7/11/13

TÌM HIỂU PHONG TỤC, TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI XÊ ĐĂNG



Hà Xuân Nguyên

Xê đăng là một dân tộc lớn, nói ngôn ngữ Môn - Khơme, dân số hiện nay  khoảng trên 100.000 người, cư trú chủ yếu ở địa bàn tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Cho đến nay, chưa có một tư liệu chính xác nào nói về những cuộc chuyển cư của người Xê đăng, song trên thực tế, có thể xem họ là một trong những cư dân “bản địa” sống lâu đời nhất ở khu vực Trường sơn - Tây nguyên.

Người Xơ đăng biết làm nông nghiệp với hình thức canh tác chủ yếu là rẫy, thế nhưng, phần lớn những vùng họ cư trú lâu đời lại là nơi căn cứ cách mạng nên được cán bộ ta vận động kiên trì giúp họ khai hoang làm ruộng khô, ruộng nước. Liên quan đến loại hình sản xuất này, đi kèm theo đó là những lễ hội phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng, cầu mong sự vật được sinh sôi nảy nở, phát triển; đồng thời kèm theo đó là những thói quen do con người tạo ra qua quá trình  thích ứng với môi trường xung quanh. ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến 3 vấn đề là: Hôn nhân, cách thức an táng người chết và tục ăn thuốc ở người Xê đăng.
I. SƠ LƯỢC CHUNG VỀ NHÓM VÀ TÊN GỌI
          Dân tộc Xơ đăng bao gồm các nhóm:
          - Xơ teng tự nhận là Xteng, Xơ tong, Hđăng, Riteng tuỳ theo từng vừng được trên sách, báo bằng những tên gọi chênh lệch phiên âm không đúng
          - Tơ đrá hay là Tơ Trá, Hđrá sinh sống chủ yêu ở vùng giáp ranh giữa 3 huyện Đăkglei, thị xã Kon Tum và Konplong
          - Mơ nâm thường bị nhầm lẫn với người Bơ nâm, một tên gọi có tính miệt thị đẻ chỉ những nhóm Ba na chậm tiến ở vùng cao hơn.
          - Ca dong là tên tự gọi của một bộ phận ở huyện Sa Thầy và Konplong. Tên này được phổ biến rộng rãi với người Ca dong ở huyện Trà My (Quảng Nam) và một số nơi ở tỉnh Quảng Ngãi...
          - Hà lăng là nhóm di động nhiều, tuy trên ý thức thống nhất là một nhóm, nhưng ở từng địa phương lại mang những phiêm âm khác nhau mà họ tự nhận là Xơ lang, Xa lang. Tại xã Đăk Na, huyện Đăk Tô, do tên gọi và phong tục gần giống người Xơ teng và được các cư dân trong vùng gọi là Xlang hay Hà lăng.
          2. HÔN NHÂN
Quan hệ hôn nhân ở người Xê đăng luôn tuân thủ những nguyên tắc cơ bản thống nhất của cộng động đề ra, bao gồm:
- Nam nữ được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định ở bố mẹ
- Cấm loạn luân
- Quan hệ tính giao trước hôn nhân bị cấm ngặt
Hôn nhân được tiến hành theo các bước sau:
 1. Giai đoạn tìm hiểu bạn đời
Trước đây, việc dựng vợ gả chồng cho con cái ở người Xơêđăng do cha mẹ quyết định, nhưng về sau nhận thức người dân có sự đổi mới hơn, nam nữ tự do tìm hiểu. Tiêu chuẩn nên vợ nên chồng chưa phải là sắc đẹp, cũng không phải là môn đăng hộ đối, mà là người chăm chỉ lao động, có sức khỏe, gái thì giỏi làm rẫy, dệt vải, trai thì giỏi sắn bắn, gan dạ, dũng cảm. Nếu phải lòng ai thì người trai rủ bạn gái đó cùng đi chơi, cùng làm chung rẫy, cùng giúp nhau vừa để có điều kiện tìm hiểu, vừa có dịp để thể hiện tình cảm của mình, nếu được thì người này về trình bày với cha mẹ để cha mẹ chọn người làm mối đến “đặt vấn đề” với người con gái.
Thông thường, người làm mối bao giờ cũng đứng tuổi, đã có gia đình, có tài ăn nói để biết khéo léo trình bày mọi việc được suông sẻ, có trách nhiệm gặp riêng cô gái để trình bày ý nguyện của người con trai - nếu cô gái đó ưng thuận thì trả lời cho người mai biết về báo lại với “thân chủ”.
2. Lễ hỏi vợ
“Lễ hỏi vợ” - Là cách gọi phổ biến chung hiện nay chỉ họ hàng nhà trai đến “đặt vấn đề” chính thức với họ hàng, cha mẹ nhà gái để cho phép đôi bạn trẻ kết nên duyện vợ chồng. Lễ này sẽ được ấn định nếu có sự đồng ý của hai bên. 
Thời gian, địa điểm tổ chức lễ “hỏi vợ” diễn ra tại nhà gái. Lúc này, ông mai hai họ thay mặt cho nhà trai, nhà gái đứng ra “dẫn chương trình”. Tại buổi lễ này, sau khi nghe ý kiến “góp ý” của các thành viên trong dòng họ, cha mẹ nhà gái sẽ có quyết định đồng ý hay không đồng ý cho phép đôi nam nữ này tiến tới hôn nhân. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, thì trong buổi ra mắt này thì chàng trai và cô gái trao lễ vật kỷ niệm cho nhau.
Theo phong tục của người Xê đăng, vật kỷ niệm không nhất thiết phải có giá trị lớn, mà tùy theo điều kiện kinh tế của nhà trai (có thể là chiếc vòng, chiếc nhẫn....). Nghi thức trao vật kỷ niệm phải diễn ra trước sự chứng kiến của các thành viên hai họ theo nguyên tắc: Nam trao cho nữ trước, sau đó nữ trao lại cho nam, và nhớ phải trao bằng tay phải (bởi vì quan niệm của người Xê đăng cho rằng tay phải là tay người, tay trái là tay ma). Sau lễ này thì mọi người cùng vui vẻ uống rượu, nói chuyện với nhau rồi ra về. Dù chính thức chưa trở thành vợ chồng, nhưng từ đây họ có thể gắn bó thân thiết với nhau, giúp đỡ nhau trong sản xuất, đến khi thời gian đủ để hai người tự lập được cuộc sống riêng tư thì họ đôi trai gái một lần nữa nhờ đến ông mai đến thưa chuyện cùng hai gia đình để họ được tổ chức lễ cưới.
3. Lễ cưới vợ
Người Xê đăng tổ chức lễ cưới thường diễn ra vào lúc nông nhàn, rảnh rỗi hoặc sau khi thu hoạch xong vụ mùa. Cô dâu chú rễ sau khi cưới phải luân phiên ở với cha mẹ hai bên, đến lúc nào cha mẹ không còn nữa thì mới ở riêng, nên có quy định: Bên nào về ở trước thì sẽ tổ chức lễ cưới trước.
Sau khi chọn được “ngày lành tháng tốt”, ông mai hai họ có trách nhiệm đi mời họ hàng và khách đến dự lễ. Theo thông lệ (và để tiện cho việc nói chuyện, tâm sự), bố mẹ cô dâu sẽ ngồi cùng bàn với bố mẹ chú rễ, anh em ruột và họ hàng hai bên sẽ cùng ngồi với nhau, sau đó là bà con và anh em bạn bè.
Mở đầu buổi lễ, ông mai (của họ đang tổ chức lễ) đứng lên phát biểu chào mừng hai họ và chúc cô dâu chú rễ “trăm năm hạnh phúc”, tiếp đến là ý kiến căn dặn của Già làng. Sau đó, cô dâu, chú rễ cùng hai người mai sắp hàng đi “nếm” hết các ghè rượu lễ đã được sắp sẵn ở không gian chính của nhà để mở đầu cho buổi tiệc. Xong nghi thức này, cô dâu chú rễ cùng đi mời họ hàng bạn bè hai bên; đồng thời khách có quà tặng gì thì đưa luôn cho cô dâu chú rễ. Cuộc vui kéo dài đến khoảng 7 giờ tối (đó là thời gian chúng ta ấn định, theo cách hiểu của đồng bào là trời tối, sở dĩ phải đi trong khoảng thời gian này là để tránh gặp những điều không tốt khi trời còn sáng) thì cô dâu về nhà chồng. Đi theo đoàn là anh em và họ hàng thân thiết (cha mẹ cô dâu không được đi). Nhà gái sẽ có thịt và quà tặng để nhà trai đem về.
          Để chuẩn bị đón dâu, nhà trai nấu một nồi cơm, làm thịt con gà để ông mai “viên cơm” lại rồi lấy gan gà, thịt gà đưa cho cô dâu chú rễ ăn chung bằng cách: Đưa tay chéo - Nghĩa là nắm cơm tay đối diện với chú rễ sẽ đưa cho cô dâu và nắm cơm đối diện với cô dâu sẽ đưa cho chú rễ. Sau nghi thức này đôi uyên ương có quyền ăn nằm với nhau. Đám cưới đến đây coi như kết thúc, khi nào nhà trai tổ chức cưới thì sẽ làm lại như cách trên.
          Theo phong tục của người Xê đăng, trai gái mới cưới nhau thì một năm sau mới được có con, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt và phạt rất nặng để răn đe, làm gương cho các thế hệ sau. Song điều này trên thực tế đã bị bãi bỏ. Đám cưới của người Xê đăng hiện nay có phần hiện đại hơn và tùy theo từng điều kiện kinh tế của mỗi gia đình, cô dâu chú rễ có thể đi thuê đồ cưới hoặc đãi bạn linh đình như ở người kinh.
3, LỄ AN TÁNG NGƯỜI CHẾT
Đối với người Xê đăng, khi trong nhà có người thân qua đời, họ đi báo tin cho bà con dân làng biết để ngày hôm đó mọi người cùng ở nhà chia buồn. Lúc này, gia đình tiến hành thủ tục phân chia tài sản và cử người đào huyệt rồi đưa thi hài ra xô ghét (rừng ma - tức là nghĩa địa của làng) để chôn cất theo quy định của cộng đồng, bao gồm các bước sau:
1. Đào huyệt
Do cư trú ở khu vực miền núi có nhiều thú dữ quấy phá, nên xảy ra trường hợp mộ người chết bị heo rừng và nhiều động vật khác đào bới tìm ăn xác chết,  gây nên sự kinh hoàng cho người dân. Vì thế, độ sâu của huyệt phải từ 1,5 m trở lên, nếu gặp nơi đất mềm người dân có thể đào sâu trên 2 m, sau đó đào âm vào một bên đủ để quan tài lọt vào đó. Nếu gặp nơi đất cứng, đất có đá nhiều hoặc nơi khó đào thì độ sâu huyệt có thể cạn hơn, huyệt lúc này được bố trí như ở người Kinh (tức là không thể đào âm vào một bên được), nhưng lớp dưới cùng được người dân chặt cây tre, nứa hoặc lồ ô lót lên trên.
2. Cách thức xử lý thi hài người chết
Thi hài được người thân trong gia đình “cõng” đi cùng với các vật tùy tán và vài thanh que củi còn cháy đem đến xô ghét  (rừng ma) để tiến hành “tẩm liệm”. Quan tài được đưa ra trước, có thể là gỗ hoặc bằng tôn, thậm chí gia đình nào nghèo thì không có vẫn được. Tại đây, một số thanh niên khỏe mạnh đảm nhận việc đào huyệt, số còn lại lo việc mặc thêm đồ (hoặc giữ nguyên bộ đồ cũ lúc chết mặc), tiếp đến thi hài được quấn bằng vài tấm mềm hoặc những vật dụng được chia cho người chết. Chứng kiến giây phút tiễn đưa lưu luyến giữa sống phải nhìn mặt người thân lần cuối để chia tay vĩnh biệt mà lòng đầy nước mắt, họ vừa cầu khấn Yàng phù hộ cho người chết về thế giới bên kia được suôn sẻ và cầu mong người sống ở lại thực hiện tốt nghĩa vụ trách nhiệm của bản thân với cộng đồng.
3. Cách thức đặt quan tài
Khi huyệt được đào xong, người ta lấy một nhành cây đập xung quanh với lời cầu khấn rằng huyệt này chỉ dành cho hồn người chết, không được để người sống đến ở. Mục đích của việc làm này là xin Yàng và người chết phù hộ độ trì để hồn ma không về bắt người sống phải “đi” nữa. Sau nghi thức này, quan tài được đưa từ từ xuống.
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, nếu huyệt đào thẳng xuống rồi âm vào một bên, thì phần lõm vào trong là nơi để quan tài; nếu huyệt được đào thẳng xuống thì phía trên quan tài người ta lót những thanh tre hoặc nứa ở bên trên, tạo thành khoảng trống để quan tài ở giữa. Đầu quan tài luôn hướng về phía làng.
Ở đây chúng ta cần chú ý, khi chuẩn bị lấp đất, người ta để một cành trúc nối từ phía đầu người chết lên mặt đất, đây là nơi để người chết “thở” và là nơi “liên hệ” giữa ngưòi sống với người chết.
3. Sau khi chôn
Mộ của người Xê đăng không đắp cao, chỉ vừa đủ để người ta nhận biết, khi đất được lấp đầy người ta rút ống thông hơi lên tạo thành một lỗ, tiếp đến người thân trong gia đình đem các chum, ché được chia cho người chết chọc thủng rồi để trên mộ. Đến đây, một lần nữa người thân đem nhành cây lúc ban đầu để xung quanh mộ, và mỗi người đưa tang bẻ 6 cây nhỏ - gọi là củi đặt lên mộ “gởi” cho người chết về “bên kia” thế giới nấu ăn. (Số 6 đối với quan niệm của người Xê đăng là số tốt).
Do quan niệm của người Xê đăng về sự tồn tại của linh hồn nên có sự ràng buộc giữa người sống với người chết, do vậy, nếu trước khi qua đời người này có mong muốn làm một con trâu để thiết đãi dân làng, song vì lý do nào đó chưa thực hiện được thì lúc này người thân lấy cây hay vật dụng nào đó làm thành hình con trâu để trên mộ với ý niệm giúp người chết thực hiện ước muốn của mình.
4. Các nghi lễ chúc phước
Khi công việc hoàn tất, mọi người bắt đầu ra về, người thân cầm nhành cây và các que củi đi trước, tiếp đến là đến thanh thiếu niên, cụ già cùng kéo nhau ra giọt nước tắm rửa nhằm tẩy sạch ô uế . Mọi người lấy lá cây vò nát để lau tay, rồi đưa lên hơ trên các que củi nhằm nhận sự chúc phúc của gia đình người chết để gặp nhiều mau mắn trong cuộc sống. Đến đây mọi việc kết thúc, nếu gia đình có điều kiện thì mời mọi người về nhà uống rượu chia buồn, con không thì ai về nhà nấy đề ngày sau tiếp tục công việc.
Người Xê đăng không có tục làm lễ bỏ ma, nên không còn quan hệ với người chết ở rừng ma nữa. Trường hợp đó chỉ áp dụng cho những ai có cái chết bình thường (như đau ốm, hay già...); riêng người chết bất đắt kỳ tử, chết tai nạn, chết không còn nguyên vẹn thì sau khi chôn cất xong, người nhà vẫn đến xô ghét làm lễ đuổi tà đi để không cho hồn ma quay về hại gia đình nữa. Đặc biệt, nếu người chết là trẻ nhỏ mới sinh ra thì gia đình không chôn mà gói lại bỏ vào một cái giỏ đem để trên cây cao hoặc một tảng đá hay hốc cây nào đó để đứa bé “nhìn thấy rừng, thấy đất”. Tục lệ này hiện nay vẫn còn phổ biến.
Như vậy, qua những gì chúng tôi đã trình bày, dù không còn là thành viên chính thức của làng, nhưng qua cách thể hiện tình cảm của người sống đối với người chết như một thông điệp nhắn nhủ mọi người rằng: Chúng ta là một, dù sống hay chết đều phải có trách nhiệm chung với tổ tiên, với cộng đồng để sống tốt hơn cho cuộc đời này
4. TỤC ĂN THUỐC (KA RAO)
Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi được biết, cách ăn thuốc cùng với việc uống rượu cần ở người Xê đăng được xem như là một truyền thống văn hóa lâu đời, ăn sâu vào trong tiềm thức người dân. Cây thuốc rất dễ trồng và thích hợp với khí hậu vùng này nên nhà nào cũng trồng, trồng rất nhiều. Khi đến kỳ thu hoạch người dân chặt cây rồi đem lá phơi khô, sau đó tán nhỏ ra để dùng khi đi làm hay những lúc ngồi trò chuyện. Cách ăn thuốc của họ cũng đơn giản, lúc bản thân có nhu cầu thì họ lấy tay vò nát lá thuốc đã phơi khô lại một lần nữa rồi cho lên bàn tay đưa vào miệng để chà quanh hàm răng nhiều lần cho “đã”, họ không nhai và cũng không hút, sau khi lạc vị thì nhổ ra.
Giải thích về cách “hút thuốc” kiểu này được người dân cho biết là trước đây tổ tiên họ cư trú ở vùng núi cao, thời tiết lạnh và phải làm ruộng nên thường bị rét cóng, quy luật sinh tồn tự mách bảo họ phải tìm những thứ kích thích làm cho cơ thể nóng lên để lấy sức cuốc, cày ruộng, và cây thuốc đã đáp ứng được yêu cầu đó. Hơn nữa, trong khi lao động, tây chân bận rộn, lại không có giấy hoặc loại lá để làm ống hút nên đành phải ăn vậy. Lúc đầu cách “ăn” này với ý thức để chống lại với gió rét, sau này dần dần thành nghiện. Ngày nay, hiện tượng này chỉ phổ biến ở lớp già, còn thanh niên phần lớn là hút thuốc lá  như mọi người khác.
5. NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG
          Phổ biến chung là người Xơ đăng có các nghề truyền thống sau: Đan lát, dệt, rèn, làm đồ gốm, một số nơi có biết đãi cát lấy vàng... Nghề  đan lát do đàn ông đảm nhận. Dệt do phụ nữ đảm nhận...
Đáng lưu ý, trong các nghề truyền thống của người Xơ đăng, nghề rèn được phát triển hơn.
         
                  

                                     ------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét