Thạc
sĩ Hà Xuân Nguyên
Người Brâu ở Việt Nam hiện nay cư trú tập
trung chủ yếu và duy nhất tại làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon
Tum với số dân là 331 người (68 hộ, trong đó có 150 nữ).
Đã có một thời các phương tiện báo chí
lên tiếng cảnh báo về sự “tuyệt chủng” của dân tộc này, nhưng sự thật không
phải vậy. Trước năm 1975, vì tình hình chính trị trong nước bất ổn, người Brâu
Campuchia có đến định cư cùng với người Brâu Việt Nam tại sát biên giới, theo
ước tính số dân lúc đó trên 3.000 người (gồm cả người Brâu Campuchia). Sau giải
phóng 1975, người Brâu Việt Nam được đưa về sống tại làng Đăk Mế (chỉ có 6 hộ
30 khẩu - thời điểm 1977) để có điều kiện phát triển kinh tế. Sau năm 1979, khi
tình hình Campuchia bước đầu đi vào ổn định, số người Brâu còn lại ở khu vực biên giới tiếp tục về lại làng cũ.
Lúc này, các ngành chức năng đi thống kê, điều tra lại thì người Brâu chỉ còn
trên 200 người. Căn cứ vào số liệu này các ngành chức năng nghĩ rằng tộc người
Brâu đang có nguy cơ bị diệt vong dần. Thế nhưng, ngày nay, nhờ với sự quan tâm
đặc biệt của Đảng, Nhà nước, cuộc sống người Brâu đã có sự thay đổi, nhiều hộ,
nhiều gia đình không chỉ đủ ăn mà có tích lũy; nhiều người được biết chữ; số
trẻ em đến trường ngày một tăng.
Tuy số lượng dân số ít, song người Brâu
có nhiều phong tục tập quán rất đặc trưng. Qua tìm hiểu, chúng tôi xin trình
bày một số vấn đề sau:
1.
Về tên gọi của làng - Đăk Mế
Cũng như bao tộc người khác, người Brâu
thường đặt tên làng bao giờ cũng gắn liền với nguồn nước. Theo tiếng Brâu, Đăk
Mế có nghĩa là Làng chủ chốt (Đăk có
nghĩa là nước, Mế có nghĩa là chủ chốt). Sở dĩ có tên gọi này là trước đây tổ
tiên của họ sống gần sông Đăk Mế (thuộc lãnh thổ Campuchia ngày nay), không
biết sự thật có dòng sông này ở Campuchia thật hay không, song đa số người dân
ở đây đều khẳng định vậy. Mặt khác, do có quan hệ đồng tộc, dù là hai dân tộc
mang hai quốc tịch khác nhau, song người Brâu ở Việt Nam với người Brâu ở
Campuchia (kể cả người Brâu ở Lào) có
mối quan hệ khắng khít, thường xuyên qua lại thăm viếng nhau. Bởi vùng khu vực
này nằm giữa ngã ba biên giới nên điều kiện đi lại giữa “ba nước” rất gần. Ngày
nay, đến làng Đăk Mế lúc nào cũng gặp “người Lào” hay “người Campuchia” ở đó, và ngược lại, các làng người Brâu ở
Campuchia hay ở Lào đều có “người Việt
Nam”. Thực trạng này vừa tạo ra sự thuận tiện trong giao lưu phát triển
kinh tế, văn hóa, nhưng nó cũng vừa tiền ẩn các yếu tố phức tạp là dễ bị các
thế lực thù địch lợi dụng làm mất đoàn kết giữa các dân tộc với nhau, ảnh hưởng
đến an ninh chính trị.
2.
Về họ của người Brâu
Người Brâu không có họ, nhưng trên thực
tế khi khai sinh đàn ông vẫn lấy “họ” THAO, đàn bà thì “họ” NĂNG.
Qua khảo sát chúng tôi được biết, tiếng
Brâu chữ THAO có nghĩa là thương nhiều
lắm, hết chỗ thương, cách gọi đó
là sự thể hiện tình cảm của cộng đồng dành cho người con trai khi mới ra đời
(như các dân tộc Ba Na, Xơ Đăng.. con trai thì A). Thế nhưng, họ NĂNG ở người
con gái xuất phát từ việc người dân nhìn thấy con Năng (loại bò sát có 6 chân,
giống con bò cọp) bò đi và có cái gì khác thường nên người Brâu lấy tên loài
vật này đặt vào tên trước của người con gái. Vậy, tại sao lại có hiện tượng này
?
Theo tôi, việc các tộc người thiểu số
không có họ nhưng vẫn có “họ đệm” đằng trước là có tính phổ quát, là điều bình
thường, song cái lưu ý ở đây là tại sao người Brâu không đệm trước tên bằng từ
nào khác mà dùng từ THAO mà lại chỉ cho con trai. Bởi ý nghĩa của từ THAO là
thương, quá thương thì điều này có gì gợi ta phải suy nghĩ về một dân tộc có số
dân ít, trình độ sản xuất thấp thì họ có ý thức được về sự sinh tồn của mình
trong tiến trình phát triển với việc cạnh tranh sinh tồn? Việc sản xuất, chinh
phục thiên nhiên đòi hỏi phải cần đến sức mạnh của người nam đã thể hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét