THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC
Hà Xuân Nguyên
Kính thưa:
Được phép
của Ban Tổ chức, tôi xin trình bày Những giải pháp phát triển bền vững giữa
biên giới Việt Nam và Campuchia, song do nhận thức bản thân có hạn, nên
tham luận chỉ đề cập trong phạm vi biên giới giữa tỉnh Kon Tum (Việt Nam) và
tỉnh Ratanakiri (Campuchia), gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Một số vấn đề chung
a. Đặc điểm tình
hình
Kon Tum là tỉnh miền núi, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam,
phía Đông giáp tỉnh Gia Lai, phía Tây giáp tỉnh Ratanakiri (Campuchia) và Atôpơ
(Lào); diện tích tự nhiên gần 10.000 km2,
có 06 tộc người chính (Ba na, Xê
đăng, Giẻ - Triêng, Ja rai, Brâu, Rơ mâm), dân số
khoảng 380.000 người, trong đó 52 % là đồng bào các dân tộc thiểu số.
Do vị trí địa lý cùng với
đặc điểm điều kiện tự nhiên quy định, Kon Tum là một trong 10 địa phương của cả
nước (gồm các tỉnh: Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk
Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Kon
Tum) có chung đường biên giới với Campuchia, trong đó biên giới tiếp giáp
với tỉnh Ratanakiri dài 95 km, trải dài qua 03 xã: Sa Loong thuộc huyện Ngọc
Hồi, xã Mo Ray và xã Rờ Cơi thuộc huyện Sa Thầy. Nhân dân vùng biên giới 100 %
là đồng bào các dân tộc, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn, phương thức
sản xuất chủ yếu là canh tác nương rẫy và có một bộ phận nhỏ làm ruộng nước;
trình độ dân trí thấp, nhận thức về xã hội còn hạn chế.
Qua điều tra, khảo sát, tại
xã Sa Loong có gần 30 khẩu theo đạo Tin lành, 200 khẩu theo đạo Công giáo, xã Rờ Cơi có 80 khẩu theo đạo Tin lành, riêng xã Mo Ray thì không
có tín đồ tôn giáo. Đường biên giới giữa Kon Tum và Ratanakiri đi qua dạng địa
hình đặc trưng là đồi núi và rừng, độ cao trung bình từ 100 mét đến 1.400 mét,
có một số đoạn đi theo dãy núi cao, cắt qua rừng già, rậm rạp, tập trung chủ
yếu ở ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia.
Trong thời gian qua, được sự
quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, đời sống nhân dân các dân tộc nói chung,
đồng bào các xã biên giới tỉnh Kon Tum nói riêng được nâng cao, cơ bản chấm dứt
nạn đói kinh niên; các xã đều có trường cấp 1, cấp 2, có trạm y tế, giao thông
đi lại tương đối tốt trong các mùa, công tác chăm sóc, khám chữa bệnh cho nhân
dân được quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì tỷ lệ đói
nghèo còn chiếm tỷ lệ cao (có nơi lên đến 70 - 80 %), trình trạng mù chữ hoặc
tái mù vẫn đang tiếp diễn. Từ thực trạng này, các thế lực phản động cực đoan
lợi dụng vấn đề đói nghèo, dân tộc, tôn giáo kích động đồng bào vượt biên trái
phép, tạo bất ổn ở biên giới để từng bước quốc tế hoá mọi vấn đề, tạo cớ cho
các thế lực thù địch can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
b. Các
điều ước về biên giới đã ký giữa Việt Nam và Campuchia
Đến nay, ở cấp vĩ mô, Việt Nam và
Campuchia đã chính thức ký 05 hiệp ước, hiệp định về biên giới, cụ thể:
1. Hiệp định về vùng nước
lịch sử giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, ký ngày 07-07-1982 tại thành phố Hồ Chí
Minh (Việt Nam ).
2. Hiệp ước về nguyên tắc
giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, ký ngày 20-07-1983 tại thủ đô Phnôm Pênh
(Campuchia).
3. Hiệp định về quy chế biên
giới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân
Campuchia, ký ngày 20-07-1983 tại thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia).
4. Hiệp
định về hoạch định biên giới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, ký ngày 27-12-1985 tại thủ đô Phnôm Pênh
(Campuchia).
5. Hiệp ước giữa nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia năm 1985, ký ngày 10-10-2005 tại thủ đô Hà Nội (Việt
Nam).
Trong các văn bản trên, thì
Hiệp ước ký năm 1985 đánh dấu một mốc rất quan trọng. Đây là Hiệp ước được ký
kết giữa hai quốc gia độc lập, có chủ quyền trên cơ sở tôn trọng toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, phù hợp với luật pháp. Nội dung Hiệp ước phù hợp với lập trường
của 02 nước từ sau năm 1954 đến nay.
Riêng đối với Hiệp ước bổ
sung năm 2005 được ký kết nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Hun Sen. Nội
dung chính của thoả thuận này là xây dựng trên nguyên tắc tôn trọng thực tiễn
lịch sử và bám sát nguyên lý cơ bản về giải quyết vấn đề biên giới, thể hiện
quyết tâm là “sớm kết thúc tiến trình
phân giới, cắm mốc”, hai bên đã thống nhất được 6/7 điểm còn khác biệt,
cũng như nguyên tắc giải quyết những vấn đề tồn tại và thống nhất lộ trình phân
giới, cắm mốc trên đất liền đến cuối tháng 12-2008, nhằm tạo cơ sở vững chắc
cho việc thực hiện phương châm xây dựng đường biên giới Việt Nam - Campuchia
thành đường biên giới hoà bình, ổn định,
hợp tác, cùng phát triển.
Ở cấp
Trung ương, hai bên đã thiết lập Uỷ ban
hỗn hợp về hợp tác kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật Việt Nam - Campuchia (tháng 4-1994).
Ở cấp cơ sở, tỉnh Kon Tum và tỉnh Ratanakiri đã có những cam kết về thường
xuyên có các cuộc tiếp xúc, trao đổi, bàn biện pháp phát triển kinh tế, xã hội
và phối hợp bảo vệ an ninh biên giới quốc gia.
2. Kết quả triển khai thực hiện kế hoạch hợp
tác giữa tỉnh Kon Tum (Việt Nam )
và tỉnh Ratanakiri (Campuchia)
Trên cơ sở những hiệp ước,
hiệp định mà Chính phủ hai nước ký kết, đến nay, tỉnh Kon Tum và Ratanakiri đã
có 07
cuộc tiếp xúc, trao đổi song phương và sẽ tiếp tục duy trì thường xuyên mỗi năm
01 lần. Ngoài các nội dung bàn về hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội, vấn đề phối
hợp, bảo vệ an ninh biên giới quốc gia được các bên quan tâm cho rằng, giải
quyết tốt vấn đề biên giới là góp phần thúc đẩy mối quan hệ láng giềng, hữu
nghị, tạo cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để 02 nước cùng nhau giải quyết dứt
điểm vấn đề biên giới trên đất liền, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa hai
dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm ăn, sinh sống của nhân dân hai
nước trong khu vực biên giới. Đây là lĩnh vực đánh giá là thành công nhất trong
hợp tác. Cả tỉnh Kon Tum và tỉnh Ratanakiri đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo
điều kiện cho chính quyền xã, huyện, đồn biên phòng và lực lượng chức năng có
liên quan tổ chức hội đàm, gặp gỡ, giao lưu, phối hợp chặt chẽ nhằm kịp thời
phát hiện, ngăn chặn, làm rõ, xử lý các vụ việc vi phạm xảy ra trên biên giới;
phối hợp trong công tác chống buôn lậu, ma tuý; phối hợp biện pháp giữ gìn và
đảm bảm an ninh chính trị và trật tự xã hội của mỗi nước; tiếp tục khẳng định
nguyên tắc không cho phép lực lượng phản động sử dụng lãnh thổ của nước này
chống phá nước kia. Trong khi đó, quan hệ hợp tác kinh tế được lãnh đạo hai
tỉnh thẳng thắn nhìn nhận là còn "khiêm tốn", chưa tương xứng với lợi
thế, tiềm năng, nhưng vẫn có những tiến bộ nhất định và các bên cũng thừa nhận
rằng, chính sự ổn định về an ninh biên giới và những bước tiến mới trong hợp
tác kinh tế là nền tảng quan trọng để tỉnh Kon Tum và tỉnh Ratanakiri đẩy mạnh
hợp tác văn hoá, xã hội. Đặc biệt, trong thời gian qua, Kon Tum đã nhận được sự
hỗ trợ tích cực, chặt chẽ từ Ratanakiri trong công tác tìm kiếm, cất bốc, hồi
hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trong các
cuộc kháng chiến trên đất Campuchia.
Về kế
hoạch phân giới, cắm mốc biên giới. Đây là vấn đề lớn đối với Trung ương, nhưng
tương đối thuận lợi ở đường biên giới Kon Tum - Ratanakiri. Bởi vì, theo thoả
thuận chung, đường biên Việt Nam - Campuchia sẽ có 374 cột mốc, trong đó biên
giới giữa tỉnh Kon Tum và tỉnh Ratanakiri sẽ có 21 cột. Thời gian qua đội kỹ
thuật cắm mốc liên hợp đã định vị 21 điểm trên bản đồ để cắm 22 mốc (trong đó có 01 mốc đôi). Với nhiều nỗ
lực, cố gắng, ngày 09-07-2007 vừa qua, tại khu vực biên giới xã Mô Ray (huyện
Sa Thầy) và xã Nhang (huyện Đun Mia, tỉnh Ratanakiri) hai bên đã tiến hành lễ
khởi công xây dựng cột mốc số 21. Tiếp đến, vào ngày 27-08-2008, tại Hà Nội đã
diễn ra lễ ký Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Vương quốc Campuchia và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Theo Hiệp ước, giao điểm của 3 đường biên giới Việt Nam - Campuchia, Việt Nam -
Lào, Lào - Campuchia được xác định tại đỉnh núi có độ cao 1.086 mét so với mặt
nước biển, thuộc địa bàn tỉnh Kon Tum (Việt Nam), tỉnh Atôpơ (Lào) và
Ratanakiri (Campuchia). Vị trí các giao điểm trên được các bên ký xác nhận. Như
vậy, tính đến nay, biên giới giữa tỉnh Kon Tum và Ratanakiri còn lại 02 cột
mốc. Vấn đề này hiện được lãnh đạo hai tỉnh xúc tiến triển khai, phấn đấu cố
gắng hoàn thành đúng tiến độ đề ra là trước tháng 12-2008.
Mặt khác, do trở ngại về địa
hình, giao thông và điều kiện chung mỗi bên, nên trên thực tế, việc hợp tác để
bảo vệ biên giới chung còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, cụ thể:
- Thứ nhất, công tác giáo dục, tuyên
truyền cho cán bộ, nhân dân khu vực biên giới nâng cao ý thức cảnh giác trước
âm mưu của các thế lực thù địch hòng chia rẽ quan hệ đoàn kết truyền thống giữa
hai nước chưa được quan tâm đúng mức, kịp thời.
- Thứ hai, tình trạng quản lý biên giới còn lỏng lẻo, đã để cho các
kẻ xấu từ bên ngoài đột kích, hoạt động, tiến hành móc nối, lôi kéo đồng bào
các dân tộc ở Kon Tum, nhất là trong đồng bào có đạo ở huyện Sa Thầy tổ chức
vượt biên sang Campuchia với hy vọng được đến định cư tại Mỹ đã gây nên những
bất ổn nhất định cho chính quyền hai tỉnh Kon Tum và Ratanakiri, gây ra những
dư luận trái chiều. Đây không phải là việc di dân bình thường hoặc vấn đề kinh
tế đơn thuần, mà là vấn đề chính trị, có bàn tay can thiệp trắng trợn của Mỹ và
các thế lực thù địch thông qua tổ chức Cao uỷ Liên Hiệp quốc về quyền con người
(UHCR) để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Kon Tum là địa phương có người
vượt biên sang Campuchia, nhưng việc phối hợp từ phía bạn để giải quyết vấn đề
còn nhiều nội dung chưa tốt, cần nhìn nhận để rút kinh nghiệm.
Một số bài học kinh
nghiệm rút ra qua triển khai thực hiện:
- Để biên giới giữa tỉnh Kon
Tum và tỉnh Ratanakiri tiếp tục được duy trì ổn định, vấn đề quan trọng nhất là
phải có sự đồng thuận từ phía lãnh đạo cấp cao, sự ủng hộ, cùng triển khai,
cùng phối hợp đồng bộ giữa hai địa phương mới đem lại kết quả tốt.
- Để kịp thời phát hiện, xử
lý những vi phạm xảy ra tại biên giới, việc trao đổi thông tin giữa các đồn
biên phòng, giữa chính quyền cơ sở hai bên cần được tăng cường hơn nữa.
- Để tránh xảy ra những xung
đột, hiểu nhầm không đáng có diễn ra tại cơ sở, nên công tác này cần được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự hướng dẫn, tư vấn của các
ngành ở Trung ương đối với địa phương.
3. Một số giải pháp để phát triển bền vững
giữa biên giới tỉnh Kon Tum (Việt Nam ) với tỉnh Ratanakiri (Campuchia)
a. Một số tác động liên quan
a1. Những tác
động tích cực:
- Cũng giống như bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới, biên giới bao giờ cũng là vấn đề phức tạp. Với chiều dài
khoảng 95 km giữa Kon Tum và Ratanakiri (và
1.137 km giữa Việt Nam và Campuchia), lịch sử vấn đề biên giới giữa hai
nước cũng có những thăng trầm, thậm chí có thời kỳ biên giới còn là nguyên nhân
dân đến xung đột (như thời kỳ Pol Pot,
giai đoạn 1975 - 1979) và nơi đây còn là địa bàn luôn được các thế lực thù
địch bên ngoài lợi dụng, làm bàn đạp để xâm nhập trái phép vào lãnh thổ Việt
Nam (như vụ xâm nhập của Hoàng Cơ Minh…).
Tuy vậy, cùng với những tiến triển tốt đẹp trong quan hệ chính trị hai nước
thời gian qua, vấn đề biên giới hai nước cũng từng bước được giải quyết.
- Các tỉnh biên giới đóng
vai trò là cầu nối và đi tiên phong trong việc xây dựng, củng cố mối quan hệ
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa hai nước, vì vậy quan hệ hợp tác giữa các tỉnh
biên giới bao giờ cũng được Chính phủ hai nước quan tâm, đặt vào vị trí quan
trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển quan hệ chung.
- Hai địa phương, cũng như
hai nước có vị trí địa lý cận kề, nhân dân hai nước có quan hệ hữu nghị lâu
đời, có truyền thống đoàn kết, gắn bó và chia sẻ, giúp đỡ nhau trong lúc hoạn
nạn, khó khăn; tiềm năng hợp tác chưa khai thác hết.
- Lãnh đạo hai tỉnh Kon Tum
- Ratanakiri và nhân dân hai bên đều hiểu và thấy rõ tầm quan trọng của việc
tăng cường, củng cố mối quan hệ, hữu nghị và hợp tác vì mục tiêu chung là xây
dựng, phát triển, hoà bình và phồn thịnh.
- Xu thế hội nhập thế giới,
khu vực đang thuận lợi cho việc phát triển quan hệ hợp tác hai địa phương trong
khuôn khổ song phương và đa phương.
a2. Những tác
động tiêu cực:
- Việc giải quyết vấn đề
biên giới còn phụ thuộc vào lập trường chính trị của lực lượng cầm quyền tại
Campuchia, cũng như gắn với vấn đề kiều dân gốc Việt đang sinh sống, làm ăn tại
Campuchia. Do vậy, việc phát triển bền vững hay không bền vững giữa biên giới
hai tỉnh còn phụ thuộc vào quan hệ giữa hai Chính phủ.
- Hai bên
đều là tỉnh nghèo, phát triển chậm, nên khả năng hỗ trợ cho nhau còn gặp nhiều
khó khăn.
- Một số bộ phận nhân dân
hai địa phương chưa nhận thức rõ được lợi ích và tầm quan trọng của việc tăng
cường quan hệ hữu nghị, hợp tác.
- Một số thế lực phản động
vẫn còn âm mưu chia rẽ, cản phá quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia.
b. Gải pháp thực hiện
1. Tiếp
tục đẩy mạnh việc tăng cường hợp tác giữa hai nước Việt Nam và
Campuchia nói chung, giữa hai tỉnh Kon Tum và Ratanakiri nói riêng, cụ thể:
- Đối với Trung ương: Chính phủ tiếp tục
đẩy mạnh, đưa quan hệ hợp tác hai nước lên tầm cao mới, duy trì việc trao đổi,
gặp gỡ giữa hai Chính phủ để đánh giá việc thực hiện các điều khoản đã ký kết,
cũng như bàn biện pháp tháo gỡ vướng mắc đang xảy ra làm cơ sở cho địa phương
thực hiện.
- Đối với địa phương:
+ Phối
hợp tốt với phía bạn để có kế hoạch cùng triển khai, theo dõi, giám sát việc
thực hiện các cam kết, thoả thuận mà hai bên đã thống nhất.
+ Tiếp
tục tạo điều kiện cho nhân dân hai nước ở khu vực biên giới gần nhau giao lưu,
trao đổi hàng hoá.
+ Tạo
điều kiện thuận lợi cho chính quyền xã, huyện, các đồn biên phòng và các ngành
liên quan tổ chức gặp gỡ, trao đổi thông tin, phối hợp bảo vệ, giữ vững đường
biên giới hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển; đồng thời nên tăng thời
lượng giao ban để kịp thời trao đổi, xử lý thông tin về những vấn đề liên quan
đến biên giới, nhất là công tác chống thâm nhập, chống vượt biên trái phép;
phòng chống bệnh ở người, gia súc và tội phạm ma tuý xuyên quốc gia và tăng cường các biện pháp chống hàng lậu, đề
phòng ngăn chặn tiền giả qua biên giới…
2. Trên
cơ sở hoàn thành việc cắm mốc biên giới, các cấp, các ngành liên quanầhi bên
cần đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ và nhân dân nâng
cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, khẳng
định chủ quyền quốc gia đã đã phân định giữa hai dân tộc cần tiếp tục được tôn
trọng, đảm bảo.
3. Tăng
cường công tác quản lý hành chính tại các xã biên giới, trong đó đặc biệt lưu ý
đến việc phát triển đạo tại nhân dân các xã biên giới. Bởi vì, những địa bàn
nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến an ninh này luôn được các đối tượng thù địch,
có thể đội lốt tôn giáo tìm cách thâm nhập, trà trộn để hoạt động, gây ảnh
hưởng.
4. Hai
bên tiếp tục thực hiện và thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc đã cam kết là không
cho các thế lực phản động sử dụng biên giới nước này để chống phá nước kia;
đồng thời hỗ trợ nhau trong việc điều tra, bắt giữ, xác minh các thông tin tội
phạm ma túy liên quan đến hai nước, hai địa phương.
5. Lãnh
đạo tỉnh Kon Tum và Ratanakiri cần bàn bạc, trao đổi và thống nhất trong việc
phối hợp, giải quyết vấn đề đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum - Việt Nam
vượt biên trái phép sang Campuchia, tránh để kẻ địch lợi dụng, xuyên tạc, bóp
méo sự thật rồi quốc tế hoá vấn đề để tìm cách can thiệp.
Để có cơ sở cho việc thực hiện tốt các giải
pháp bảo vệ biên giới nêu trên, hai tỉnh cũng cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình
hợp tác, phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt hơn nữa công
tác bảo vệ biên giới. Theo tôi, cần phải:
1. Nâng
cấp cửa khẩu quốc tế Bờ Y và tổ chức nghiên cứu, khảo sát xây dựng dự án chợ hai biên (và cả chợ ba biên, có cả Lào) như đại diện hai tỉnh đã cam kết trong cuộc gặp
gần đây. Theo tôi, nếu có thể được, hai tỉnh có thể cùng đầu tư mở xí nghiệp
chế biến sản phẩm mì, gỗ, giấy tại khu vực biên giới, nơi có nguồn nguyên liệu,
tạo điều kiện mở rộng kinh tế, trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn bán được thuận
lợi.
2. Tăng
cường xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế mỗi bên qua lại tìm kiếm cơ hội đầu tư, hợp tác phát triển kinh tế với các
chính sách và cơ chế thông thoáng ngoài chính sách, cơ chế của hai Chính phủ
cho khu vực tam giác phát triển trên nguyên tắc cùng có lợi.
3. Tăng
cường hợp tác, hợp tác lâu dài về đào tạo chuyên môn ngắn hạn hạơc dài hạn tùy
theo yêu cầu mỗi bên và hình thức đào tạo theo thoả thuận song phương. Trước
mắt, tăng cường đào tạo về ngôn ngữ mỗi nước.
Do nhận
thức có hạn, những vấn đê nêu trên chắc không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong được quý vị góp ý, trao đổi thêm. Xin chân thành cảm ơn.
===========
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét