LUẬT
NGƯỜI GIÁO PHU
NẾU TA GIỮ LUẬT TỐT
NAY MAI LUẬT SẼ GIỮ TA TỐT HƠN.
NHÀ IN BEATÔ QUENOT
KON TUM 1961
TRONG ĐOÀN NGƯỜI GIÁO PHU
------------
1. TRUYỆN KỂ
PHÁI ĐOÀN GIÁO PHU ĐÓ LÀ ĐOÀN GÌ?
Chúng tôi là
cha cố, mà đã bỏ cha, tha mẹ, chỉ muốn đi con đường truyền giáo đến tại mảnh đất
người Ja Rai, Ba Nar, Sê đăng, chúng tôi có thể không muốn con đường nào khác,
chúng tôi chỉ muốn con đường tất cả mọi người tại mảnh đất này trở thành con người
của thiên chúa hết cả (hết thảy), chúng nó phải được sung hướng tại trên trời.
Ngày xưa đức chúa Jê Su đã có xuống trần gian đã chết thảm hại tại thập ác, đó
chính người muốn như vậy, người muốn cứu hộ tất cả mọi người. Như thế đó, với
suy nghĩ của cha cố là muốn nhất. Với suy nghĩ của chúng tôi có nhiều người đã
bị xuống ở hoả ngục, chúng tôi quá thương sót; vì vậy, chúng tôi cố gắng đi giảng
đạo cho mọi người, muốn cho mọi người khỏi rơi xuống địa ngục suốt cuộc đời.
Chính lẽ đó,
đi giảng đạo ở tất cả vùng Ja Rai, Ba Nar, Sê Đăng để họ được trở thành con của
đức chúa trời tất cả, đó là những việc lớn nhất, đó là những việc làm lâu dài hơn;
một người trong chúng tôi, chúng tôi không thể kham nổi. Vì lẽ đó chúng tôi nghĩ
rằng muốn theo đoàn như apoxtôle xưa
kia, lúc chúng nó cũng không kham nổi dạy người ta. Lúc ấy, chúng nó được chọn
người thanh niên theo thiên chúa trung thành nhất, bảo người đó làm người giúp
việc cho chúng nó đồng thời giúp chúng nó dạy thay đoàn theo con đường thiên chúa.
Chính vì lẽ đó,
cho nên chúng tôi mới được xây dựng nhà trường Cue not, với mục đích là giáo dục
con em dân tộc Banar để họ được trở thànhưngời thông minh của con em dân tộc
Banar đối với con đường thiên chúa hơn tất cả người khác; nay mai, sau khi đã
ra trường, chúng tôi mong chúng nó giúp chúng tôi là đức cha mà để dạy bảo bạn
bè là người Ja Rai - Banar - Xê đăng
*****
*
Thực tế nếu
như học trò nào đó ở tại nhà trường đủ năm học, theo quy định của nhà trường,
sau lúc được ra trường, chúng nó hứa muốn giúp đức cha dạy bảo mọi người, tất
nhiên người học trò đó chúng tôi "đức cha" sẽ cử trở thành giáo phu.
Có thể có người
không được vào học tại trường Cuenot, nhưng vì đức chúa trời đã cho chúng nó hiểu,
chúng nó đã mục vụ đức cha dạy bảo mọi người hai, ba, năm, cho nên nếu người đó
giỏi về chữ nghĩa, cũng viết chữ giỏi, nếu ông đó xin đức cha lãnh đạo khối
theo đạo, có thể đức cha cũng cho người đó vào làm giáo phu như những học trò đã
tốt nghiệp từ trong nhà trường ra.
Những giáo
phu đáng lý họ ở chỗ này, chỗ kia xa cách nhau, mặc dầu đã được biết chúng tôi
có tập trung chúng nó thành một đoàn thôi, cố làm sao tạo thành một khối thống
nhất với nhau. Đúng vậy, chúng nó được một người cha lãnh đạo chung tất cả, chúng
nó được giữ một luật như nhau, chúng nó tìm cách giúp đỡ nhau nhiều vấn đề cho
bản thân hương luôn cho mình. Chính người đó mà người ta đặt tên, đoàn người giáo
phu.
Bản dịch tóm lượt giới
thiệu với độc giả hôm nay do một trí thức Ba na dịch hộ, nhưng vì nhiều lý do
khách quan chưa được hiệu đính nên chắc không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế nhất định.
Luật này gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất: Trong đoàn gnười Giáo phu gồm 5 phần
- Phần thứ hai: Luật các ông Giáo phu phải giữ, gồm 8 phần
- Phần thứ ba: Những Luật người ta phải giữ 10 phần
- Phần thứ tư: Những Luật mọi người phải giữ do những người
thương chính mình, gồm 16 phần.
Tất cả những điều ghi trong Luật Giáo phu được quy định rõ
ràng, chi tiết rất cụ thể đối với từng trường hợp, trong đó có cả hoạt động
truyền giáo, cách ứng nhân xử thế giữa người Giáo phu với tất cả mọi người xung
quanh, với từng công việc
Cụ thể như sau:
1. Phần thứ nhất: Nêu lên 5 tiết nhỏ nói về:
- Truyện kể phái đoàn người Giáo phu đó
là đoàn gì
- Truyện kể về đoàn người Giáo phu thu
kết quả được bao nhiêu
- Truyện kể về đoàn lãnh đạo khối Giáo
phu
- Truyện kể bản thân những người Giáo
phu
- Truyện kể về sửa chữ kỷ luật của ông
Giáo phu
Nội dung
cơ bản ở phần này răn dạy con người phải lánh xa điều ác, tin theo Thiên chúa để
được cứu rỗi, trở thành con của Đức Chúa trời. Nghĩ được vấn đề trên, người Giáo
phu phải đi giảng đạo trong vùng đồng bào các dân tộc. Nhưng vì người quá ít,
phải xây dựng Trường Quenot với mục đích là giáo dục con em người dân tộc Ba na
để họ trở thành những con người thông minh. Sau khi học xong ra trường, lẽ ra
phải sống xa cách nhau, nhưng phải tập tập hợp họ thành một khối thống nhất để
cùng giữ luật, giúp đỡ nhau nhiều trong công việc truyền giáo. Có làm được như
vậy mới được hưởng lợi trên Thiên đàng. Để công việc đạt kết quả tốt, người Giáo phu đọc kinh xin Thiên chúa thương
xót, được Đức Cha truyền bá dạy bảo những điều vui mừng tốt đẹp nhất, được học
chữ, học luật, mỗi tháng giáo phu tập trung lại báo cáo Đức cha một lần, mỗi năm
được cấm phòng chung để có sức khoẻ cho bản thân. Đồng thời, nội dung Phần
thứ nhất của Luật Giáo phu nói về kinh phí,
trong đó quy định người lãnh đạo đoàn Giáo phu cũng sẽ cho các chú Giáo phu một
số tiền tuỳ theo từng địa bàn khu vực đến. Những Giáo phu đã tốt nghiệp hay còn
dự bị đều được lĩnh tiền theo mỗi năm, nhưng những người thay mặt thứ hai hoặc đang
tập sự chỉ được lĩnh mấy năm 1 lần.
Riêng đối
với đoàn lãnh đạo người Giáo phu, Luật xem những người này là trụ cột, là lãnh đạo
chung cho những người Giáo phu tại các vùng Xê đăng, Ba na. Người đó là Đức
cha, Trong trường hợp, nếu Đức cha bận công việc thì có thể thay một Cha cố khác
lãnh đạo đoàn. Người lãnh đạo có nhiệm vụ: Theo dõi các chú Giáo phu có làm tốt
việc cho Thiên chúa hay không, có trung thành với lãnh đạo hay không, người đó
có giữ luật tốt hay không và nhiều công việc liên quan khác. Người Giáo phu phải
trung thành với đức cha và đức cha cũng muốn gặp các chú Giáo phu để dặn dò, dìu
dắt. Nếu người Giáo phu ngại gặp có thể viết thư thăm hỏi Đức cha. Chỉ có người
lãnh đạo đoàn giáo phu mới quyết định cho vào hay cho ra các giáo phu nếu bị lỷ
luật. Chỉ có người lãnh đạo đoàn mới cho ai đi đến địa bàn nào gần hay xa.
Trong 6 tháng, mỗi người giáo phu phải gởi báo cáo về lãnh đạo đoàn. Nếu cần vì
công việc khác hoặc phái đi địa bàn khácc, ông lãnh đạo đoàn có thể gởi thư gọi
người giáo phu đó về. Mỗi đoàn người giáo phu có một đức cha hay cha cố phụ trách.
Hàng tháng, đức cha quy định một ngày nào đó mọi người sẽ tập trung về để dạy bào,
truyền đạo, tổ chức vui chơi cho các chú giáo phu.
Mỗi bản
thân chú Giáo phu khi đã học xong hoặc hội đủ các điều kiện sẽ được tham gia,
chấp nhận là giáo phu. Muốn làm được điều đó, trước hết bản thân mỗi chú giáo
phu phải viết bản cam kết đi truyền đạo cho mọi người, viết bằng 3 bản, một bản
người đó giữ, một bản gửi cho Đức cha, một bản còn lại để tại chân dung Đức mẹ
trong nhà trường. Sau khi tiếp nhận bản cam đoan trên, Đức cha xem xem và trao
quyết định những chú giáo phu vào đoàn giáo phu nào để truyền đạo. Mỗi vùng ít
nhất 1 người hoặc có thể hai người giáo phu phụ trách và người giáo phu đó phải
giữ tuân giữ những quy định sau: Phải tìm cách nêu cao ảnh hưởng của Thiên chúa,
đi bất kể nơi nào, không quản ngại khó khăn để truyền đạo, sẽ trở thành con người
tốt, không uống rượu say đẻ mọi người dân noi theo. Vì vậy, thiên chức Giáo phu
sẽ giữ suốt đời về sau.
Ở phần sữa
chữ kỷ luật các ông giáo phu cũng quy định, giáo phu nào lười biến, sau 3 năm ông
lãnh đạo đoàn giaó phu có thể kiểm điểm, sữa chữa cho bản thân người giáo phu đó
được siêng năng hơn. Nếu không khắc phục được thì có thể người lãnh đạo loại bỏ
ra giáo phu đó ra khỏi đoàn giáo phu. Những sai phạm của giáo phu khi đi truyền
đạo, khi giúp các cha truyền đạo thường mắc phải: làm khó khăn cho người dân
khi bắt phải cúng heo, cúng trâu, dê.. chẳng hạn. Đối với người giáo phu nhất
(người chính thức được làm giáo phu) thì người lãnh đạo đoàn phạt nặng, nếu người
đó làm giáo phu 2 thì sẽ cân nhắc cho kéo dài thời gian lâu hơn mới cho làm giáo
phu.
2. Phần thứ
hai: Luật các ông Giáo phu phải giữ, gồm 8 phần
- Thường cầu nguyện sáng tối
- Cầu nguyện cho mỗi khi ăn cơm
- Cầu nguyện trong ngày
- Về xem lễ
- Về bản thân khi xưng tội
-
Về lấy Xtô-Xtô
- Về hỏi thăm đối với Xtô-Xtô
- Về nhớ đối với Xta Maria
Nội dung
cơ bản ở phần thứ hai này nói về những quy định của luật giáo phu để điều chỉnh
các chú giáo phu trong cuộc sống hằng ngày. Mỗi giáo phu phải tích cực cầu nguyện
vào buổi sáng sau khi thức dậy trước khi ăn sáng, vào bổi tối trước khi đi ngũ
phải thường xuyên. Cầu nguyện một mình cũng tốt, nhưng tập trung nhiều người lại
để cầu nguyện thì tốt hơn, cầu nguyện tại mọi nơi.
Trong mỗi
khi ăn, đối với người giáo phu không chỉ thực hiện các phép như tín đồ mà phải
cầu nguyện mỗi hki ăn, khi uống (nếu có mời đi uốgn rượu chẳng hạn, muốn rời khỏi
ché rượu người cũng phải cầu nguyện).
Trong một
ngày, đối với người giáo phu phải cầu nguyện trước khi làm bất cứ việc gì, nội
dung kinh cầu nguyện bản thân giáo phu đó tự tìm lấy, không yêu cầu phải cầu
nguyện dài.
Riêng đối
với việc xem lễ, giáo phu không được nói với dân chúng là mình không rỗi. Nếu
người nào siêng năng trong công việc, Thiên chúa sẽ thương người ấy hơn. Khi tín
đồ đến xem lễ, họ đang cầu nguyện thì giáo phu phải cùng cầu nguyện với họ.
Giáo phu
xưng tội không tin rằng bản thân mình không có tội, sẽ có thể sau khi chết xuống
hoả ngục như mọi người ác khác. Do vậy, mỗi khi đi xưng tội, người giáo phu phải
ngoan, kính trọng hơn, phải thật thà, khai hết mọi việc, không dấu bất cứ vấn đề
gì. Bởi vì, việc xưng tội là như liều thuốc hiệu nghiệm, làm tăng thêm tinh thần,
sức khoẻ cho linh hồn, nên phải thường xuyên xưng tội. Trường trường hợp cha cố
ở xa, khi gặp cha cố thì phải xưng tội hoặc trong tháng khi tập trung họp đoàn..
Không được xưng tội trong lúc bực bội.
Muốn linh
hồn, bản thân được sống, đức chúa Jêsu có làm Xtô-Xtô (bánh thánh), mỗi người
giáo phu sống phải ăn cơm và thức ăn, người không được lười biếng, nên phải cố đi
lấy bánh thánh mới được. Do điều kiện ở xa, giáo phu có thể lấy bánh thánh mỗi
lần khi gặp cha cố, sau đó cầu nguyện cảm ơn, vì bản thân Jê su cũng muốn các
giáo phu đi thăm ông trong Xtô-Xtô.
Các giáo
phu luôn đặt tên Xta Maria, coi Xta Maria chính mẹ. Để tỏ lòng thương kính Xta
Maria, các giáo phu phải siêng năng hơn trong công việc, mỗi ngày sẽ cắm 1 cây
nến, 2 - 3cây cũng được để Xta Maria bảo vệ cho bản thân; đồng thời phải đeu
huy hiệu có tấm ảnh của Xta Maria và cây thập giá bên người suốt đời như bản thân
mỗi giáo khi khi còn học trong nhà trường. Riêng tại nhà riêng của mỗi giáo phu
phải có bàn thờ cho đẹp, để chân dung Xta Maria, có hoa. Mỗi tháng, giáo phu phải
cầu nguyện phải cầu nguyện 1, 2 lần vấn đề song song với Xta Maria.
- Phần thứ
ba: Những Luật người ta phải giữ 10 phần
- Về truyền đạo
- Phải truyền đạo đồng đội ra sao
- Truyền đạo cho người thanh thiếu niên
như thế nào
- Truyền đạo cho người già
- Truyền đạo cho người bệnh tật như thế
nào
- Phải ở với cha mẹ như thế nào
- Phải ở với người cha cố như thế nào
- Phải ở trong nhà trường như thế nào
- Phải ở với người giáo phu như thế nào
- Phải ở với bạn bè như thế nào
Nội dung
cơ bản phần này cụ thể:
Đức chúa
trời chọn người đó làm giáo phu vì đức chúa trở tin tưởng người đó sẽ giúp cho
các cha cố truyền đạo tốt hơn cho mọi người. Khi truyền đạo, giáo phu phải nêu
cao vai trò của Đức chúa trời, truyền dạy cho con người những điều ngay thẳng,
làm đúng theo tinh thần Thiên chúa. Muốn công việc truyền đạo có hiệu quả, bản
thân mỗi giáo phu phải làm những vấn đề tốt trước tiên, không ngại khó khăn, dù
khó khăn đến mấy cũng sẽ cố vượt qua, không chán nản, lùi ý chí, phải truyền đạo
thường xuyên và thường xuyên. Việc cố gắng của từng người giáo phu Đức chúa trời
sẽ biết, nên mỗi khi muốn truyền đạo cho người ta bản thân người đó phải cầu
nguyện xin Thiên chúa thật sự. Việc truyền đạo có thể tại nhà rông cũng được, tại
nhà thờ cũng tốt. Tuy nhiên, tại nhà thờ người ta nuôi dưỡng Xtô-Xtô thì nhất định
chỉ có cha cố được truyền đạo tại nơi ấy. Do vậy, giáo phu không được truyền đạo
tại nhà thờ. Hơn nữa, các cha cố khi sau giáo phu đi truyền đạo tại những nơi
khác cũng phải vâng phục, đừng đổ lỗi cho là vợ không cho đi.
Các giáo
phu được xem là nguồn muối mặn của Thiên chúa. Cácc giáo phu phải cố truyền đạo
cho đồng đội với tất cả những lời vui vẻ, với mọi người bằng tất cả thể xác mình,
làm đầy đủ những điều tốt đẹp trước mắt mọi người, không phạm bất cứ sai lầm gì
trước mắt đồng đội. Nếu khi về nhà thờ, cha cố bảo gì phải làm theo như: Dẫn chương
trình trong nhà thờ, hát thánh ca, chương trình cầu nguyện phải chậm rãi, rõ ràng.
Nhưng việc coi giữ trong làng là nhiệm vụ đầu tiên và thường xuyên của các giáo
phu, cụ thể là: kêu gọi mọi người đi cầu nguyện; thăm nhà nào mới sinh nở vfa cầu
xin người đó đem đứa bé đến cha cố rửa tội, nếu cha cố đi xa thì giáo phu có thể
thay mặt cha cố rửa tội cho đứa bé đó cũng được. Trong trường hợp, người bệnh sắp
chết, nhưng không có cha cố thì giáo phu có thể rửa tội cho người đó. Giáo phu
thấy dân làng làm những gì trái với thiên chúa thì hãy ngăn cản trước tiên, nếu
họ không nghe thì mới về thưa với cha cố. Nếu trong làng có người chết phải hướng
dẫn cho dân làng cầm thập ác và 2 cây nến đi trước và đưa xác đến nhà thờ, bảo
tất cả mọi người cầu nguyện thay đã, lúc chôn phải hướng dẫn dân làng vẩy nước
xung quanh mộ. Tới thành giáo phu bảo dân làng làm ứô thống kê khai họ tên từng
người, người mới sinh, người chết, người theo đạo... để trình với cha cố. Nếu có
tín đồ nào lười đi nhà thờ, lười cầu nguyện, giáo phu không được là họ mà phải
từng bước hướng dẫn họ hiểu ra vấn đề, phải chung sống với họ ..để họ ý thức và
hiểu ra vấn đề và thực hiện cầu nguyện tốt hơn, đều hơn.
Đối với
thanh thiếu niên là những đối twongj được Thiên chúa nhớ nhất. Vì vậy, các chú
giáo phu, phải cố gắng động viên thanh thiếu niên nhớ sâu sắc về Thiên chúa và
Maria bằng như người ta nhớ cha mẹ. Giáo phu phải làm quen với các thanh thiếu
niên mỗi lần đi cầu nguyện sớm tối, dẫn chúng nó đi xem lễ cùng với mình, không
để họ theo những người hư hỏng làm bậy bạ, không cho nói tục, thấy họ làm những
điều không đúng với Thiên chúa thì giáo phu không phải mắc cỡ mà phải la bảo họ.
Đối với thanh thiếu niên, vì khác người lớn nên phải truyền đạo như sau: Cầu
nguyện với chúng nó đã và thật chậm; sau đó cho thanh thiếu niên thuộc chút bài
cầu nguyện và không được truyền đạo bằng lối tức tối kéo dài. Tiếp đến là kể
chuyện đã dạy khi nãy, người kể phải rõ ràng, rành mạch; không được truyền đạo
nhiều vấn đề, mà mỗi ngày một vấn đề rồi từ từ người ta sẽ biết tất cả. Không được
kể chuyện lâu quá nửa tiềng đồng hồ; có thể kể chuyện được minh hoạ bằng tranh ảnh.
Trước khi ra về, giáo phu dặn thanh thiếu niên phải làm đúng mọi điều, nếu nơi đó
gần nhà thờ thì dẫn họ tới cầu nguyện trước Xtô- Xtô hay trước Maria chẳng hạn.
Hướng dẫn họ phải biết cách xưng tội như thế nào, phải thẳng thắn, thật lòng,
chỉ cho họ thấy thân xác của Jê su ở trong bánh thánh, vui vẻ với họ để họ nhớ Đức
chúa để họ ước được ở chúng với Đức chúa. Nếu thấy đứa trẻ nào thông minh, lanh
lợi thì giáo phu nên đưa họ tới trước cha cố xem thử cha cố có muốn đưa những
người ấy trở thành học sinh của trường Quenok.
Đối với
người già, giáo phu phải với tinh thần giúp đỡ thật sự, không được la, luôn
truyền đạo cho các ông hiểu rằng chỉ có một Thiên chúa tất cả cho mọi người, mọi
vấn đề từ đầu đến cuối, vận động các ông nên bỏ các phong tục tập quán cũ trái
với thiên chúa. Nên gặp gỡ họ để nghe nhiều vấn đề khác, cố thuyết phục, không
mắc cỡ và mạnh dạn đấu tranh với họ, luôn trả lời đúng để làm cho họ đuối lý chán
đi.
Đối với
người bệnh, phải đến thăm viếng họ thường xuyên, nếu chưa làm xong việc này thì
đứng có đi rừng, đi rẫy, nếu họ chưa uống thuốc thì giáo phu phải đi đi tìm trước,
nếu bận việc quan trọng thì phải cử người khác đi thay. Nếu bệnh họ trầm trọng
thì hãy khuyên người đó đi rửa tội hoặc cử người khác đến mời cha cố trước khi
họ tắt thở. Khi có cha cố đến rửa tội, giáo phu bảo mọi người tránh xa ra, lúc
quét nwocs phép cho người bệnh, giáo phu phải vui với bạn bè, giúp họ cầu nguyện
xin thiên chúa thương gnười đó. Nếu cha cố muốn đem cho người đó Xtô-Xtô, giáo
phu phải giúp dọn nhà cửa cho người đó, khi cha đến với Xtô-Xtô, người cùng bạn
bè quỳ gối dẫn chương trình vui, cũng giúp cầu nguyện xin Thiên chúa thường xót
người bệnh. Trong trường hợp, không có cha cố đến, giáo phu phải rửa tội cho người
bệnh. Khi người bệnh chết, giáo phu phải năng đến nhà cầu nguyện họ họ
Giáo phu ở
với cha mẹ phải kính trọng cha mẹ mình hơn người khác, không chống lại cha mẹ.
Khi cha mẹ có điều gì dạy bảo trái với tinh thần Thiên chúa, thì giáo phu đứng
chịu sai, cũng đừng theo gia đình làm những điều trái với thiên chúa. Nếu đi
truyền đạo nơi xa, cha mẹ ngăn cản thì cũng chỉ cho cha mẹ thấy rằng mình là
con người Thiên chúa, là Giáo phu nên phải đi truyền đạo. Thực tế, giáo phu phải
tôn trọng Thiên chúa hơn cha mẹ, bản thân cũng xin Maria giúp đỡ để họ hiểu rõ
những vấn đề ấy. Nếu cha mẹ đau ốm, giáo phu phải thông báo cho ông cha cố đi tìm
những thức ăn ngon, khuyên nhủ ông bà chịu đựng những khóp khăn cho đúng với
tinh thần thiên chúa. Trong trường hợp
cha hoặc mẹ đau nặng thì phải chịu khó mời cha cố đến rửa tội cho được.
Đối với
cha cố, các giáo phu phải thường đến thăm, đừng đến thăm khi bản thân có vấn đề,
đừng ở quá lâu, báo cáo với cha đầy đủ mọi vấn đề. Đối với ngày Xantô rửa tội của
cha, các giáo phu có thể về thăm, viết thư chúc mừng hoặc dẫn nhiều người trong
làng về thăm là tốt nhất; không được lợi dụng xin của cải của cha (như máy bơm,
muối, tiền bạc...), nếu cha cố có thương người thì cha cố tự cho thì được, không
được xin. Trong mỗi tháng, khi cha cố có hẹn ngày để mọi người về tập trung dặn
dò, dạy bảo, giảng đạo... thì dù có khó khăn, bận công việc gì đến mấy cũng phải
về, nếu đi không thể được thì phải có thư xin phép, ghi rõ lý do gì không đi được.
Người về thăm cha cố sẽ được rửa tội linh hồn cho bản thân và xưng tội cho mình
và lấy Xtô-Xtô muốn Jê su tăng thêm sức mạnh cho mình.
Khi còn học
trong nhà trường, mỗi giáo phu phải tự nghĩ rằng mình là con người từ trong trường
Quenok ra, nên phải làm gì cho xứng đáng với đức chúa trời, phải cố gắng học tập,
giúp nhà trường với khả năng của bản thân. Nếu mai sau, Đức chúa trời có cho họ
sinh con trai, cháu trai sẽ phấn khởi hơn vừa để cho nhớ lại trường, vừa có thể
phấn khởi bảo chúng ước được làm học sinh của trường Quenok. Tại trường, nếu
cha nào làm cha linh hồn, khi ra trường, các giáo phu phải đến thăm thường xuyên,
hoặc viết thư thăm hỏi hoặc xin cha cố dạy bảo cần phải làm những điều gì cho tốt
hơn.
Các giáo
phu sống với nhau phải quý trọng, giúp đỡ nhau, đoàn kết làm mọi việc. Nếu có
người giáo phu ngoài làng khác đến làng mình, thì người giáo phu làng đó phải mời
giáo phu đó về nhau mình chơi theo kiểu người Ba na, và người giáo phu đó có đi
ra làng khác cũng phảo làm như vậy. Nếu giáo phu thấy người giáo phu khác sống
không giữ luật nghiêm càn phải dặn dò, ân cần giúp đỡ, khuyên nhủ người đó trở
lại sống sao cho tốt. Nếu có người giáo phu nào chết, thì các giáo phu trong đoàn
phải lần hạt hết 1 gipá, cũng lấy bánh Xtô-Xtô một lần. Nếu ông đó chết ở cùng địa
phương, thì giáo phu nơi đó phải đếm lần hạt đến 1 giáp, cũng phải lấy Xtô-Xtô
2 lần, đồng thời góp tiền 4 -5 đồng (gấp đôi) để đưa cho cha cố nhờ cha cố đưa
cho ông lãnh đạo khối để chuyển tới người chết. Mỗi năm, lúc cấm phòng (Kam
phong), những người giáo phu, ông cha lãnh đạo khối cũng sẽ làm lễ trọng 1 lần để
mong muốn Đức chúa trời thương linh hồn tất cả những giáo phu đã chết - ngày đó,
nếu người lấy Xtô- Xtô nhập 1 ý chí với cha cố, đó là điều tốt nhất.
Các giáo
phu phải sống với bạn bè phải hiền lành, khiêm tốn, đừng trở thành con người tự
cao tự đại. Vì đã là người giáo phu phải quen đi với ý thức tốt lành. Khi bị ai
chọc dận, giáo phu đừng tức dận và cố chấp với người đó, chỉ cầu nguyện xin với
Đức chúa trời làm rõ ý thức người đó thôi. Giáo phu phải sống và làm việc hết mình,
có một điều phải hơn hẳn người khác là phải thường xuyên thăm người đau ốm, cho
thuốc người đó, tìm cha cố cho người đó. Nhưng có 2 điều giáo phu không được làm
là: Không được phép làm mai mối, không nên theo người ta trong làng đòi nợ, đòi
phạt. Ngoài ra, trong lúc làng ần làm việc thì giáo phu phải tham gia góp ý bàn
bạc. Lúc trong làng có uống rượu tập trung giáo phu nên nên tham gia và cùng góp
1 ché rượu thì tốt hơn, ché rượu đó phải buộc gần ché rượu của già làng. Mặt khác,
giáo phu nếu muốn kết nghĩa anh em, nhưng với người không theo đạo cố tránh sự,
với người theo đạo không nên quá chặt, còn nới lỏng là không đúng với tinh thần
Đức chúa trời. Khi kết nghĩa với ai, giáo phu phải xin phép với cha cố có cho
phép hay không.
Phần thứ tư, những luật mọi người phải giữ do
những người thương chính mình gồm có 16 phần, cụ thể:
- Sợ nhất là sai lầm
- Phải sợ nước rượu
- Sợ sai lầm ý thức lãng mạn
- Không nhhe theo về chuyện Xa mat
- Không nhhe lúc Xa mat dụ dỗ
- Không nghe những người xuyên tạc
- Lúc bản thân bị đau ốm
- Lúc bản thân gặp khó khăn
- Lúc bản thân đến thăm khách
- Về chuyện sản xuất
- Về chuyện xem sách
- Về chuyện lập gia đình
- Sau khi đã lập gia đình
- Về con cháu bản thân
- Về cấm phòng
- Về giữ gìn luật
Nội dung phần này cụ thể như
sau:
Người giáo phu buộc tội một người nào đó sai lầm là khi chết
sẽ bị xuống hoả ngục, đó là chuyện sai lầm hết sức nghiêm trọng. Phải tránh những
chuyện sai lầm dù là nhỏ nhất. Vì là con người, giáo phu không thể không tránh được
những sai lầm. Nếu vấp phải sai lầm thì phải siêng năng cầu nguyện, hối hận cho
bản thân. Nếu mắc phải sai lầm lớn hãy tìm cha đỡ đầu, đừng ở trong lòng tuy Xa
mat (không theo đaọ) lâu. Giáo phu không được để tinh thần giao động, hoang
mang, đừng bảo là không xứng đáng với đức chúa trời, phải cố gắng hối hận để trở
về với đức chúa trời.
Khi trong làng có đánh chiêng đến uống rượu, giáo phu không
nên đi một mình tới. Khi đến không được uống say, chỉ uống phép cho mọi người uống
thôi, không nên uống theo "cang", cũng không nên ở đó quá lâu. Nếu dân
làng uống rượu tại nhà rông thì giáo phu phải về nhà ngũ, nếu dâng làng uống rượu
tại nhhà riêng thì giáo phu phải lên nhà rông ngũ. Tuyệt đối không nên giúp người
dân mổ trâu, mổ lợn, xách nước dùm để được uống rượu.
Người giáo phu luôn có ý thức trong sạch tốt, không làm
theo như các thanh niên chơi bời khác, đừng đeo cườm nhiều, đừng mang khố dài,
chỉ mang khố bình thường như người bình thường khác, đừng có đeo vòng tay có hạt,
đứng đánh chiên suốt đêm, không nói tục. Khi nghe người khác nói xấu, nói liên
thiêng đứng có cười lây. Giáo phu cũng đứng dận người dân nghe trường ca, kể
chuyện xưa các ông đi đánh địa phương khác, hay hát bài ca tình yêu mà vì thể tỏ
thái độ dận giữ. Nếu không thích hãy bảo mọi người im, nếu họ không nghe sẽ xin
thiên chúa bảo giùm. Giáo phu không nên đi chơi với con gái đêm khuya hay lên
ngũ chung với gia đình có người chết, không nên xin thuốc con gái lúc đêm tối.
Gặp phụ nữ, con gái, giáo phu không được nhìn họ lâu. Có thể những Xa mat (người
không theo đạo) hay dụ con người có đạo mắc phải những sai lầm, nên phải cảnh
giác đề phòng. Giáo phu luôn ngũ một mình với bạn bè, ngũ trên 1 gường nhỏ 1 người
thôi, nếu có ai đó muốn đến ngũ chung, giáo phu phải nói họ đi chỗ khác. Trên đầu
gường ngũ của giáo phu phải làm chỗ để 1 cây thập ác và 1 tấm ảnh Jê su và Ma
ri a và Gui se nữa, bàn thờ có trang trí bằng vải, hoa và cây nến và 1 cái gì đó
tuỳ người sắp xếp. bàn thờ cũng để 1 lọ hay 1 ống tre nứa để nước lễ muốn vẩy lên
gường mình trước khi đi ngũ. Lúc đi tắm, giáo phu phải cảnh giác với người không
theo đạo, đừng đi tắm với người xấu, trước khi xuống nước, người làm dấu phép đã
để xin thiên chúa giữ gìn bản thân; người tắm luôn mặc khố hoặc quần, tắm xa chỗ
con gái, lúc tắm không nên quấy rầy bậy bạ....
Giáo phu không thể không bị người ngoài đạo hay quỹ thần dụ
dỗ dễ dẫn đến làm những chuyện bậy bạ nên phải hết sức cẩn thận. Những thức ăn,
thức uống, chỗ người ta cúng thần mà biết trước được thì không giúp ăn, giúp uống.
Nếu người ta cho thức ăn kiêng người đừng ăn mà quăng đi. nếu Xa mat ốm nếu bản
thâm họ muốn kêu phù thuỷ thì giáo phu cố không nghe, ngăn cản họ mà chỉ dạy họ
chỉ có 1 Thiên chúa thôi, rủ người đó tin theo con đường thiên chúa.
Giáo phu không nghe lúc Xa mat dụ dỗ, sẽ chơi tách xa Xa
mat, cầu nguyện xin Thiên chúa và lấy Xtô-Xtô và nhờ Maria che chở cho người. Bởi
vì, Xa mat sợ Maria, khai với cha linh hồn về tất cả những gì mà Xa mat dụ dỗ để
cha chỉ bảo.
Giáo phu không nghe theo những lời xuyên tạc, chống lại người
có ý thức xấu thôi chưa đủ, phải tránh xa chúng nó, không đi chơi, không đi tắm
chung.... Đối với những người xuyên tạc Thiên chúa hay nói quấy rầy tgì Giáo
phu phải trả lời lại rằng: Người nói như chó điên không biết chủ, người đừng nói
bậy...
Lúc bản thân bị đau ốm, giáo phu đừng buồn, đừng kêu ca, đừng
bào thiên chúa không muốn thương mình. Lúc ấy người phải nghĩ đến Jê su, siêng
cầu nguyện. nếu có Xa mat tình nguyện đi tìm thầy phù thuỷ cho người thì người
hãy từ chối, mà cho người đi tìm cha cố đến rửa tội. nếu biét bệnh mình qua khỏi,
người chi thông báo cho Jê su xin ngài cho người chết tốt nhất trong lòng bàn
tay người thôi.
Lúc bản thân gặp khó khăn, giáo phu đứng chán, đừng kêu ca,
cố gắng chịu đựng cùng thống nhất một ý thức, trách nhiệm với chúa Jê su.
Lúc bản thân đến thăm khách, giáo phu phải nêu cao tinh thần
Thiên chúa khắp mọi nơi. Nếu đi thăm nơi xa, giáo phu phải cầu nguyện xin Xta - Maria giúp đỡ, xin phép
cha cố đã, khi từ làng xa về người phải đến chào cha cố đã. Trên đường đi, giáo
phu cũng tranh thủ cầu nguyện, phải chăm chỉ để mọi người dân bắc chước sẽ phục
tùng người truyền đạo. Nếu đến thăm làng chưa có Thiên chúa, giáo phu cũng phải
truyền đạo ở đó đã, cùng đưng nghe theo người ta rủ đi chơi, uống rượu say, nói
tục. Nếu tại làng người đến có nhà thờ, người ta có nuôi Xtô - Xtô người phấn
khởi được thăm hỏi Jê su ở trong phòng lễ. Lúc sáng sớm người lên bàn làm lễ. Nếu
tại làng đó có cha cố, thì giáo phu đừng mắc cở, hãy đến thăm và nói chuyện với
cha cố và cũng cố lên thăm ông giáo phu làng ấy. nếu làng đó là làng Xa mat, thì
ông giữ gìn ý thức càng vững, người cũng truyền đạo lôi kéo người ta theo ý thức
Thiên chúa...
Về chuyện sản xuất, giáo phu phải hơn người dân khác về nhiều
vấn đề như: công việc sản xuất phải siêng năng hơn, làm giỏi, làm mãi, chỉ có
ngày chủ nhật thôi. Nếu giáo phu đến làng nào truyền đạo, khi ở với nhà ai phải
giúp gia đình sản xuất, làm tất cả mọi việc để người ngoài nhìn vào học tập và
kính trọng.
Đối với việc xem sách, dù còn học trong nhà trường, giáo
phu phải xem sách, dù có kiến thức nhưng chưa chắc đã hơn người ta. Do vậy, khi
đã ra trường rồi, giáo phu phải siêng năng đọc sách hơn đẻ có kiến thức khi đi
truyền đạo để người ta họ nghe và nể, xem sách bất cứ lúc nào rãnh hoặc có điều
kiện. Những kinh sách giáo phu phải gìn giữ cẩn thận, để trong rương, không cho
trẻ con phá, không làm rách bìa, xé rách tầm bậy. Sách người giáo phu phải siêng
năng xem hơn hết là sách Jê su.
Giáo phu có quyền được lập gia đình, không được lấy người lãng
mạn, có tư tưởng xấu. Người chỉ ước lấy người ta, muốn giữ gìn bản thân cho tốt
hơn theo ý thức của Thiên chúa. Giáo phu phải xin thiên chúa cho thấy được con
người nào phù hợp đúng với ý thức Thiên chúa để kết duyên, phải cố ý lấy Xtô-Xtô
2 - 3lần cố ý muốn xin vấn đề đó, người cũng phải nhờ Xta Maria bảo vệ bản thân
đã. Đồng thời muốn lấy ai, giáo phu phải hỏi ý kiến của người cha linh hồn, bàn
bạc với cha mẹ, họ hàng đã, nếu họ ngăn cản thì phải dừng lại. Người đó không
phải là người xấu, đừng tìm người Xa mat, phải thống nhất ý kiến và thông cảm
cho cuộc sống của các giáo phu. Giáo phu không nên cho người ta nói chuyện cưới
xin của mình lúc họ say rượu. Khi trao hạt cho người con gái, giáo phu không
trao hạt buồn, nà hạt nhớ, phải trao hạt cầu nguyện về một bên ché rượu, nhờ
cha cố làm phép rửa hạt trước khi trao cho người ta. Từ ngày tổ chức trao hạt đến
ngày làm phép hôn phối, người phải ở ổn định thật sự, không nên ăn ở với nhau
trước, trong thời gian đó 2 người phải siêng lấy Xtô-Xtô, xin thiên chúa thương
2 người. Nếu người vợ có ý định bỏ giáo phu thì giáo phu chấp nhận bỏ và phạt
tiền chút ít. Khi quyết định tổ chức lễ cưới, người phải báo cho cha mẹ, anh
em, họ hàng cùng lên cầu nguyện trước bàn thờ. đến khi bạn bè, anh em đén uống
rượu chúc mừng, giáo phu cũgn uống, nhưng ít, không được uống say.
Sau khi lấy vợ, giáo phu phải giữ trọn tình yêu chung thuỷ,
không nên chấp nhau những chuyện nhỏ nhặc. Giáo phu có thể truyền đạo cho vợ, bảo
vệ thực hiện tốt ý thức như người. Nếu người vợ lười đi cầu nguyện, lười đi xưng
tội, người phải rủ nó đi thật sự, muốn để 2 người trở thành con thiên chúa chắc
chắn nhất. Trong buồn ngũ hai người, giáo phu phải để một cái bàn viết, chuẩn bị
một chỗ đẹp để treo ảnh Jê su, Maria, Gui se. Mỗi tối trước khi đi ngũ, hay ăn
cơm, mỗi buổi sáng hai người cũng phải cầu nguyện chung trước tấm ảnh đó.
Giáo phu sau khi có con phai suy nghĩ, lo lắng đưa đến cha
cố rửa tội, không để cho nó làm nô lệ cho Xa mát lâu. Nếu là trai người ước nó
sẽ trở thành cha cố mai sau, nếu là gái ước nó làm ba xơ. Nếu khi con biết nói,
người phải truyền đạo cho con lúc nhỏ, bảo con làm phép dấu đã. sau đó tập cho
con quen nói Jê su, Maria, Gui se, sau đó tuỳ theo tuổi tác mà dạy những điều
quan trọng hơn. Khi được 7,8, tuổi, người bảo nó nhanh xưng tội cho bản thân,
nhanh được lấy Xtô-Xtô. Giáo phu phải dạy con đúng với ý thức tốt lành của thiên
chúa, nếu nó lễ phép thì dạy dỗ bằng lời, nếu nó hư hỏng hãy đánh nhưng không được
đánh nặng theo tính nóng của bản thân.
Giáo phu mỗi năm phải đi cấm phòng tại nhà trường 1 lần. Vì
cấm phòng sẽ nuôi nấng linh hồn họ, sức khoẻ cho linh hồn, thành người giáo phu
tốt. Khi nhận được thư gọi đi cấm phòng, giáo phu phải siêng cầu nguyện, chuẩn
bị linh hồn cho tốt trước 8,9 ngày để xin Jê su cho Gra xia xuống nhập vào linh
hồn bản thân. Người cũng nhờ Xta Maria, mẹ người giáo phu giúp người cấm phòng
tốt hơn.. Trong lúc cấm phòng, người cố gắng cấm phòng là tốt nhất. Các cha cố
sẽ luôn thông báo cho các giáo phu những chuyện quan trọng để giáo phu tự suy
nghĩ, kiểm điểm lại việc làm của bản thân mình trong thời gian qua. Lúc cấm phòng,
bản thân xưng tội khác với như xưng tội lần thứ hai. Người cũng phải suy nghĩ
trong lúc còn ở trong nhà trường,, từ khi về làng người có sai lầm gì không ?
Say mấy lần, lời nói với người ta như thế nào, có làm dóc, có lếu láo không, có
dạy bảo người ta chuyện tốt không. Người phải xưng tội thẳng thắn như thế, phải
hối hận chuyện sai lầm của mình và cam đoan không mắc sai lầm nữa. Sau khi ra
khỏi cấm phòng, người cam đoan 2,3 chuyện quan trọng nhất và viết 2 bản kiểm điểm
như nhau, một bản người giữ, 1 bản trước khi ra khỏi cấm phòng, người để dưới
chân dung đức mẹ Maria.
Người giáo phu giữ gìn luật giáo phu. Vì luật đó dạy cho người
nhiều chuyện đúng, nhiều chuyện tốt đẹp thật đúng ý nghĩa của Thiên chúa. Luật
này buộc người giáo giao phu mỗi tháng xem lại 1 đợt, mỗi năm xem lại 1 lần. Nếu
người giữ luật thật nghiêm thì luật sẽ giữ người vững vàng hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét