ánh cái gì đó vĩnh hằng thuộc về con người, nên tình cảm tôn giáo không thể vứt bỏ được và tình yêu giữa con người với con người - đặc biệt là tình yêu giới tính là một tình cảm tôn giáo, từ đó ông coi chủ nghĩa vô thần là một tôn giáo. Cuối cùng ông lại đưa ra khái niệm tôn giáo tình yêu và thổi phồng vai trò lịch sử của tôn giáo tới mức gần như đó là hình thức chủ yếu của đời sống tinh thần nhân loại.

Một luận đề khác của những nhà vô thần cách mạng lại cho rằng tôn giáo là điều không tưởng to lớn nhất của con người về một thực tại không có mâu thuẫn, nhưng chung quy lại họ đều khẳng định một luận đề chung: Con người sáng tạo ra tôn giáo. Nói như thế cũng có nghĩa tôn giáo là ước mơ, là  ham muốn của con người: con người đều có thiên chức như nhau - đó là tính bình đẳng siêu nhiên và lòng bác ái phổ biến. Do đó, cách mạng Pháp muốn biến thành hiện thực ngay ở trần gian này khẩu hiệu: Tự do - bình đẳng - bác ái với suy nghĩ làm như thế thì tôn giáo sẽ được xóa bỏ ngay vì điều không tưởng do tôn giáo tạo ra đã bị xóa bỏ.

Trong khi đó các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao tư tưởng của Phoi-ơ-bách và có kếù thừa, phê phán nó. Các ông cho rằng quan điểm về tôn giáo của Phoi-ơ-bách là đỉnh cao lúc bấy giờ, nó đánh dấu một bước tiến dài của nhân loại trên con đường nhận thức và kiến giải những hiện tượng xã hội đặc biệt này; đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của Phoi-ơ-bách khi nói đến tôn giáo là tình cảm bí mật của con người, nhưng con người ở đây là con người chung chung, trừu tượng, thoát khỏi hoàn cảnh cụ thể để rồi muốn tìm kiếm một tôn giáo khác thay thế cho tôn giáo hiện tại. Hai ông cho rằng ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nó phản ánh xã hội bằng một phương thức đặc biệt, có tính chất hoang đường hư ảo và thăng hoa hiện thực.

Theo Các Mác, cơ sở trần tục của tôn giáo là một xã hội cụ thể của con người. Nhưng là một xã hội cụ thể cũng là một kết cấu phức tạp bởi nhiều yếu tố và nhiều quan hệ có liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, mà những người ở đây lại là những con người lại thuộc về một giai cấp nhất định. Vậy thì trong

--------------------------------------
(1). Nguyễn Hoàng Sa - Đạo Hòa hảo và ảnh hưởng của nó ở đồng bắng sông cửu long, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội 2000, trang 18.
những yếu tố và những quan hệ chằng chịt của một xã hội cụ thể thì cái gì đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của tôn giáo. Để chỉ rõ điều đó, Ănghen viết: “Cơ cấu kinh tế của xã hội luôn luôn là cơ sở hiện thực, mà xét đến cùng ta phải dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền và chế độ chính trị cũng như quan niệm về tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định”(1).

Như vậy, Mác - Ănghen coi sản xuất vật chất không chỉ đơn thuần là điều kiện tất yếu của đời sống con người, mà coi nó là cơ sở khách quan quyết định tất cả tính nhiều vẻ của quan hệ sản xuất và các hiện tượng xã hội, trong đó có tôn giáo. Nhưng hai ông trước sau đều khẳng định nhân tố kinh tế không phải là nhân tố quyết định duy nhất đối với sự phát triển của lịch sử, mà bản thân các thành phần kiến trúc thượng tầng, trong đó có tôn giáo cũng có vai trò tích cực của nó đối với đời sống xã hội và tác động trở lại sự phát triển kinh tế.

Trong khi nhấn mạnh sự tồn tại và phát triển của tôn giáo phụ thuộc vào những quy luật của sản xuất vật chất, Mác - Ănghen vẫn thừa nhận sự tác động trở lại của tôn giáo đối với đời sống xã hội, của con người, hay nói khác đi là thừa nhận vai trò xã hội của tôn giáo. Nếu trong thời cổ Hy Lạp, chính  trị đóng  vai trò chủ yếu, thì trái lại, trong thời kỳ trung cổ đạo Ki-tô đóng vai trò chính. Theo Mác thì chỉ có thể cắt nghĩa được điều đó bằng cách phân tích những điều kiện kinh tế của xã hội. Ngược lại, sự tác động của tôn giáo đối với đời sống xã hội còn được thể hiện trong câu nói bất hủ sau đây của ông: “Sự khốn cùng của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự khốn cùng của hiện thực, vừa là phản kháng chống lại hiện thực ấy” và không mấy ai quên được câu nói nổi tiếng của Mác “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân(2). Câu nói đó được Mác phát biểu trong Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen và gắn với một loạt nhận xét khác như: Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Rõ ràng, đây là một sự so sánh để nói đến chức năng của tôn giáo. Bản thân tôn giáo do con người sáng tạo ra bởi nhu cầu của mình để làm dịu bớt nổi đau xã hội, nổi lo lắng hiện thực đang đè nặng lên đời sống tinh thần của mình. Do vậy, chức năng “thuốc phiện” thời Mác phát hiện cho đến nay vẫn không có gì thay đổi, đó là chức năng đền bù hư ảo của nó, chức năng của tính phản ánh hoang tưởng trong cuộc sống hiện thực. Như vậy, trong một tình trạng của cuộc sống còn đầy rẫy những bấp bênh, tai họa, rủi ro có thể đến với bất cứ lúc nào; trong tình trạng xã hội còn áp bức bất công, còn nhà tù, ngục tối...  thì tôn giáo vẫn là chất kích thích dẫn dắt con người đến trạng thái phiêu bồng quên lãng hiện

---------------------------------------
(1). Dẫn theo Nguyễn Đức Sự (Chủ biên) - Các Mắc-Ănghen về tôn giáo, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999, Trang 24.
(2). Các Mác - Ănghen - Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội 1984, trang 570.
thực. Vấn đề ở chỗ “mọi tôn giáo cũng giống như khoa học, nghệ thuật và các lĩnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc khác, tự bản thân nó không mang tính giai cấp”(1), chức năng “thuốc phiện” chỉ có và chỉ được biểu hiện khi tôn giáo ở trong tay giai cấp thống trị, nó làm thui chột ý chí đấu tranh, cải tạo hiện thực của con người. Còn khi tôn giáo ở trong tay một xã hội tốt đẹp, thì trong điều kiện nhất định một số yếu tố của nó có thể sẽ “tỏa hương thơm” và thể hiện những giá trị nhân văn cao cả.

Mác - Ănghen cũng đã từng nhấn mạnh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Cái thế giới con người không hoàn thiện đã sản sinh ra tôn giáo ấy là một thế giới cần có tôn giáo và ngược lại, tôn giáo cũng đáp ứng được những yêu cầu của con người trong thế giới này. Chính xuất phát từ đó, Mác - Ănghen đặt vấn đề xóa bỏ cái thế giới đã sản sinh ra tôn giáo bằng thực tiễn cách mạng thì mới có thể giải phóng con người thoát khỏi những  xiềng xích tinh thần tôn giáo.

Để thấy rõ tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, cần lưu ý đến khía cạnh tình cảm, cảm xúc và đời sống tâm linh của những tín đồ tôn giáo. Cả Mác và Ănghen cũng đềỡ cập đến khía cạnh này của tôn giáo, như Mác có lần nói: Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim. Còn Ănghen cho rằng: “Dưới các hình thức thuận tiện cụ thể và có thể thích ứng được với tất cả mọi hình thức đó, tôn giáo vẫn có thể tiếp tục tồn tại với tư cách là một hình thái trực tiếp, nghĩa là một hình thái cảm xúc trong quan hệ của con người đối với các thế lực xa lạ của tự nhiên và xã hội thống trị họ”(2). Hai ông đề cập đến những khía cạnh này là cốt để làm sáng tỏ bản chất của tôn giáo và cái cơ sở vật chất đã sản sinh ra nó là để kiên trì quan điểm duy vật trong sự giải thích về tôn giáo. Hai ông thường nêu vấn đề nhu cầu tôn giáo và tình cảm tôn giáo là nhằm để chứng minh cho sự ra đời và phát triển của tôn giáo bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Ănghen từng khẳng định: “Ta không thể giải thích điều đó bằng trái tim của con người và nhu cầu tôn giáo của con người như Phoi-ơ-bách, mà bằng toàn bộ lịch sử trước đây của thời trung cổ, thời mà người ta không thấy có hình thức tư tưởng ngoài khác ngoài tôn giáo và thần học”(3). Đó cũng chính là quan điểm duy vật khoa học về nguồn gốc, vai trò, nhu cầu xã hội của tôn giáo. Nhưng cũng chính những yêu cầu đó của thực tiễn cuốn hút hoạt động khoa học của các ông khiến các ông nhìn thấy và đôi khi đả động tới khía cạnh tình cảm của tôn giáo, và nhu cầu tôn giáo của con người mà chưa có điều kiện làm sáng tỏ vấn đề đó trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc hơn nữa thế giới chủ quan của con người. Cho nên, muốn giải thích quy luật đó mà chỉ vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử thì chưa đủ, mà phải vận dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học - nhất là khoa học tâm lý.
-----------------------------------------
(1). Nguyễn Hoàng Sa - Sđd, trang 73.
(2), (3). Dẫn theo Nguyễn Đức Sự (chủ biên), sách đã dẫn, trang 40, 41.

Mặt khác, khi tham gia phê phán tôn giáo nước Đức, Mác - Ănghen đã đặt vấn đề giải phóng con người khỏi những xiềng xích tinh thần của tôn giáo. Điều này có nghĩa là ngay từ thời trẻ, hai ông đã nghĩ đến một ngày nào đó tôn giáo sẽ mất đi và không còn tồn tại với tư cách là hạnh phúc hư ảo của nhân dân nữa. Nhưng khác với triết gia khác, Mác - Ănghen xem xét vấn đề tương lai của tôn giáo không tách rời việc xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Con người muốn đoạn tuyệt với tính hạn chế về mặt tôn giáo của mình, muốn đưọc giải phóng khỏi xiềng xích  tinh thần của tôn giáo mà chỉ phê phán tôn giáo, bác bỏ tôn giáo về mặt lý luận thì chưa đủ. Vì cơ sở vật chất của tôn giáo vẫn làm cho tôn giáo tiếp tục tái sinh. Do đó, việc giải phóng con người khỏi ảo tưởng tôn giáo phải gắn liền với việc giải phóng chính trị, giải phóng con người nói chung. Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội tồn tại mãi mãi với thời gian, mà tương lai suy tàn và mất đi. Nhưng sự suy tàn và mất đi đó của tôn giáo không diễn ra một cách tự động và tức thời, cũng không phải đơn thuần kết quả của sự phê phán về mặt lý luận. Tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi các cơ sở vật chất của nó không còn nữa, khi mà cái thế giới trần tục sản sinh ra tôn giáo đã được cải tạo triệt để bằng con đường cách mạng, mà theo Mác có hai điều kiện đó là:
                 - Quan hệ giữa người và người hết sức rõ ràng hợp lý.
                 - Quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng rõ ràng hợp lý.

Muốn thực hiện được hai điều đó thì điều quan trọng là phải xây dựng một chế độ xã hội bảo đảm cho con người tự do thành lập xã hội và được đặt dưới sự kiểm soát tự giác và có kế hoạch của những con người đó; đồng thời phải có những cơ sở vật chất, những điều kiện tồn tại vật chất nhất định của xã hội. Tức là con người phải nắm được những quy luật khách quan và phát triển sức sản xuất tới trình độ cao để có thể làm chủ được tự nhiên, xã hội và bản thân mình.

Như vậy, khi nghiên cứu về tương lai tôn giáo, hai ông cũng đã ý thức được tính phức tạp của vấn đề này. Tất cả những điều kiện cho sự tiêu vong của tôn giáo mà hai ông đã đưa ra còn thì nguồn gốc tạo ra tôn giáo vẫn còn. Những kiến giải của hai ông là đúng đắn và có căn cứ khoa học, vì nó dựa trên cơ sở nhận thức một cách khoa học quy luật phát triển của xã hội đương thời. Chủ nghĩa duy tâm còn đi bên cạnh chủ nghĩa duy vật trong một tương lai rất dài. Chính vì lẽ đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã có cách nhìn mới về tôn giáo, khoa học hơn, phù hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội, cho “tôn giáo còn tồn tại lâu dài, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với chủ nghĩa xã hội”, chấp nhận sự chung sống với tôn giáo. Đây không phải là một thủ đoạn chính trị, hay một sách lược nào, mà là nhận định có tầm chiến lược của Đảng ta, đặt lợi ích Tổ  quốc, lợi ích dân tộc lên trên hết để phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm khoa học của Mác - Ănghen về bản chất, nguồn gốc và tương lai tôn giáo là cơ sở cho đường lối vô sản có tính Đảng đối với vấn đề tôn giáo do hai ông vạch ra cho phong trào công nhân quốc tế lúc đương thời. Mác - Ănghen xem cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng khỏi những ràng buộc về tinh thần của tôn giáo là một bộ phận không tách rời của phong trào giải phóng giai cấp vô sản. Trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác đã dẫn chứng kinh nghiệm của Công xã Pa-ri để bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với những yêu  cầu về tự do tín ngưỡng cũng như yêu cầu tách nhà thờ ra khỏi nhà nước và tách  trường học ra khỏi nhà thờ của quần chúng, cũng như việc tước đoạt tài sản của nhà thờ là nhằm đập tan sự áp bức tinh thần của chế độ cũ mà giáo hội là công cụ của sự áp bức tinh thần ấy(1). Còn Ănghen khi viết Góp phần phê phán dự thảo cương lĩnh 1891 của Đảng xã hội dân chủ một lần nữa khẳng định lại lời nói trên của Mác: “Tách hẳn nhà thờ ra khỏi nhà nước. Tất cả những đoàn thể tôn giáo không trừ một đoàn thể nào đều sẽ được nhà nước coi là những hội tư nhân. Những đoàn thể ấy không còn được trợ cấp bằng quỹ công nữa và mất hết ảnh hưởng đối với trường công”(2). Hai ông ủng hộ tự do tín ngưỡng với nội dung dân chủ của khẩu hiệu này. Đây là sự đảm bảo của nhà nước đối với quyền được theo bất cứ một tôn giáo tín ngưỡng nào của người công dân, nhưng hai ông không dừng lại ở đó mà phải lợi dụng cơ hội này để nói rõ sự tin tưởng chắc chắn của mình rằng: “Quyền tự do tín ngưỡng tư sản chẳng phải cái gì khác hơn là sử dụng đủ các loại tín ngưỡng tôn giáo, còn Đảng thì ngược lại, ra sức giải thoát lương tri của con người ra khỏi bóng ma tôn giáo”(3).

Để bảo vệ sự trong sáng của đường lối vô sản về vấn đề tôn giáo, Ănghen kịch liệt phê phán chủ nghĩa vô thần cực đoan và những chủ trương quá kích đối với tôn giáo. Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ănghen lên án một cách nghiêm khắc chủ trương cấm tôn giáo của Đuy-rinh: “Ông Đuy-rinh không thể chờ đợi đến khi tôn giáo chết cái chết tự nhiên của nó. Ông ta làm một cách căn bản hơn. Ông ta tỏ ra là Bixtmác hơn cả Bixtmác. Ông ta ra những đạo luật tháng Năm còn nghiêm nghặt hơn, không chỉ chống Thiên chúa giáo mà chống cả mọi tôn giáo nói chung nữa. Ông ta truy bọn chiến binh tương lai của ông ta truy kích tôn giáo và do đó ông ta đã giúp cho tôn giáo đạt tới chổ tinh thần tử vì đạo và kéo dài thêm sự tồn tại của nó”(4). Với cách nhìn biện chứng của một thiên tài, Ănghen đã thực sự nhắc nhở những người mác xít sau này khi đụng  chạm đến sự tồn tại và phát triển của tôn giáo thì không nên dùng biện pháp hành chính hoặc bất cứ sự cưỡng chế nào bằng bạo lực. Tôn giáo không phải là kẻ thù của người mác xít, nhưng ngược lại có người đã coi người mác xít là kẻ thù của tôn giáo. “Người mác xít phải là người duy vật, nghĩa là kẻ thù của tôn giáo, nhưng phải là người duy vật biện chứng, nghĩa là đặt vấn đề đấu tranh chống tôn giáo không phải một cách trừu tượng, thuần túy lý luận, lúc nào cũng giống lúc nào, mà phải đặt vấn đề một cách cụ thể, căn cứ  vào cuộc đấu tranh giai cấp thực tế đang diễn

---------------------------------------
(1), (2), (3), (4). Dẫn theo Nguyễn Đức Sự - sđd, trang 62 - 66.
ra và có tác dụng giáo dục quần chúng nhiều hơn hết và hiệu quả hơn hết”(1). Người mác xít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể, không để rơi vào chủ  nghĩa vô chính phủ kiểu Đuy-rinh, không rơi vào chủ nghĩa cơ hội là những người sợ đấu tranh với tôn giáo. Vả lại, hiểu chủ nghĩa vô thần tư sản cực đoan, máy móc rồi lại gán cho chủ nghĩa Mác là vô tình rơi vào luận điểm của kẻ chống chủ nghĩa Mác thường rêu rao: Tôn giáo không thể đi với Cộng sản. Điều này liên hệ ở Việt Nam chúng ta càng thấy rõ hơn, thực tế ở chúng ta có một thời kỳ dài nhìn tôn giáo bằng thiên kiến chính trị, cho tôn giáo là phản động, là mê tín nên cần phải loại bỏ nó khỏi đời sống xã hội. Nhưng bài học lịch sử để chúng ta chiêm nghiệm, suy ngẫm thấm thía thấy rằng : càng cấm tôn giáo càng phát triển và càng thấy rõ hơn tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: chỉ có thể thắng tôn giáo bằng đạo đức chứ không thể thắng tôn giáo bằng bạo lực.

Trên cơ sở những nhận định khoa học trên giúp chúng ta thấy được tính hai mặt của tôn giáo ảnh hưởng tới đời sống xã hội. Dù chúng ta không tin Chúa, không tin thánh, nhưng xã hội không phải ai cũng như ai, mà thực tế đã có một bộ phận lớn quần chúng còn cần đến tôn giáo. Dù vô thần hay có thần tất cả đến nay còn là giả thuyết, cho nên chúng ta cũng cần có sự nhận thức mới đối với chính sách tôn giáo, tức là phải thực hiện nhất quán nguyên tắc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân; đồng thời lấy lợi ích của cộng đồng, của dân tộc đặt lên hàng đầu làm mục tiêu cho hành động, để đảm bảo sự đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, khi trình bày những quan điểm mác xít về tôn giáo, chúng ta không thể không nhắc đến một bậc thầy mẫu mực trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam, trong đó bao hàm cả vấn đề tư tưởng, đó là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo thể hiện ở các vấn đề sau :

Một là, vấn đề đoàn kết tôn giáo trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Người xem đoàn kết dân tộc là nhân tố thành công của cách mạng. Người đã sớm nhận thấy ưu điểm của các tôn giáo, phát huy và kết hợp nó một cách tài tình. “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta”(2).
-------------------------------------
(1). Nguyễn Văn Long - Một số vấn đề về Thiên chúa ở ở Đồng Nai - Luận án Tiến sĩ Triết học, hà nội 2000, trang 20.
(2). Viện Nghiên cứu tôn giáo - Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999, trang 152.


Thể hiện tư tưởng trên chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp Chính phủ đầu tiên, Hồ Chủ tịch đề nghị: Thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào lương giáo để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố tín ngưỡng tự do lương giáo đoàn kết (1).

Theo Bác, đồng bào lương hay đồng bào giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp lớn, sự nghiệp chung của cả dân tộc, nên có đoàn kết nhân dân ta mới thắng lợi trong cuộc đấu tranh xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, tự chủ và giàu mạnh.

Đường lối đoàn kết tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ thực tế đất nước, từ truyền thống đoàn kết của dân tộc, từ tinh hoa văn hóa của dân tộc... mà còn ở tầm sâu lắng ngay trong tình cảm thương yêu và lòng nhân ái của Người. Bác đã biết đặt mình vào thế giới tôn giáo và có một cách ứng xử tuyệt vời. Khi đến trại mồ côi Dục Anh (Thái Bình), tận mắt chứng kiến các bà phước trông coi trẻ mồ côi, thay mặt các cháu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chân thành cảm ơn họ và hai mắt cụ rươm ước một vẻ buồn lộ trên khuôn mặt cứng cỏi của một lão đồng chí đã từng nhiều lần khóc, nhưng chỉ khóc vì đời, vì nhân loại thôi.

Đoàn kết tôn giáo phải là mục tiêu chung, phục vụ cho mẫu số chung là chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Người cho rằng giữa niềm tin tôn giáo và lòng yêu nước dân tộc không loại trừ nhau, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không có gì mâu thuẫn. Một người vừa là công dân tốt vừa là một tín đồ chân chính. Tư tưởng nổi bậc của Ngườilà bỏ qua những dị biệt nhỏ để giữ lấy cái tương đồng lớn. Đó là vượt qua những khác biệt về đức tin, lối sống để giữ lấy tình đoàn kết dân tộc, giữ lấy mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc.

Đoàn kết theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị, mà đó là một chính sách dân tộc, chính sách xã hội vì con người. Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong khối đoàn kết toàn dân tộc, kể các đòan kết tôn giáo nhưng không phải đoàn kết  với bất kỳ điều  kiện nào, mà phân biệt rõ đấu tranh với hòa hợp, phân biệt tín đồ tu hành chân chính với những kẻ giả danh tôn giáo làm vẫn đục cái “thiêng liêng”, phê phán kẻ “buôn thần bán thánh”, hoặc làm tôn giáo trở thành công cụ để thực hiện ý đồ chính trị đen tối và phải đấu tranh kiên quyết với những âm mưu thủ đoạn ấy. Người nói: “Chúng ta phải tạo ra lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo, đồng thời chống lại lực lượng phản động lợi dụng tôn giáo. Chúng ta phải làm cho giáo hội Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn, có tinh thần dân tộc, yêu nước, yêu hòa bình và đoàn kết dân tộc hơn”(2).
---------------------------------
(1), (2). Nguyễn Hoàng Sa - sđd, trang 4.

Hai là, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn có một sự trân trọng không chỉ dành riêng cho đức tin của tín đồ mà ngay cả đối với các tín đồ và chức sắc, một thái độ khoan dung thân thiện, mà chính những người đối lập với chúng ta là ông Sainteny cũng phải thừa nhận: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ cơ cớ để nhận thấy nơi các chương trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tôn giáo bất kỳ nào”(1).

Với các chức sắc, tín đồ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vẫn được Hồ Chủ tịch ân cần thăm hỏi, quan tâm động viên. Chẳng hạn như lá thư “nhắn nhủ đồng bào Công giáo đã dư ci vào Nam” tháng 4/1955, Bác đã có những lời lẽ thống thiết, thông cảm chia xẻ cùng họ nỗi đau bị lợi dụng phải bỏ quê đi xa và sẳn sàng hoan nghênh, đón tiếp những ai muốn trở về....., hoặc điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi Hộ pháp Phạm Công Tắc ngày 21/6/1956, khen ngợi nguyện vọng mà Phạm Công Tắc mong muốn cho nước nhà độc lập” (2).

Nhờ thái độ khoan dung, nhân từ và thiện cảm, nên chúng ta thấy nảy sinh một quan hệ đặc biệt tốt đẹp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các tôn giáo và ngược lại. Người ta thấy vô số những lời phát biểu đầy kính trọng, tin tưởng của chức sắc, tín đồ các tôn giáo trong và ngoài nước dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Cao Triều Phát, một chức sắc cao cấp của đạo Cao đài viết: “Trước tiền đồ xán lạn của Tổ quốc, chúng ta càng thêm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo anh minh của Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc”(3). Còn Linh mục Vũ Xuân Kỳ đã kết luận về Hồ Chí Minh: “Mỗi chính sách của Hồ Chủ tịch đều kết hợp đạo lý với công bằng bác ái...  Có Hồ Chủ tịch là có tự do rồi”(4).

Ba là, Bác là một tấm gương sáng mẫu mực trong việc bảo vệ niềm tin, đức tin của tín đồ, vừa chống lại những biểu hiện lợi dụng tôn giáo cho mục đích chính trị.

Chủ đề này được Bác đề cấp nhiều và nhiều khi rất gay gắt khi thấy có sự song hành giữa tôn giáo và chính trị. Khi thực dân Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm, Người nói: “Chúng đã xâm phạm đất thánh của Việt Nam”. Đồng thời Hồ Chủ tịch cũng vạch trần tội ác của những kẻ xâm lược khoát áo choàng thâm trên đất Đông dương và Việt Nam, lời văn của Người chua chát phẫn nộ khi nói đễn các tông đồ của Chúa trong vai trò những tên cướp đất: “Và nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đinh trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc người sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy “các môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào: giáo hội Xiêm chiếm chiếm đoạt 1/3 diện tích ruộng đất trong xứ; giáo hội Nam kỳ chiếm 1/5; giáo hội Bắc
----------------------------------------
(1), (2). Dẫn theo Nguyễn Hoàng Sa - sđd, trang 134, 135, 136.
(3). Đặng Nghiêm vạn (chủ biên) - Hồ Chí Minh và vấn đề tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4 (2/2000), trang 6.
(4). Báo nhân dân, ngày 13/2/1955.

kỳ, chỉ riêng Hà Nội chiếm 1/4 đất đai”. Theo Người, kẻ xâm lược và cha cố là một: “ở đâu có nổi dậy, có khởi nghĩa thì ở đó có cha cố biến thành mật thám, nhà thờ chúa biến thành nơi tra khảo”(1). Sau đó Người kết luận: “Nếu có một dân tộc nào mà phải nhớ ơn Chúa và các giáo sĩ thì đó chính là dân tộc Việt Nam, vì Chúa và các giáo sĩ mà dân tộc này đã sa vào tình cảnh nô lệ như ngày nay”(2). Theo Hồ Chủ tịch, đấu tranh vạch rõ bộ mặt bọn lợi dụng tôn giáo nhằm mục đích chính trị xâm lược, không phải là xúc phạm đến thần thành, mà trái lại đó là sự gột bỏ điều làm vẫn đục cái thiêng liêng tôn giáo.

Tóm lại, để đi vào tìm hiểu sâu sắc tình hình, nguyên nhân của sự phát triển một tôn giáo cụ thể nào thì trước tiên cũng đi từ các vấn đề lý luận chung để hiểu thế nào là tôn giáo; đồng thời qua đó thấy rõ ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội ở góc độ khác nhau, từ nhu cầu, vai trò... để có cách nhìn, suy nghĩ đúng đắn và đề ra chủ trương chiến lược đối với tôn giáo.





















------------------------------------
(1), (2). Dẫn theo Nguyễn Hoàng Sa - trang 123 và 124.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

          1. Các Mác - Ănghen - Tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1984
          2. Đặng Nghiêm Vạn - Hồ Chí Minh và vấn đề tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2/2000).
          3. Viện nghiên cứu tôn giáo - Hồ Chí Minh và vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999.
          4. Sabino Acquaviva Enzopace - Xã hội học về tôn giáo, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1998.
          5. Lê nin - Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo - Nhà xuất bản Sự Thật, hà nội 1978.
          6. Nguyễn Đức Sự (chủ biên) Các Mác - Ănghen về tôn giáo, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999.
          7. Phân Viện Hà Nội - Tập bài giảng lịch sử triết học, tập 2, Khoa triết Phân viện Hà Nội, Hà Nội 1994.
          8. Nguyễn Hoàng Sa - Đạo Hòa hảo và ảnh hưởng của nó ở đồng bắng sông cửu long, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội 2000.
          9. Nguyễn Văn Long - Một số vấn đề về Thiên chúa giáo ở Đồng Nai - Luận án Tiến sĩ Triết học - Hà nội 2000.


                                    ---------------------




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét