7/11/13

ĐẢNG BỘ TỈNH KON TUM VỚI CÔNG TÁC DÂN TỘC



Hà Xuân Nguyên

 Kon Tum là tỉnh vùng cao nằm ở cực bắc Tây nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây giáp nam Lào, phía đông bắc giáp Campuchia; gồm có 09 huyện, thị với 92 xã, phường, thị trấn; diện tích tự nhiên khoảng 9.000 km2, tổng dân số trên 380.000 người (gồm 29 thành phần tộc người), trong đó 52 % là đồng bào dân tộc thiểu số.

Do địa giới hành chính tỉnh Kon Tum đã trải qua nhiều lần thay đổi, chia tách, sáp nhập(1) cho phù hợp với điều kiện thực tiễn từng giai đoạn cách mạng, nên cơ cấu thành phần tộc người đã có sự biến động nhất định.
Trong lịch sử xa xưa, Kon Tum chỉ có các nhóm tộc người thiểu số cư trú, họ được coi là cư dân bản địa, có lịch sử phát triển lâu đời. Bộ phận dân cư tại chỗ (ta hay gọi là người Thượng) gồm 6 tộc người chính: Xê đăng, Ba na, Jẻ - Tiêng, Gia rai, Brâu, Rơ mâm, ngoài ra còn có người Kinh và số lượng đáng kể người dân tộc thiểu số phía Bắc di cư vào những năm 1952 - 1954 cùng các nhóm di cư tự do hoặc theo chương trình định canh, định cư kinh tế mới sau này trong những thập niên gần đây.
Đặc điểm chung nhất của cộng đồng các dân tộc Kon Tum là cư trú chủ yếu ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; hiểu biết về xã hội còn hạn chế; trình độ sản xuất kinh tế còn thấp và không đều; có truyền thống đoàn kết, gắn bó, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau và đang có quan hệ về mặt dân tộc, tôn giáo với cư dân ở các quốc gia trong khu vực và với một bộ phận đồng tộc đã chuyển cư ra nước ngoài sinh sống (chủ yếu là người Jẻ-Triêng, Brâu... ở Lào và Campuchia).
Trước giải phóng, mặc dù là địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhưng chính quyền nguỵ vẫn xem nơi đây là địa bàn chiến lược quân sự, không chú trọng đầu tư xây dựng các công trình sản xuất lớn, chủ yếu vẫn là kinh tế tư nhân, sản xuất nhỏ là phổ biến, phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào nguồn viện trợ... Và cũng như các thành viên khác trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, người dân Kon Tum cũng chịu chung cảnh nô lệ, mất nước, mất nguyền tự chủ làm người, và còn bị thực dân, đế quốc bắt làm tay sai, phục dịch, trong đó trên 3/4 dân số lâm vào cảnh bần cùng, đói khổ, nhiều gia đình phải ăn củ mài, củ chuối hàng tháng trời để sống....
          Tháng 9-1930, chi bộ Đảng đầu tiên ở Kon Tum ra đời, các đồng chí đảng viên vừa hoạt động, gây dựng cơ sở, vừa tuyên truyền, giác ngộ đồng bào hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Bác Hồ kính yêu và con đường giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam... Như vết dầu loang, từ một người được giác ngộ, đến cả gia đình, cả làng đều giác ngộ và ủng hộ cách mạng, biểu thị quyết tâm hy sinh xương máu đến cùng, đoàn kết quanh Đảng để đấu tranh dành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Sau hơn 30 chiến đấu gian khổ, nhân dân các dân tộc Kon Tum đã góp sức cùng quân và dân cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử, đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch.
Ngày 17-03-1975, Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Song những di hại của chiến tranh để lại là gánh nặng quá sức đối với Đảng bộ và chính quyền non trẻ mới thành lập. Những người trước đây bị đưa đi dồn dân lập ấp chiến lược nay trở về lại quê hương phần lớn là bị mất đất, mất nhà, không có tư liệu sản xuất, lâm vào cảnh đói, đau, lạc, rách... Số lượng người mù chữ chiếm tỷ lệ cao (bình quân cứ 6 người có một người đi học). Bệnh tật, ốm đau thường xuyên xảy ra, trong khi đó lại thiếu thuốc chữa bệnh, thiếu đội ngũ y, bác sĩ... Nạn xì ke, ma tuý, gái điếm, lưu manh, côn đồ, trộm cắp vẫn thường xuyên xảy ra một số nơi... Một bộ phận lính nguỵ, công chức nguỵ chưa thật sự giác ngộ cách mạng, còn bị ảnh hưởng bởi luận điệu tâm lý chiến, ngộ nhận, chưa thành thật hợp tác với chính quyền, gây khó khăn cho chính sách đoàn kết dân tộc. Hoạt động của tổ chức phản động Fulro đang phục hồi, cùng với những hoạt động vũ trang xâm chiếm biên giới của lực lượng phản động Campuchia gây cho Kon Tum nhiều tổn thất về người và quả...
          Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau giải phóng năm 1975, Đảng bộ Kon Tum đã tập hợp toàn dân đoàn kết một lòng, chung vai đấu cật, khắc phục khó khăn, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi ổn định tình hình, tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn công tác làm nhiệm vụ tìm và đưa dân từ nơi khác trở về làng cũ để ổn định nơi ăn, chốn ở; phát động phong trào toàn dân tổ chức khai hoang sản xuất, xây dựng cánh đồng mới định canh định cư; xây dựng trường lớp cho trẻ em được đến trường học tập; khôi phục, phát triển, bảo tồn văn hoá truyền thống cổ truyền; đẩy mạnh công tác củng cố, xây dựng hệ thống chính trị, đào tạo đội ngũ cán bộ tại chỗ..., trong đó, nhiệm vụ bảo vệ biên giới, truy quét Fulro và các tổ chức chính trị phản động khác được xác định là nhiệm vụ thường trực, ưu tiên hàng đầu của các cấp uỷ, chính quyền cơ sở. Qua quá trình triển khai thực hiện, mặc dù thành quả chưa lớn, song bước đầu đã giải quyết được nạn đói kinh niên cho người dân, giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo, an ninh chính trị được giữ vững... làm cho quần chúng nhân dân ngày càng tin tưởng, gắn bó hơn với Đảng, với chế độ mới.
          Khi tỉnh Kon Tum tái lập (1991) đến nay, được sự quan tâm, đầu tư của Trung ương, thông qua các chương trình dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn (như chương trình 135, 168, 154.....), nhất là từ khi có Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh chính trị vùng Tây nguyên thời kỳ 2001 - 2010 là động lực, tạo điều kiện cho Kon Tum có những bước tiến quan trọng.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân xóa bỏ các tập tục, mê tín lạc hậu, trong những năm gần đây Đảng bộ Kon Tum đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền triển khai thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo; định canh, định cư; khuyến nông khuyến lâm; giảm lãi suất cho vay vốn với đồng bào sống ở vùng II, vùng III; trợ cước, trợ giá các mặt hàng chính sách; xây dựng cơ sở hạ tầng... từng bước làm thay đổi diện mạo đời sống người dân. Năm 2000, giáo dục phổ cập tiểu học đã hoàn thành, tỷ lệ học sinh đến trường ngày một tăng; giao thông đi lại giữa trung tâm các huyện, thị đến xã được đảm bảo thông suốt trong các mùa; điện lưới quốc gia đã đến ở nhiều thôn, làng; công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, không để dịch lớn xảy ra; 100/100 xã, phường, thị trấn có nhân viên y tế phục vụ khám chữa bệnh thường xuyên; chương trình tuyên truyền trên sóng phát thanh - truyền hình bằng tiếng dân tộc Ba na, Xơ đăng... phủ sóng được 70 %, đã và đang trở thành phương tiện thông tin không thể thiếu trong đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Riêng đối với lĩnh vực văn hoá, UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 21/1999/CT-UB, ngày 25-11-1999 về việc duy trì, khôi phục nhà rông truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quần chúng nhân dân hoan nghênh, hưởng ứng. Tính đến tháng 06-2008, toàn tỉnh đã có 478/664 thôn, làng đồng bào dân tộc có nhà rông. Đặc biệt, đến nay, hệ thống chính trị cơ sở được xây dựng vững chắc do chính đội ngũ cán bộ người dân tộc đảm nhiệm; kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển với nhiều mô hình phù hợp đã làm thay đổi căn bản đòi sống nhân dân, cơ cấu dịch vụ và công nghiệp trong các thôn, làng nội, ven thị đã tăng nhanh, nhiều hộ gia đình biết làm kinh tế theo mô hình VAC, trồng cà phê, chăn nuôi.... có thu nhập cao, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể (từ 53,7 % năm 1996 xuống còn 30,6 % năm 1999, 17,8 % năm 2001 và 12 % năm 2004 - theo tiêu chí cũ, đến năm 2006 còn 31,38 % và năm 2007 giảm xuống còn 24,97 % - theo tiêu chí mới); tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm đạt trên 12 %; các vấn đề bức xúc về văn hóa, xã hội được quan tâm giải quyết thỏa đáng; an ninh chính trị được giữ vững; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố vững chắc...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà Kon Tum đạt được, cũng còn nhiều thách thức đặt ra cần thẳn thắng nhìn nhận là kinh tế toàn tỉnh nói chung, trong vùng đồng bào dân tộc nói riêng tăng trưởng chậm, phát triển chưa bền vững, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng còn chênh lệch lớn; số hộ đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao; tình trạng tái mù chữ - nhất là ở phụ nữ tái diễn; hiệu quả thực hiện các chương trình dự án còn thấp; việc thực hiện chính sách đất đai vẫn còn nhiều nơi làm chưa tốt; công tác quy hoạch, bố trí sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số tại chỗ còn chắp vá, chưa có chiến lược lâu dài, chưa đồng bộ giữa các vùng, giữa các dân tộc. Nghiêm trọng hơn là sự quan liêu, xa dân, không sâu sát thực tế ở một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ đã làm giảm lòng tin của người dân vào Đảng, vào chế độ. Lợi dụng những tồn tại, khó khăn trên, trong thời gian qua, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, biên giới, đói nghèo, Fulro... để kích động quần chúng biểu tình, tổ chức vượt biên trái phép sang Campuchia, gây rối mất an ninh chính trị... đang là mối quan tâm của lãnh đạo các cấp, các ngành.
          Do vậy, để đưa Kon Tum phát triển toàn diện, ngoài việc tiếp tục triển khai các chương trình, dự án mà Nhà nước đang đầu tư một cách có hiệu quả, giải pháp đặt ra trong thời gian tới cần phải thực hiện một số công việc sau:
1. Thực hiện cho đúng, cho tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị các cấp
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trước sau như một là bảo đảm, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc và bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa các dân tộc trên nguyên tắc: đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Trước hết, các cấp, các ngành cần quán triệt lại quan điểm của Đảng về công tác dân tộc, cụ thể: Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng, Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, nhất là Nghị quyết 23 của Hội nghị làn thứ bảy Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX (phần 2) cho cán bộ, đảng viên hiểu thực hiện.
Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài việc hiểu lý luận, chủ trương, chính sách chung chưa đủ, cán bộ, đảng viên phải bám sát, cọ sát với thực tiễn thường xuyên để tôi luyện bản lĩnh vững vàng hơn trong cuộc sống và công việc, tránh trường hợp rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan hoặc dân tộc hẹp hòi. Bất kỳ giải quyết những vấn đề gì trực tiếp đến dân tộc hoặc có liên quan đến dân tộc phải trên cơ sở của vấn đề dân tộc, lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lợi ích của nhân dân, làm sao bản đảm được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hơn nữa, từ việc bám sát cơ sở, cán bộ, đảng viên sẽ kịp thời nắm bắt được diễn biến tư tương, tâm lý của đồng bào dân tộc để tham mưu cho các cấp uỷ đảng, chính quyền giải quyết kịp thời, để tránh bị kẻ xấu lợi dụng kích động.
2. Thực hiện tốt chính sách đất đai trong vùng đồng bào dân tộc
Hiện nay, vấn đề đất đai ở Kon Tum nói riêng, Tây nguyên nói chung đang được lãnh đạo các cấp, các ngành và cả các thế lực thù địch quan tâm. Bởi đây là những mâu thuẫn luôn xảy ra trong đời thường, dễ bị lợi dụng kích động vì chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, dễ làm nảy sinh xung đột giữa các dân tộc mà điều này đã từng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới... Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, vấn đề đất đai thường gắn liền với các vấn đề nhạy cảm khác là dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo....
Do vậy, từ nay đến năm 2010, chính quyền các cấp phải khẩn trương tiếp tục triển khai dứt điểm việc phân bố đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc theo Quyết định 134 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời cần có sự điều chỉnh về quy hoạch các khu vực đất. Đối với những vùng quy hoạch trồng rừng nên giao cho người địa phương quản lý; xác định lại khu vực định canh định cư, tổ chức giao đất khoán rừng cho dân hoặc có chính sách ưu tiên, tương trợ, giúp đỡ các gia đình dân tộc còn khó khăn, tạo điều kiện cho họ có đất canh tác.
3. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Có chiến lược đào tạo cán bộ nguồn là người dân tộc trên tất cả lĩnh vực
Nói đến vấn đề dân tộc là nói đến vấn đề văn hoá cán bộ. Do vậy, các ngành chuyên môn cần tổ chức điều tra, khảo sát, sưu tầm các vốn quý về văn hoá trong mỗi dân tộc để xem xét, chọn lọc cái gì cần giữ, cái gì cần bỏ (không phải cái gì trong truyền thống đều tốt). Bởi vì, lúc này mọi sự ứng xử thiếu khôn ngoan và  không khoa học của chúng ta ở lĩnh vực này sẽ tạo nón những biến động xã hội không cần thiết.
Mặt khác, cũng nên hiểu rằng, khâu then chốt để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng hiện nay là xây dựng cho được đội ngũ cán bộ người dân tộc trong vùng dân tộc. Để có được đội ngũ này thì hệ thống các trường phổ thông trung học nội trú tại các huyện, thị phải được nâng cấp,  đầu tư đảm bảo đủ số lượng chỉ tiêu để cho các học sinh người dân tộc vào học. Ngành giáo dục phối hợp với Sở Nội vụ làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân có hướng đào tạo những học sinh đang học tại các nội trú vào những ngành nghề chuyên môn mà tỉnh đang cần, đang thiếu hoặc theo cơ cấu sau: Cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và cán bộ chuyên môn để hướng các em theo học. Đi đôi với giải pháp "đầu vào" thì cần thực hiện tốt giải pháp "đầu ra", tránh trường hợp chính quyền gửi đi học về nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng chuyên môn. Ngoài ra, cũng cần có chính sách ưu tiên để thu hút cán bộ từ nơi khác đến vùng xâu, vùng xa, vùng biên giới công tác nhằm tạo được sức bậc làm chuyển biến bộ mặt miền núi.
4. Phát triển kinh tế, xã hội là điều kiện, nền tảng để thực hiện tốt chính sách dân tộc
Nhân tố quan trọng để quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ chính quyền không gì hơn ngoài việc chăm lo cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được tạo điều kiện học tập có tri thức bước vào ngưỡng cửa của thời đại mới. Điều cần kíp hiện nay là thực hiện tốt chương trình định canh định cư kinh tế mới, xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và  giáo dục cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; biến các chủ trương, quan điểm của Đảng thành những đề án phát triển kinh tế thật cụ thể, có tính thực tiễn cao, phù hợp với tâm lý dân tộc để họ chấp nhận, tránh tình trạng dàn trải chung chung. Cần tính toán kỹ khi quyết định đầu tư ở địa bàn nào, đầu tư về lĩnh vực gì có thể đem lại hiệu quả; khi tổ chức thực hiện, cần có sự chỉ đạo xuyên suốt, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, không để rơi rớt vốn vào tay một số cán bộ biến chất, tránh trường hợp “đầu voi đuôi chuột” hoặc làm giữa chừng, hậu quả này vừa gây thiệt hại về kinh tế vừa làm giảm lòng tin của quần chúng với chính quyền.
Thiết nghĩ, trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở Kon Tum nói riêng, cả nước nói chung, chỉ giải quyết được vấn đề dân tộc một cách đúng đắn, khoa học thì mới có thể tạo được sức mạnh nội lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước. Dù công tác dân tộc còn những khó khăn, hạn chế nhất định, song những thành tựu đạt được là rất lớn, rất đáng tự hào, là cơ sở để Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc Kon Tum vạch ra hướng đi mới, góp phần thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.

                                            -----------





(1) Năm 1892, thực dân Pháp đặt toà đại lý hành chính tại Kon Tum do cố đạo Vianlơtông (Vialleton), còn gọi là cha Truyền cai quản. Ngày 4-7-1904, Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der gồm 2 toà đại lý hành chính, một ở Kon Tum trước đó thuộc tỉnh Bình Định, một ở Cheo Reo trước đó thuộc tỉnh Phú Yên. Ngày 9-2-1913, Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum (trong đó có Buôn Mê Thuột và Plei Ku). Ngày 2-7-1923, Buôn Mê Thuột được tách ra để thành lập tỉnh Đăk Lăk. Ngày 25-5-1932, Plei Ku tách ra để thành lập tỉnh Plei Ku (Gia Lai). Sau giải phóng năm 1975, Kon Tum và Gia Lai hợp nhất thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum (11-1975). Đến ngày 20-10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập (tách ra từ Gia Lai - Kon Tum) và ổn định từ đó đến nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét