7/11/13

SỰ THỂ HIỆN TÌNH CẢM CỦA ĐỒNG BÀO BA NA ĐỐI VỚI NGƯỜI THÂN KHI QUA ĐỜI


             Hà Xuân Nguyên

Bana là một dân tộc lớn, nói ngôn ngữ Môn - Khơme, dân số hiện nay khoảng trên 140.000 người, sống tập trung ở Gia Lai, Kon Tum và rải rác ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định.... Cho đến nay, chưa có một tư liệu chính xác nào nói về những cuộc chuyển cư của người Bana, song trên thực tế, có thể xem họ là một trong những cư dân “bản địa” sống lâu đời nhất ở khu vực Trường sơn - Tây nguyên.

Người Bana cũng như các cộng đồng dân tộc anh em khác, mặc dù cuộc sống kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng đời sống tinh thần của họ rất phong phú, đa dạng. Cuộc đời của họ gắn liền với những lễ hội quanh năm với niềm hy vọng về một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn. Quan niệm hành xử giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên được người Bana khái quát, quy định thành những chuẩn mực căn bản trong đời sống xã hội bắt nguồn từ truyền thống quý báu là biết ơn tổ tiên, đã tạo nên chất keo kết dính mọi người lại với nhau - mà hạt nhân của vấn đề này là ở cách thể hiện tình cảm của người sống đối với người chết. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi cho rằng đó là cơ sở “gốc” để con người “định hướng” nhận thức, và đây còn là “nhân sinh quan”, “thế giới quan” của một cộng đồng người để hình thành nên những “sắc thái” riêng giúp họ tìm về cội nguồn dân tộc, tìm đến nhau vì quan hệ họ hàng thân thuộc. Do vậy, để  hiểu rõ hết ý nghĩa giá trị nhân văn của quan niệm này, chúng ta lại bắt đầu từ lúc họ sắp qua  đời, đến khi chết và sau khi chết ra sao ?
1. Trước khi qua đời
Người Bana quan niệm mỗi người đều có linh hồn (m'ngol) và hồn ở mỗi người, mỗi lứa tuổi mạnh yếu khác nhau. Những hồn yếu dễ bị lạc, dễ bị các thần linh hay ma dữ bắt đi (nên những người có hồn yếu thường hay bị ốm đau hơn những người có hồn khỏe mạnh). Bởi thế, trong gia đình khi có người bệnh, gia chủ phải mời Pơjâu (phù thủy) đến bói, bắt mạch xem hồn ở đâu để gọi về (cũng có thể người ốm là do có những hành động xúc phạm đến thần linh hay làm những điều bậy bạ trái với phong tục cộng đồng nên bị Yàng phạt).
Nếu người bệnh không thể qua khỏi, lúc này gia đình cùng bà con trong làng cử thanh niên vào rừng chặt cây làm quan tài, một số khác ở nhà  cũng đem các cây gỗ hay bất cứ đồ vật gì ra để chặt với mục đích gây ra tiếng đục đẽo làm cho người bệnh nghe thấy, sợ rằng mình sẽ chết nên phải gắng sức khỏe lại, vượt qua ốm đau sống cùng cộng đồng. Trong trường hợp bệnh càng nặng, kéo dài thời gian thì dân làng cử người đến cùng gia đình canh thức chăm sóc, hoặc cũng có thể giúp gạo, thức ăn cho gia chủ. Nếu người bệnh là cha mẹ trong một gia đình có nhiều con, trước khi chết họ có phong tục phân chia tài sản cho những người còn sống, thông thường thì con út bao giờ cũng nhiều hơn.
2. Sau khi qua đời
Người bệnh sau khi tắt thở, người nhà phải tôh xơgờr (đánh trống) báo cho dân làng biết là có người qua đời để  được giúp đỡ. Đối với những họ hàng ở xa thì gia đình nhờ người trong làng đến báo cho biết để cùng nhau thăm viếng.
Đến đây, gia đình tiến hành việc phân chia tài sản cho người chết (người Bana quan niệm rằng nếu để đồ dùng của người chết lại sẽ làm cho người sống thấy thương nhớ, đau xót hơn). Bà con trong làng khi đến thăm cũng có thể cho người chết một số đồ để dùng ở “thế giới bên kia” như khăn, đồ áo cũ... (những đồ này được gia chủ đem treo một bên thi hài người chết). Lúc này, gia chủ nấu một nồi cơm nhỏ với một ít thức ăn để sẵn bên thi hài, bà con đến thăm bốc cơm, thức ăn đó cho vào miệng người chết. Việc làm đó có ý nghĩa cho họ được ăn bữa cuối cùng với người còn sống để tỏ lòng thương tiếc.
Thi hài người chết đặt trong nhà luôn để đầu quay về hướng Tây (hướng mặt trời lặn). Trước khi tẩm liệm, họ hàng thân thiết đến vuốt mặt người chết. Khi tẩm liệm xong, thi hài được mặc đồ mới nhất rồi đặt vào quan tài kèm theo những đồ người chết được chia và dân làng cho (những đồ dùng khác như ché, chum, gùi....không chôn theo nhưng để trên mồ người chết). Thời gian để xác khoảng 2-3 ngày (nếu là nhà giàu thì 1 tuần).
3. Nghi thức an táng
Người dân trong làng giúp gia đình cùng đào huyệt.
Trong đám tang thứ tự đi như sau: Dân làng đi trước, tiếp đến là đội cồng chiêng (đối với nhà giàu thì có cả đội múa và vừa đi vừa múa), sau đó là quan tài, bà con họ hàng người chết theo sau và bám vào quan tài vừa đi vừa khóc.
Nếu người chết là già làng thì khi khiêng đi chôn từ nhà ra phải đi quanh làng một vòng, vừa đi vừa đánh trống, đánh cồng chiêng, rồi mới đến nơi chôn.
Khi đắp mồ cho người chết, phần đầu bao giờ cũng đặt cao hơn phần chân, lúc này chôn đầu quay về hướng nào cũng được tùy theo địa hình. Khi chôn, người ta dùng một ống nhỏ để thông nối từ “trần gian” của người sống với thế giới người chết để người nhà đổ thức ăn vào đó cho họ ăn. Sau đó, tất cả mọi người phải đến giọt nước tắm rửa sạch sẽ rồi mới về nhà; người thân phải đi xuống trước, tiếp đến là bà con họ hàng gần xa; cuối cùng, mọi người về nhà gia chủ ăn và uống rượu.
Người Bana tin rằng con người khi chết linh hồn không mất đi mà sang sống ở thế giới khác - thế giới bên kia của tổ tiên, nên họ có tục làm lễ Pơthi (bỏ ma hay bỏ mả) để tiễn đưa hồn ra đi hay để chuyển trạng thái sống cho người chết. Do vậy, họ không làm đền miếu, lăng tẩm hay bàn thờ vĩnh viễn và cũng không có tục thờ cúng tổ tiên sau khi đã làm lễ bỏ mả.
4. Người Bana thể hiện lòng thương nhớ người thân mới qua đời
Sau khi hoàn tất mọi việc, bà con thân thuộc ở lại với gia chủ để chia buồn (thông thường từ 1-3 ngày, nếu nhà giàu thì khoảng 1 tuần). Trong 3 ngày đầu, sáng nào gia đình cũng đem cơm và thức ăn đến mộ  bỏ vào ống cho người chết ăn, đến ngày thứ 4 thì đến rẫy và những nơi người chết lúc sống  từng gắn bó để khóc.
Từ lúc chôn xong đến khi làm lễ bỏ mả, người Bana thường xuyên đến mộ đốt lửa cho người chết sưởi, quét dọn mồ mả. Sau khoảng 3 năm,  khi gia đình lo chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và cảm thấy đỡ nhớ người chết thì tiến hành làm lễ bỏ mả.
Nếu gia đình có chồng hoặc vợ chết thì người còn sống phải cắt tóc để tỏ lòng thương nhớ. Trong thời gian này, người sống không được tham dự các cuộc vui, sau khi làm lễ bỏ mả thì họ mới được quyền tái lập gia đình.
Khi chôn xong, cứ đúng một tháng tròn thì gia chủ tổ chức mổ heo, gà  (tùy theo điều kiện từng gia đình) rồi cùng bà con họ hàng lên mồ đem thức ăn đổ vào ống cho người chết dùng trước, sau đó mọi người mới ăn uống xong rồi về nhà.
5. Nghi thức tiến hành lễ bỏ mả
Nghi thức tiến hành lễ bỏ mả ở người Bana gồm các bước sau :
        1. Người thân trong gia đình đọc bài cúng vĩnh biệt người chết
        2. Lễ tiễn đưa linh hồn người chết về hẳn với tổ tiên
Lễ bỏ mả kéo dài từ 3 - 7 ngày. Nghi lễ cúng khóc người chết không cầu kỳ, nhưng tình cảm.
Đến ngày đã định (thường là ngày thứ hai của lễ bỏ mã) - gọi là ngày anar tuk, khi mọi người đến đông đủ, lễ được tiến hành. Lúc này người thân của gia đình vào nhà mả đọc lời cúng bỏ mả và khóc than lần cuối với người chết. Khi lời cúng được đọc xong, cồng chiêng bắt đầu nổi lên và cuộc tiễn đưa lưu luyến bắt đầu.
Sau khi lễ tiễn đưa kết thúc, thì người chết đã đi và người sống sẽ không còn dính líu, ràng buộc gì với người chết nữa. Đến đây, mọi người đưa gia chủ ra sông hoặc suối tắm rửa, gội đầu rồi mặc bộ quần áo mới cho họ (ở những nơi xa nguồn nước thì mọi người tế nước vào những người thân của người chết), và đưa họ vào nhảy múa chung vui với dân làng. Lúc này,  cồng chiêng chuyển ngay sang những bài nhạc vui nhộn của đời thường. Thế là từ đây, thời kỳ để tang đã hết, những người góa được hoàn toàn tự do, có thể lấy vợ lấy chồng lại và có thể tham dự mọi cuộc vui của bà con làng xóm.

*          *
                                                     *

Như vậy, mối quan hệ tình cảm thiêng liêng của người sống đối với người chết ở đồng bào Bana, từ trong tiềm thức, tự nó toát lên những giá trị nhân văn cao cả, thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Bana nói riêng, của  dân tộc Việt Nam nói chung, chúng ta cần phải trân trọng. Xuất phát từ quan niệm “chết chưa phải là hết”, họ biết tự mình sống có trách nhiệm với đồng loại, với tổ tiên; tự biết lo rèn luyện, tu dưỡng, không làm những chuyện trái với lương tâm hay đi ngược lại lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia. Cơ sở của nhận thức này tự nó tạo ra cho xã hội một thế hệ con người mới có lối sống lành mạnh, ân tình, thủy chung, thật thà,  có tình yêu quê hương, đất nước thiết tha... để làm điểm tựa tinh thần cho cộng đồng vững bước hơn trong cuộc sống hôm nay ./.
                                            -------------------




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét