Thạc sĩ Hà Xuân Nguyên
Theo số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo Tây nguyên, tính đến tháng 12-2007, toàn Tây nguyên có 314.280 tín đồ Tin lành, trong đó có 362.411 tín đồ là người đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, sinh hoạt tôn giáo của đạo Tin lành nổi lên nhiều yếu tố phức tạp, trong đó đáng lưu tâm nhất là các đối tượng phản động tuyên truyền chủ trương tách Tin lành người Kinh ra khỏi Tin lành người dân tộc, lập tổ chức “Tin lành Đê ga” thành “quốc đạo” của “Nhà nước Đê ga” đã được một bộ phận đồng bào dân tộc tham gia và ủng hộ.
Đến nay vấn đề không chỉ bó hẹp trong phạm vi một tỉnh, một khu vực, mà trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, thu hút đông đảo phóng viên báo chí trong và ngoài nước đến viết bài, đưa tin, bình luận. Để có cái nhìn khách quan, khoa học về chủ thể chúng ta đang quản lý, bài viết này xin tập trung đi sâu phân tích tại sao đồng bào dân tộc theo đạo Tin lành Tây nguyên có tư tưởng ly khai. Có mấy vấn đề cần lưu ý sau:
1. Khi các giáo sĩ Tin lành (Hội thánh CMA) truyền đạo lên Tây nguyên (đạo Tin lành đến Việt Nam năm 1911, năm 1929 đến Đà Lạt) đang ở giai đoạn đầu còn gặp nhiều khó khăn:
- Thứ nhất, Tây nguyên lúc này về cơ bản đã thành "thuộc địa" truyền giáo của giáo hội Công giáo (năm 1848, các giáo sĩ Hội Thừa sai Pari Pháp đã có mặt ở Kon Tum).
- Thứ hai, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng thuận lợi phần lớn đã có đạo (Công giáo). Đồng bào ở nơi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới chưa có đạo thì điều kiện đi lại khó khăn.
Song, được sự hỗ trợ tích cực của Mỹ, Tin lành quyết tâm đẩy mạnh truyền giáo lên Tây nguyên với 2 mục đích: 1. Phát triển tín đồ, mở mang nước Chúa; 2. Tạo cơ sở, gây dựng ảnh hưởng của Mỹ.
Để công việc đạt kết quả tốt, sau Hiệp định Giơnervơ, năm 1960, Hội thánh Tin lành Việt Nam (CMA) có trụ sở đóng tại Sài Gòn thành lập thêm Thượng hạt - địa hạt dành cho người dân tộc (về sau chia ra là Nam Thượng hạt và Trung thượng hạt - trước đó, Hội thánh đang quản nhiệm hai địa hạt liên hội là Nam Trung hạt và Nam hạt). Tiếp đến, vào ngày 18-19/3/1973, tại Hội đồng thường niên Nam Thượng hạt lần IV họp tại Trường Kinh thánh Đà Lạt quyết định thành lập Đoàn truyền giáo sắc tộc để vận động người đi truyền đạo cho các dân tộc khác. Việc chia ra các địa hạt, chi hội kinh - thượng như vậy (được một số người cho là “ly khai”) là nhằm tạo điều kiện cho tín đồ học hỏi đức tin và việc truyền đạo được thuận lợi hơn chứ không vì mục đích chính trị. Nhưng từ cách làm trên của Hội thánh CMA, vô hình dung đã hình thành trong ý thức tín đồ người dân tộc một sự so sánh, phân biệt là có: Tin lành của người Kinh và Tin lành của người Thượng.
Đến năm 1975, đất nước được giải phóng, sinh hoạt tôn giáo trong chế độ xã hội mới có sự thay đổi cơ bản, các địa hạt, chi hội kinh - thượng trước đây bãi bỏ. Nhưng trên thực tế, trong tâm thức tôn giáo của tín đồ dân tộc vẫn cứ nghĩ rằng mình thuộc Chi hội của Thượng hạt. Thực trạng này tồn tại lâu dài, về sau, do mâu thuẫn cá nhân trong làm ăn kinh tế và va chạm trong cuộc sống đời thường giữa một số “chức sắc” Tin lành là người dân tộc với người kinh, mâu thuẫn giữa các dân tộc cùng theo đạo, mâu thuẫn giữa các chi hội thánh cơ sở.... chậm được giải quyết, cùng với âm mưu lợi dụng tôn giáo (Tin lành) của các thế lực thù địch kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, xúi dục quần chúng đòi ly khai tự trị, gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị ở Tây nguyên.
2. Sau giải phóng năm 1975, hoạt động của tổ chức chính trị phản động Fulro ở Tây nguyên ngày càng lớn mạnh và được sự đồng tình ủng hộ của nhiều chức sắc, tín đồ Tin lành. Chủ trương của ta giải quyết vấn đề Fulro lúc này là đi đôi với việc xử lý một số phần tử cầm đầu trong đạo Tin lành có liên quan; đồng thời tiến hành phát động quần chúng tự nguyện đóng cửa nhà thờ, xóa bỏ các Ban chấp sự cơ sở, hướng các hoạt động tôn giáo về từng gia đình, ai còn tin đạo về tu tại gia, đọc kinh tại nhà, không được tụ tập làm lễ trái phép. Chính quyền các cấp nhiều nơi tăng cường công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục, kết hợp với già làng, trưởng bản khôi phục lại văn hoá truyền thống, nhằm hạn chế các sinh hoạt tôn giáo, hạn chế số người theo đạo, nhưng kết quả đem lại không như ý muốn(1). Do vậy, khi Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa để phát triển kinh tế, thì nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Tin lành phục hồi, các điểm nhóm đọc kinh và người hành nghề tôn giáo "chuyên nghiệp" phát triển mạnh - thực trạng này khiến tình hình lộn xộn - phía chính quyền đang lúng túng trong công tác quản lý - phía Hội thánh Trung ương cũng khó kiểm soát được dẫn tới hệ quả là sự “cát cứ” của một số đối tượng cầm đầu có tư tưởng ly khai tác động đến bộ phận tín đồ.
3. Việc cảnh giác, dè chừng quá mức cùng với việc chậm công nhận để hướng dẫn các Hội thánh đi vào hoạt động nề nếp cũng là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm gia tăng sự phát triển của tổ chức có tư tưởng ly khai trên. Tồn tại hiện nay là có nhiều cán bộ nhận thức về Tin lành còn mơ hồ, nặng tính chủ quan duy ý chí, nên có những đối sách xử lý không phù hợp. Có ý kiến cho rằng Tin lành là Mỹ, là Fulro nên nhất quyết không thừa nhận tư cách pháp nhân, song cũng lại có ý kiến lại cho rằng nên cho phép các chi hội Tin lành hoạt động để địa phương dễ bề quản lý. Nhận thức không thống nhất dẫn tới sự việc xử lý còn nhiều sơ hở. Liệu ta có thể ngăn cấm được: Tụ tập đọc kinh, truyền đạo và lưu hành ấn phẩm tôn giáo không ? Đây là những câu hỏi rất được các cấp quan tâm, nhưng giải pháp thực hiện còn phụ thuộc vào từng địa phương và nhận thức của mỗi cán bộ.
Trong thời gian qua, triển khai thực hiện Chỉ thị 01 của Thủ tướng Chính phủ về một công tác đối với đạo Tin lành, cùng với việc Ban Tôn giáo Chính phủ đã cấp đăng ký hoạt động cho các hệ phái: Tin lành Việt Nam (miền Nam), Truyền giáo Cơ đốc,….. Căn cứ vào cơ sở này, các tỉnh Tây nguyên đã tạo điều kiện cho tín đồ các hệ phái Tin lành hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, "kính Chúa, yêu nước", tạo sự phấn khởi, an tâm trong tín đồ. Song do sự xúi dục, giật dây của một số phần tử phản động cực đoan đã kích động một bộ phận nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành đòi thành lập "Nhà nước Đề ga", tập trung đông người, biểu tỉnh, đòi yêu sách… Vấn đề này có còn là sinh hoạt tôn giáo thuần túy không ?
Như vậy, dấu hiệu để nhận biết Tin lành Đề ga là gì ? Câu trả lời ngay rằng: Tin lành Đề ga là tổ chức chính trị phản động cần dẹp bỏ và nghiêm cấm tất cả mọi hoạt động dưới mọi hình thức, song cũng cần phân định rõ: Chỉ một vài cá nhân có tư cách và hành động xấu với tư tưởng ly khai chia rẽ, còn lại bà con tín đồ người dân tộc không biết và cũng không phân biệt được Tin lành của câc Hội thánh và Tin lành Đê ga - vì giáo lý, tổ chức vẫn như nhau. Đồng thời, để nhận biết đâu là tổ chức Đề ga chỉ cần căn cứ vào 1 trong 3 tiêu chí sau:
1. Tổ chức đưa người vượt biên trái phép sang Campuchia.
2. Tổ chức các hoạt động chống lại chính quyền.
3. Đòi ly khai, tự trị.
Sau vụ bạo loạn năm 2001, 2004 và một số diễn biến đang diễn ra gần đây ở Tây nguyên, các ngành chức năng tiến hành đấu tranh bóc gỡ, xoá sổ các tổ chức liên quan đến Đề ga. Do vậy, giải pháp đặt ra là cần phải thống nhất lại nhận thức, thống nhất phương pháp hành động đối với Tin lành và Tin lành Đề ga; đồng thời các ngành, các cấp cử cán bộ tăng cường bám sát cơ sở hơn nữa, kịp thời phát hiện các dấu hiệu bất bình thường trong sinh hoạt tôn giáo để tham mưu cho các đồng chí lãnh đạo xử lý; và tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để làm chính trị.
Tóm lại, Tin lành Đề ga (cùng với Nhà nước Đề ga) là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc kết hợp với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi theo hướng tự trị, ly khai, là tổ chức chính trị phản động trong dân tộc thiểu số lớn thứ hai từ trước đến nay (lớn nhất là Fulro). Chúng có hệ thống tổ chức lỏng lẻo, nhưng được Mỹ hỗ trợ, phạm vi hoạt động trên một địa bàn rộng, đã lừa bịp, lôi kéo, khống chế một bộ phận quần chúng người dân tộc thiểu số và câu kết chặt chẽ với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá cách mạng Việt Nam. Thực chất đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị - giữa một bên là tiến bộ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chân chính, với mục tiêu giữ vững nền độc lập, tự chủ của đất nước, chăm lo phát tiển đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân, với một bên do các thế lực ngoại bang phản động "lãnh đạo", "giật dây", "xúi dục" với một mưu đồ đen tối, đẩy dân tộc ta tới chỗ mất độc lập, mất quyền làm người. Hơn lúc nào hết, các ngành, các cấp, các đồng chí cán bộ làm công tác tôn giáo cần nhận thức vấn đề một cách toàn diện hơn, bĩnh tĩnh xử lý mọi tình huống nảy sinh, không nóng vội, không tả khuynh duy ý chí, tránh rơi vào cạm bẫy về: nhân quyền, tự do tôn giáo.... mà kẻ thù đang giăng chờ sẵn.
Nêu lại vấn đề trên mong các đồng chí hiểu để điều tiết, tránh gây tác động xấu trong xã hội.
---------------------------------
(1). Chúng tôi xin dẫn chứng một vài số liệu để minh hoạ cho nhận định trên: Trước năm 1954, số lượng người theo Tin lành ở Tây nguyên chỉ có khoảng 6.000 người, giai đoạn 1954 - 1975, Mỹ trực tiếp xâm lược thì có khoảng 7.000 tín đồ, vứi 216 Chi hội, 42 Mục sư, 91 Truyền đạo, 50 Truyền đạo sinh và 7 Trung tâm truyền giáo. Nhưng đến năm 2001 thì có 360.000 người, 1.520 điểm nhóm, 2.129 Mục sư và truyền đạo - Theo số liệu Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét