Hà Xuân Nguyên
Xê đăng là một dân tộc lớn, nói ngôn ngữ
Môn - Khơme, dân số hiện nay khoảng trên
100.000 người, cư trú chủ yếu ở địa bàn tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Cho đến nay,
chưa có một tư liệu chính xác nào nói về những cuộc chuyển cư của người Xê
đăng, song trên thực tế, có thể xem họ là một trong những cư dân “bản địa” sống
lâu đời nhất ở khu vực Trường sơn - Tây nguyên.
Người Xơ đăng biết làm nông nghiệp với
hình thức canh tác chủ yếu là rẫy, thế nhưng, phần lớn những vùng họ cư trú lâu
đời lại là nơi căn cứ cách mạng nên được cán bộ ta vận động kiên trì giúp họ
khai hoang làm ruộng khô, ruộng nước. Liên quan đến loại hình sản xuất này, đi
kèm theo đó là những lễ hội phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng, cầu mong sự vật
được sinh sôi nảy nở, phát triển; đồng thời kèm theo đó là những thói quen do
con người tạo ra qua quá trình thích ứng
với môi trường xung quanh. ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến 3 vấn đề là:
Hôn nhân, cách thức an táng người chết và tục ăn thuốc ở người Xê đăng.
I.
SƠ LƯỢC CHUNG VỀ NHÓM VÀ TÊN GỌI
Dân
tộc Xơ đăng bao gồm các nhóm:
-
Xơ teng tự nhận là Xteng, Xơ tong, Hđăng, Riteng tuỳ theo
từng vừng được trên sách, báo bằng những tên gọi chênh lệch phiên âm không đúng
-
Tơ đrá hay là Tơ Trá, Hđrá sinh sống chủ yêu ở vùng giáp ranh giữa 3 huyện
Đăkglei, thị xã Kon Tum và Konplong
-
Mơ nâm thường bị nhầm lẫn với người Bơ nâm, một tên gọi có tính miệt thị đẻ
chỉ những nhóm Ba na chậm tiến ở vùng cao hơn.
-
Ca dong là tên tự gọi của một bộ phận
ở huyện Sa Thầy và Konplong. Tên này được phổ biến rộng rãi với người Ca dong ở huyện Trà My (Quảng Nam) và
một số nơi ở tỉnh Quảng Ngãi...
-
Hà lăng là nhóm di động nhiều, tuy
trên ý thức thống nhất là một nhóm, nhưng ở từng địa phương lại mang những
phiêm âm khác nhau mà họ tự nhận là Xơ
lang, Xa lang. Tại xã Đăk Na, huyện Đăk Tô, do tên gọi và phong tục gần
giống người Xơ teng và được các cư
dân trong vùng gọi là Xlang hay Hà lăng.
2. HÔN NHÂN
Quan hệ hôn nhân ở người Xê đăng luôn tuân
thủ những nguyên tắc cơ bản thống nhất của cộng động đề ra, bao gồm:
- Nam nữ được tự do tìm hiểu nhưng quyền
quyết định ở bố mẹ
- Cấm loạn luân
- Quan hệ tính giao trước hôn nhân bị cấm
ngặt
Hôn nhân được tiến hành theo các bước
sau:
1. Giai đoạn tìm hiểu bạn đời
Trước đây, việc dựng vợ gả chồng cho con
cái ở người Xơêđăng do cha mẹ quyết định, nhưng về sau nhận thức người dân có
sự đổi mới hơn, nam nữ tự do tìm hiểu. Tiêu chuẩn nên vợ nên chồng chưa phải là
sắc đẹp, cũng không phải là môn đăng hộ đối, mà là người chăm chỉ lao động, có
sức khỏe, gái thì giỏi làm rẫy, dệt vải, trai thì giỏi sắn bắn, gan dạ, dũng
cảm. Nếu phải lòng ai thì người trai rủ bạn gái đó cùng đi chơi, cùng làm chung
rẫy, cùng giúp nhau vừa để có điều kiện tìm hiểu, vừa có dịp để thể hiện tình
cảm của mình, nếu được thì người này về trình bày với cha mẹ để cha mẹ chọn
người làm mối đến “đặt vấn đề” với người con gái.
Thông thường, người làm mối bao giờ cũng
đứng tuổi, đã có gia đình, có tài ăn nói để biết khéo léo trình bày mọi việc
được suông sẻ, có trách nhiệm gặp riêng cô gái để trình bày ý nguyện của người
con trai - nếu cô gái đó ưng thuận thì trả lời cho người mai biết về báo lại
với “thân chủ”.
2.
Lễ hỏi vợ
“Lễ hỏi vợ” - Là cách gọi phổ biến chung
hiện nay chỉ họ hàng nhà trai đến “đặt vấn đề” chính thức với họ hàng, cha mẹ
nhà gái để cho phép đôi bạn trẻ kết nên duyện vợ chồng. Lễ này sẽ được ấn định
nếu có sự đồng ý của hai bên.
Thời gian, địa điểm tổ chức lễ “hỏi vợ”
diễn ra tại nhà gái. Lúc này, ông mai hai họ thay mặt cho nhà trai, nhà gái
đứng ra “dẫn chương trình”. Tại buổi lễ này, sau khi nghe ý kiến “góp ý” của
các thành viên trong dòng họ, cha mẹ nhà gái sẽ có quyết định đồng ý hay không
đồng ý cho phép đôi nam nữ này tiến tới hôn nhân. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ,
thì trong buổi ra mắt này thì chàng trai và cô gái trao lễ vật kỷ niệm cho
nhau.
Theo phong tục của người Xê đăng, vật kỷ
niệm không nhất thiết phải có giá trị lớn, mà tùy theo điều kiện kinh tế của
nhà trai (có thể là chiếc vòng, chiếc nhẫn....). Nghi thức trao vật kỷ niệm
phải diễn ra trước sự chứng kiến của các thành viên hai họ theo nguyên tắc: Nam
trao cho nữ trước, sau đó nữ trao lại cho nam, và nhớ phải trao bằng tay phải
(bởi vì quan niệm của người Xê đăng cho rằng tay phải là tay người, tay trái là
tay ma). Sau lễ này thì mọi người cùng vui vẻ uống rượu, nói chuyện với nhau
rồi ra về. Dù chính thức chưa trở thành vợ chồng, nhưng từ đây họ có thể gắn bó
thân thiết với nhau, giúp đỡ nhau trong sản xuất, đến khi thời gian đủ để hai
người tự lập được cuộc sống riêng tư thì họ đôi trai gái một lần nữa nhờ đến
ông mai đến thưa chuyện cùng hai gia đình để họ được tổ chức lễ cưới.
3.
Lễ cưới vợ
Người Xê đăng tổ chức lễ cưới thường diễn
ra vào lúc nông nhàn, rảnh rỗi hoặc sau khi thu hoạch xong vụ mùa. Cô dâu chú
rễ sau khi cưới phải luân phiên ở với cha mẹ hai bên, đến lúc nào cha mẹ không
còn nữa thì mới ở riêng, nên có quy định: Bên nào về ở trước thì sẽ tổ chức lễ
cưới trước.
Sau khi chọn được “ngày lành tháng tốt”,
ông mai hai họ có trách nhiệm đi mời họ hàng và khách đến dự lễ. Theo thông lệ
(và để tiện cho việc nói chuyện, tâm sự), bố mẹ cô dâu sẽ ngồi cùng bàn với bố
mẹ chú rễ, anh em ruột và họ hàng hai bên sẽ cùng ngồi với nhau, sau đó là bà
con và anh em bạn bè.
Mở đầu buổi lễ, ông mai (của họ đang tổ
chức lễ) đứng lên phát biểu chào mừng hai họ và chúc cô dâu chú rễ “trăm năm
hạnh phúc”, tiếp đến là ý kiến căn dặn của Già làng. Sau đó, cô dâu, chú rễ
cùng hai người mai sắp hàng đi “nếm” hết các ghè rượu lễ đã được sắp sẵn ở
không gian chính của nhà để mở đầu cho buổi tiệc. Xong nghi thức này, cô dâu
chú rễ cùng đi mời họ hàng bạn bè hai bên; đồng thời khách có quà tặng gì thì
đưa luôn cho cô dâu chú rễ. Cuộc vui kéo dài đến khoảng 7 giờ tối (đó là thời
gian chúng ta ấn định, theo cách hiểu của đồng bào là trời tối, sở dĩ phải đi
trong khoảng thời gian này là để tránh gặp những điều không tốt khi trời còn
sáng) thì cô dâu về nhà chồng. Đi theo đoàn là anh em và họ hàng thân thiết
(cha mẹ cô dâu không được đi). Nhà gái sẽ có thịt và quà tặng để nhà trai đem
về.
Để
chuẩn bị đón dâu, nhà trai nấu một nồi cơm, làm thịt con gà để ông mai “viên
cơm” lại rồi lấy gan gà, thịt gà đưa cho cô dâu chú rễ ăn chung bằng cách: Đưa
tay chéo - Nghĩa là nắm cơm tay đối diện với chú rễ sẽ đưa cho cô dâu và nắm
cơm đối diện với cô dâu sẽ đưa cho chú rễ. Sau nghi thức này đôi uyên ương có
quyền ăn nằm với nhau. Đám cưới đến đây coi như kết thúc, khi nào nhà trai tổ
chức cưới thì sẽ làm lại như cách trên.
Theo
phong tục của người Xê đăng, trai gái mới cưới nhau thì một năm sau mới được có
con, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt và phạt rất nặng để răn đe, làm gương cho các
thế hệ sau. Song điều này trên thực tế đã bị bãi bỏ. Đám cưới của người Xê đăng
hiện nay có phần hiện đại hơn và tùy theo từng điều kiện kinh tế của mỗi gia đình,
cô dâu chú rễ có thể đi thuê đồ cưới hoặc đãi bạn linh đình như ở người kinh.
3,
LỄ AN TÁNG NGƯỜI CHẾT
Đối với người Xê đăng, khi trong nhà có
người thân qua đời, họ đi báo tin cho bà con dân làng biết để ngày hôm đó mọi
người cùng ở nhà chia buồn. Lúc này, gia đình tiến hành thủ tục phân chia tài
sản và cử người đào huyệt rồi đưa thi hài ra xô ghét (rừng ma - tức là nghĩa địa của làng) để chôn cất theo quy
định của cộng đồng, bao gồm các bước sau:
1.
Đào huyệt
Do cư trú ở khu vực miền núi có nhiều thú
dữ quấy phá, nên xảy ra trường hợp mộ người chết bị heo rừng và nhiều động vật
khác đào bới tìm ăn xác chết, gây nên sự
kinh hoàng cho người dân. Vì thế, độ sâu của huyệt phải từ 1,5 m trở lên, nếu
gặp nơi đất mềm người dân có thể đào sâu trên 2 m, sau đó đào âm vào một bên đủ
để quan tài lọt vào đó. Nếu gặp nơi đất cứng, đất có đá nhiều hoặc nơi khó đào
thì độ sâu huyệt có thể cạn hơn, huyệt lúc này được bố trí như ở người Kinh
(tức là không thể đào âm vào một bên được), nhưng lớp dưới cùng được người dân
chặt cây tre, nứa hoặc lồ ô lót lên trên.
2.
Cách thức xử lý thi hài người chết
Thi hài được người thân trong gia đình
“cõng” đi cùng với các vật tùy tán và vài thanh que củi còn cháy đem đến xô ghét
(rừng ma) để tiến hành “tẩm liệm”. Quan tài được đưa ra trước, có thể là
gỗ hoặc bằng tôn, thậm chí gia đình nào nghèo thì không có vẫn được. Tại đây,
một số thanh niên khỏe mạnh đảm nhận việc đào huyệt, số còn lại lo việc mặc
thêm đồ (hoặc giữ nguyên bộ đồ cũ lúc chết mặc), tiếp đến thi hài được quấn
bằng vài tấm mềm hoặc những vật dụng được chia cho người chết. Chứng kiến giây
phút tiễn đưa lưu luyến giữa sống phải nhìn mặt người thân lần cuối để chia tay
vĩnh biệt mà lòng đầy nước mắt, họ vừa cầu khấn Yàng phù hộ cho người chết về
thế giới bên kia được suôn sẻ và cầu mong người sống ở lại thực hiện tốt nghĩa
vụ trách nhiệm của bản thân với cộng đồng.
3.
Cách thức đặt quan tài
Khi huyệt được đào xong, người ta lấy một
nhành cây đập xung quanh với lời cầu khấn rằng huyệt này chỉ dành cho hồn người
chết, không được để người sống đến ở. Mục đích của việc làm này là xin Yàng và
người chết phù hộ độ trì để hồn ma không về bắt người sống phải “đi” nữa. Sau
nghi thức này, quan tài được đưa từ từ xuống.
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên,
nếu huyệt đào thẳng xuống rồi âm vào một bên, thì phần lõm vào trong là nơi để
quan tài; nếu huyệt được đào thẳng xuống thì phía trên quan tài người ta lót
những thanh tre hoặc nứa ở bên trên, tạo thành khoảng trống để quan tài ở giữa.
Đầu quan tài luôn hướng về phía làng.
Ở đây chúng ta cần chú ý, khi chuẩn bị
lấp đất, người ta để một cành trúc nối từ phía đầu người chết lên mặt đất, đây
là nơi để người chết “thở” và là nơi “liên hệ” giữa ngưòi sống với người chết.
3.
Sau khi chôn
Mộ của người Xê đăng không đắp cao, chỉ
vừa đủ để người ta nhận biết, khi đất được lấp đầy người ta rút ống thông hơi
lên tạo thành một lỗ, tiếp đến người thân trong gia đình đem các chum, ché được
chia cho người chết chọc thủng rồi để trên mộ. Đến đây, một lần nữa người thân
đem nhành cây lúc ban đầu để xung quanh mộ, và mỗi người đưa tang bẻ 6 cây nhỏ
- gọi là củi đặt lên mộ “gởi” cho người chết về “bên kia” thế giới nấu ăn. (Số
6 đối với quan niệm của người Xê đăng là số tốt).
Do quan niệm của người Xê đăng về sự tồn
tại của linh hồn nên có sự ràng buộc giữa người sống với người chết, do vậy,
nếu trước khi qua đời người này có mong muốn làm một con trâu để thiết đãi dân
làng, song vì lý do nào đó chưa thực hiện được thì lúc này người thân lấy cây
hay vật dụng nào đó làm thành hình con trâu để trên mộ với ý niệm giúp người
chết thực hiện ước muốn của mình.
4.
Các nghi lễ chúc phước
Khi công việc hoàn tất, mọi người bắt đầu
ra về, người thân cầm nhành cây và các que củi đi trước, tiếp đến là đến thanh
thiếu niên, cụ già cùng kéo nhau ra giọt nước tắm rửa nhằm tẩy sạch ô uế . Mọi
người lấy lá cây vò nát để lau tay, rồi đưa lên hơ trên các que củi nhằm nhận
sự chúc phúc của gia đình người chết để gặp nhiều mau mắn trong cuộc sống. Đến
đây mọi việc kết thúc, nếu gia đình có điều kiện thì mời mọi người về nhà uống
rượu chia buồn, con không thì ai về nhà nấy đề ngày sau tiếp tục công việc.
Người Xê đăng không có tục làm lễ bỏ ma,
nên không còn quan hệ với người chết ở rừng ma nữa. Trường hợp đó chỉ áp dụng
cho những ai có cái chết bình thường (như đau ốm, hay già...); riêng người chết
bất đắt kỳ tử, chết tai nạn, chết không còn nguyên vẹn thì sau khi chôn cất
xong, người nhà vẫn đến xô ghét làm lễ đuổi tà đi để không cho hồn ma quay về
hại gia đình nữa. Đặc biệt, nếu người chết là trẻ nhỏ mới sinh ra thì gia đình
không chôn mà gói lại bỏ vào một cái giỏ đem để trên cây cao hoặc một tảng đá
hay hốc cây nào đó để đứa bé “nhìn thấy rừng, thấy đất”. Tục lệ này hiện nay
vẫn còn phổ biến.
Như vậy, qua những gì chúng tôi đã trình
bày, dù không còn là thành viên chính thức của làng, nhưng qua cách thể hiện
tình cảm của người sống đối với người chết như một thông điệp nhắn nhủ mọi
người rằng: Chúng ta là một, dù sống hay chết đều phải có trách nhiệm chung với
tổ tiên, với cộng đồng để sống tốt hơn cho cuộc đời này
4.
TỤC ĂN THUỐC (KA RAO)
Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi được biết,
cách ăn thuốc cùng với việc uống rượu cần ở người Xê đăng được xem như là một
truyền thống văn hóa lâu đời, ăn sâu vào trong tiềm thức người dân. Cây thuốc
rất dễ trồng và thích hợp với khí hậu vùng này nên nhà nào cũng trồng, trồng
rất nhiều. Khi đến kỳ thu hoạch người dân chặt cây rồi đem lá phơi khô, sau đó
tán nhỏ ra để dùng khi đi làm hay những lúc ngồi trò chuyện. Cách ăn thuốc của
họ cũng đơn giản, lúc bản thân có nhu cầu thì họ lấy tay vò nát lá thuốc đã
phơi khô lại một lần nữa rồi cho lên bàn tay đưa vào miệng để chà quanh hàm
răng nhiều lần cho “đã”, họ không nhai và cũng không hút, sau khi lạc vị thì
nhổ ra.
Giải thích về cách “hút thuốc” kiểu này
được người dân cho biết là trước đây tổ tiên họ cư trú ở vùng núi cao, thời
tiết lạnh và phải làm ruộng nên thường bị rét cóng, quy luật sinh tồn tự mách
bảo họ phải tìm những thứ kích thích làm cho cơ thể nóng lên để lấy sức cuốc,
cày ruộng, và cây thuốc đã đáp ứng được yêu cầu đó. Hơn nữa, trong khi lao
động, tây chân bận rộn, lại không có giấy hoặc loại lá để làm ống hút nên đành
phải ăn vậy. Lúc đầu cách “ăn” này với ý thức để chống lại với gió rét, sau này
dần dần thành nghiện. Ngày nay, hiện tượng này chỉ phổ biến ở lớp già, còn
thanh niên phần lớn là hút thuốc lá như
mọi người khác.
5.
NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Phổ
biến chung là người Xơ đăng có các nghề truyền thống sau: Đan lát, dệt, rèn,
làm đồ gốm, một số nơi có biết đãi cát lấy vàng... Nghề đan lát do đàn ông đảm nhận. Dệt do phụ nữ đảm
nhận...
Đáng lưu ý, trong các nghề truyền thống
của người Xơ đăng, nghề rèn được phát triển hơn.
------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét