Thạc sĩ Hà Xuân Nguyên
Theo số liệu thống kê, Tây nguyên hiện có
các thành phần tộc người chính sau: Ba na, Gia rai, Ê đê, Giẻ - Triêng, Xtiêng,
Xơ đăng, Mạ, K'ho, Raglai, Mơ nông, Brâu, Rơ mâm... Ngoài ra, còn có người Kinh
và số lượng đáng kể người dân tộc thiểu số từ phía Bắc di cư vào trong những
thập niên gần đây, đưa tổng số dân Tây nguyên hiện có gần 4.600.000 người, cư
trú trên diện tích rộng 59.754 km2, trong đó có 590 km đường biên
giới đi qua địa bàn 27 xã thuộc 12 huyện/4 tỉnh; có 241 xã đặc biệt khó khăn;
tỷ lệ đói nghèo trong vùng đồng bào dân tộc chiếm 52,9 %, cá biệt có nơi từ 70
đến 80 %.
Đặc điểm chung nhất của đồng bào các dân
tộc Tây nguyên là cư trú chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; hiểu biết
về xã hội còn hạn chế; trình độ sản xuất kinh tế còn thấp và không đều; có
truyền thống đoàn kết, gắn bó, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau và đang có
quan hệ về mặt dân tộc, tôn giáo với cư dân ở các quốc gia trong khu vực và với
một bộ phận đồng tộc đã chuyển cư ra nước ngoài sinh sống (đồng bào Giẻ-Triêng,
Brâu... ở dọc biên giới Lào và Campuchia). Ngoài ra, còn có một bộ phận quần
chúng theo đạo - chủ yếu là Công giáo và Tin lành (khoảng 955.000 người) đang
chịu sự chi phối, tác động của tổ chức giáo hội trong nước và toàn cầu.
Trong thời gian qua, được sự chăm lo ưu
tiên đầu tư của Đảng, Nhà nước, cuộc sống của người dân có những bước phát
triển quan trọng. Đó là hệ thống chính trị cơ sở được xây dựng vững chắc do
chính đội ngũ cán bộ người dân tộc đảm nhiệm; kinh tế hàng hóa bắt đầu phát
triển với nhiều mô hình phù hợp; các vấn đề bức xúc về văn hóa, xã hội được
quan tâm giải quyết thỏa đáng; an ninh chính trị được giữ vững; khối đại đoàn
kết toàn dân được củng cố vững chắc. Đến nay, tỷ lệ học sinh đến trường ngày
một tăng, nhiều gia đình trước đây khó khăn nay đủ ăn, có tích luỹ; điện lưới
quốc gia đã đến ở nhiều bản làng; đời sống vật chất và tinh thần không ngừng
được cải thiện. Cùng với việc đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giáo
dục quần chúng nhân dân xóa bỏ các tập tục, mê tín lạc hậu, các tỉnh Tây nguyên
đã triển khai thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội như công tác: xóa đói giảm nghèo; định canh, định cư; khuyến nông khuyến
lâm; giảm lãi suất cho vay vốn với đồng bào sống ở vùng II, vùng III; trợ cước,
trợ giá các mặt hàng chính sách; xây dựng cơ sở hạ tầng... từng bước làm thay
đổi diện mạo đời sống người dân; giáo dục phổ cập tiểu học đã hoàn thành; công
tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, không để dịch lớn xảy ra; có
100/100 xã, phường ở Tây nguyên có nhân viên y tế phục vụ khám chữa bệnh thường
xuyên; chương trình tuyên truyền trên sóng phát thanh - truyền hình bằng tiếng
dân tộc cùng với chủ trương khôi phục lại nhà rông văn hóa tại các bản, làng
được quần chúng nhân dân hoan nghênh, hưởng ứng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà
chúng ta đạt được, cũng còn nhiều hạn chế nhất định, đó là: do ảnh hưởng bởi
các yếu tố tự nhiên, xã hội và lịch sử để lại, nền kinh tế - xã hội còn chậm
phát triển, người dân còn nghèo đói, thất học; một số nguồn tài nguyên bị giảm;
việc đầu tư kinh phí để phát triển vùng đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn tuy
được quan tâm nhưng hiệu quả đem lại chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng
thế mạnh sẵn có; quá trình thực hiện các chương trình, dự án của Chính phủ,
nhất là việc thực hiện chính sách đất đai vẫn còn nhiều nơi làm chưa tốt; công
tác quy hoạch, bố trí sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số tại chỗ còn chắp
vá, chưa có chiến lược lâu dài, chưa đồng bộ giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Đặc biệt nghiêm trọng hơn là do sự quan liêu, xa dân, không sâu sát thực tế ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ đã làm giảm lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số
với Đảng, với chế độ.
Những tồn tại trên, lẽ
ra các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương phải khẩn trương có giải pháp
khắc phục, giải quyết dứt điểm, để lập lại trật tự kỷ cương, công bằng xã hội
để an dân. Rất tiếc, điều này trên thực tế đã có làm, nhưng chưa đạt yêu cầu,
nên đã bị một số phần tử phản động cực đoạn lợi dụng tạo cớ để khét sâu mâu
thuẫn dân tộc, làm mất ổn định an ninh, gây tâm lý lo lắng, hoang mang trong
quần chúng. Tồn tại trên càng kéo dài, thì mặt trái kinh tế thị trường càng có
điều kiện tác động thâm nhập, thẩm thấu đến với từng người dân, là điều kiện
tốt cho những vấn đề phức tạp nhen nhóm phát triển(1).
Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều,
nhưng cái chính vẫn là chúng ta chưa phát huy được nội lực, chưa thực hiện tốt
chính sách dân tộc, chưa có cơ chế thu hút được nhân lực, vật lực, tài lực để
phục vụ cho sự nghiệp đổi mới; chưa có sự đầu tư nghiên cứu sâu để tìm hiểu về
đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc mà thường có sự áp đặt, lấy ý nghĩ
của cán bộ nói lên ý nghĩ của người dân; những tín ngưỡng trong sáng lành mạnh
của đồng bào cho đó là mê tín dị đoan; các vị thần linh và Yàng của họ gọi là
ma; nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng của cộng đồng thông qua các lễ hội truyền
thống có tính giáo dục cao lại có ít người phỉ báng cho đó là lạc hậu, tốn kém,
lỗi thời... Từ nhận thức trên, với tinh
thần “đổi mới”, muốn thay đổi toàn bộ quan niệm của người dân bằng những quan
niệm mang tính hiện đại hơn, nên dẫn tới sự ngộ nhận ở một bộ phận cán bộ khi
cho rằng, trong lĩnh vực kinh tế hiện đại hóa tức là tây hóa, trong lĩnh vực văn hóa dân tộc thường nghĩ hiện đại hóa
tức là kinh hóa. Trong khi đó, tự bản
thân quần chúng vẫn còn chịu sự chi phối nhiều của truyền thống, phong tục,
chưa nhận thức hết ý nghĩa các chương trình, làm ảnh hưởng tới việc thực hiện
chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh ta.
Do vậy, để đưa Tây nguyên phát triển toàn
diện về các mặt: kinh tế, xã hội, văn hoá... ngoài việc tiếp tục thực hiện các
chương trình mà Nhà nước đang đầu tư một cách có hiệu quả, giải pháp đặt ra
trong thời gian tới cần phải thực hiện một số công việc sau:
1.
Thực hiện cho đúng, cho tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, nhằm đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng
quê hương đất nước
Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước
trước sau như một là bảo đảm, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên cơ sở nguyên tắc: Đoàn kết, bình
đẳng, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
Những chương trình, dự án đang thực hiện
ở Tây nguyên bước đầu đã phát huy tác dụng, tạo ra sự thay đổi cơ bản trong
cuộc sống người dân, khoảng cách giàu nghèo giữa đồng bào dân tộc ở vùng sâu
vùng xa với vùng đi lại thuận tiện được rút ngắn, song thực tế lại tạo ra
khoảng cách không đáng có giữa một một bộ phận cán bộ, đảng viên với quần chúng
nhân dân, vì những lý do sau:
- Khi triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình, dự án của Chính phủ
kinh phí lớn đã nảy sinh tiêu cực, chạy theo đồng tiền làm biến chất, thoái hoá
đạo đức ở cán bộ;
- Thái độ ứng xử của một bộ phận cán bộ
đối với dân có phần ban ơn, bố thí, chạm đến lòng tự trọng của người dân;
- Chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở;
- Hiệu quả chất lượng công trình thấp,
chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, ngoài việc
khắc phục những tồn tại trên, Ban Dân tộc - Tôn giáo (hoặc Ban Dân tộc - Miền
núi hoặc Ban Dân tộc Định canh định cư...) phải là lực lượng chủ công phối hợp
với các sở, ban, ngành và chính quyền các cấp tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền
triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội
đồng Bộ trưởng, Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết 10,
ngày 18-1-2002 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng vùng Tây nguyên, Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
(họp từ 13 đến 21-1-2003) về công tác dân tộc, cùng với các chương trình, mục
tiêu của tỉnh đề ra. Đồng thời phát hiện và giải quyết kịp thời, dứt điểm những
vấn đề xảy ra trong vùng đồng bào dân tộc, không nên để kéo dài bất lợi.
ở đây, chúng ta cần nhận thức rõ để tránh
tư tưởng hữu khuynh rằng, thực hiện chính sách dân tộc không chỉ đơn thuần lo
về kinh tế mà còn quan tâm giải quyết, đáp ứng nhu cầu văn hoá, tinh thần của
người dân; cũng cần hiểu rằng xã hội đồng bào dân tộc thiểu số Tây nguyên
truyền thống trước kia có Đảng lãnh đạo đang ở trong thời kỳ cuối xã hội công
xã nguyên thuỷ, đang manh nha hình thành giai cấp, đơn vị cơ bản và duy nhất đó
là làng. Sau đó bị đế quốc thực dân
xâm lược, trùm lên xã hội ấy một thể chế nhà nước mới, xa lạ với thiết chế
truyền thống. Do vậy, ý thức về quốc gia, đất nước ở họ còn mơ hồ, nếu có cũng
không mặn mà. Hơn nữa, đặc điểm đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu
số Tây nguyên vừa đa dạng phong phú, vừa đóng khung khép kín. Khi xã hội chuyển
mình đi lên, hoà nhập với thế giới thì những truyền thống trên bộc lộ những hạn
chế không phù hợp với tình hình mới, cùng với những hạn chế, thiếu sót chậm khắc phục của cán bộ, chính quyền cơ sở
đã bị kẻ xấu lợi dụng như việc gương lên ngọn cờ "bảo tồn bản sắc văn hoá
dân tộc", vấn đề dân chủ, nhân quyền... để kêu gọi thành lập "nhà
nước" riêng cho người dân tộc Tây nguyên, hoặc đuổi người kinh về đồng
bằng... đã ít nhiều tác động đến tâm lý người dân - Một khi tư tưởng không
trong sáng dễ dẫn đến những rối loạn trong hành vi, gây tác động xấu đến an
ninh trật tự.
Từ bao đời nay, đồng bào dân tộc Tây
nguyên đã quen với lối sống ung dung, tự tại, bình quân đồng đều, tư duy kinh
tế mới chưa phát triển, nếu có cũng chưa vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của làng đã
ăn sâu vào tiềm thức của mọi người. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi
nhẹ việc tuyên truyền, vận động nhân dân có ý thức tự chủ vươn lên làm giàu cho
bản thân, gia đình, nhưng trong hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn của đất nước và
Tây nguyên hiện nay cái nào cấp bách thì giải quyết trước để tạo cơ sở cho việc
thực hiện các mục tiêu tiếp theo. Theo tôi, vấn đề cấp bách đó là làm thế nào giải được bài toán lấy lại được
lòng tin của dân đối với cán bộ, đối với chính quyền ? Phải tìm và trả lời cho rõ câu hỏi người dân cần cái gì ? Thiết nghĩ, giải
đáp được vấn đề trên thì việc thực hiện mọi chủ trương, chính sách khác đối với
đồng bào dân tộc sẽ có hiệu quả ngay.
Cái cần làm hiện nay là chấn chỉnh lại tư
cách, tác phong của người cán bộ, đảng viên trong giai đoạn cách mạng mới, tăng
cường công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức đạo đức,
trách nhiệm trước dân để họ thực sự là tấm gương sáng cho người dân noi theo
học tập. Là người đồng bào dân tộc thiểu số, đã tin ai, theo ai là tin và theo
đến cùng, làm sao sự gắn bó đó trở lại như thời trước đây trong kháng chiến.
Điều này trên thực tế không khó - bởi lẽ chúng ta đã trãi qua và có rất nhiều
kinh nghiệm rồi, song cái khó là liệu mỗi cán bộ, đảng viên có thực hiện được
không ? Có dám thực hiện đúng nghĩa câu nói cùng
ăn, cùng ở, cùng làm với dân không ? Nếu làm được như thế thì tôi tin chắc
rằng công tác dân tộc ở Tây nguyên sẽ thực hiện thành công tốt đẹp.
2.
Thực hiện tốt chính sách đất đai trong vùng đồng bào dân tộc
Xưa kia, trước khi tiến hành công việc gì
liên quan đến đất, đến cuộc sống người dân thì họ đều làm lễ xin phép thần
linh. Đất đối với đồng bào dân tộc được họ xem như là "Mẹ", do vậy,
mỗi gia đình, thành viên trong cộng đồng phải có trách nhiệm, nghĩa vụ giữ gìn
và bảo vệ đất. ý thức về đất được người dân thể hiện rất rõ như một truyền
thống đạo lý, không bao giờ lạm dụng đất, chỉ sử dụng, khai thác, canh tác đất
vừa đủ để nuôi sống và bản thân và gia đình. Về sau, khi người kinh có mặt,
cùng với quy luật của cơ chế thị trường, và pháp luật cho phép, đất đai trở
thành hàng hoá mua bán qua lại.
Hiện nay, vấn đề đất đai Tây nguyên nói
chung đang là mối quan tâm của lãnh đạo các ngành, các cấp. Bởi đây là những
mâu thuẫn luôn xảy ra trong đời thường, dễ bị lợi dụng kích động vì chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, dễ làm nảy sinh xung đột giữa các dân tộc mà điều này
đã từng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới.
Vấn đề đặt ra là không phải Tây nguyên
thiếu đất sản xuất cho đồng bào dân tộc mà là cơ cấu, phân bố quỹ đất chưa tốt,
chưa phù hợp. Do vậy, cần có sự điều chỉnh về quy hoạch các khu vực đất. Đối
với những vùng quy hoạch trồng rừng nên giao cho người địa phương quản lý; xác
định lại khu vực định canh định cư, tổ chức giao đất khoán rừng cho dân hoặc có
chính sách ưu tiên, tương trợ, giúp đỡ các dân tộc còn khó khăn, tạo điều kiện
cho họ có điều kiện phát triển.
Điều cần làm trước mắt hiện nay là thực
hiện tốt Quyết định số 132 của Thủ tướng về cấp đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số. Theo chúng tôi được biết, vấn đề này đang được các tỉnh
Tây nguyên triển khai thực hiện, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn
chậm. Mục tiêu đặt ra cho các tỉnh Tây nguyên là đến năm 2005 phải hoàn thành,
song đến nay thời gian còn ít, nhưng tiến độ còn chậm. Do vậy, tập trung giải
quyết được nơi ăn, nơi ở cho đồng bào dân tộc ổn định thì việc tác động của
người dân đến môi sinh, môi trường sẽ hạn chế.
3.
Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Có chiến lược đào tạo cán bộ nguồn
là người dân tộc trên tất cả lĩnh vực
Nói đến vấn đề dân tộc là nói đến vấn đề văn hoá và cán bộ(1). Cho nên, Tỉnh uỷ, Uỷ
ban nhân dân các tỉnh cần chỉ đạo các ngành chuyên môn điều tra, khảo sát, sưu
tầm các vốn quý về văn hoá trong mỗi dân tộc để xem xét, chọn lọc cái gì cần
giữ, cái gì cần bỏ (không phải cái gì trong truyền thống đều tốt). Bởi vì, lúc
này mọi sự ứng xử thiếu khôn ngoan và khoa học của chúng ta ở lĩnh vực này sẽ
tạo nên những biến động xã hội không cần thiết. Bởi vì, đụng đến vấn đề văn hoá
là đụng đến cả một tập tục, truyền thống của từng người dân, từng cộng đồng, nó
như một rào cản vô hình cho việc thực hiện các chính sách về kinh tế, văn hoá,
xã hội. Thế nhưng, bài toán thực tế làm đau đầu các nhà lãnh đạo, quản lý đang
phải đối diện trong lĩnh vực bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá của đồng bào dân
tộc là làm những công việc cụ thể gì thì câu trả lời không đơn giản. Cán bộ cần
trao đổi, thảo luận, bàn bạc thẳng thắng với dân là cần giữ lại những gì, bỏ
những gì, thông qua đó có chính sách hỗ trợ để người dân tự thực hiện có sự
hướng dẫn, có vấn của cán bộ chuyên môn, chứ không nên áp đặt từ trên xuống
theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Đồng thời cũng cần nghĩ đến rằng khi bỏ đi một
vấn đề gì - theo chúng ta nghĩ đó là lỗi thời, lạc hậu, thì cũng nên biết rằng
điều đó sẽ tạo nên sự mất thăng bằng trong đời sống tinh thần của người dân. Do
vậy, giải pháp tiếp theo là cần có hình thức sinh hoạt, tập hợp khác thay thế,
sao cho phù hợp với tiến bộ hơn thì mọi có hiệu quả tốt.
Mặt khác, cũng nên hiểu rằng: khâu then
chốt để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng giai đoạn hiện nay là xây dựng cho
được đội ngũ cán bộ người dân tộc trong vùng
dân tộc. Để có được đội ngũ này thì hệ thống các trường phổ thông trung học nội
trú tại các huyện, thị phải được nâng cấp,
đầu tư để cho các học sinh người dân tộc vào học. Đề nghị ngành giáo dục
phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh uỷ và Chính quyền các tỉnh tham mưu cho Tỉnh uỷ,
Uỷ ban nhân dân có hướng đào tạo những học sinh đang học tại các nội trú vào
những ngành nghề chuyên môn mà tỉnh đang cần, đang thiếu hoặc theo cơ cấu sau:
Cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và cán bộ chuyên
môn để hướng các em theo học. Đi đôi với giải pháp "đầu vào" thì cần
thực hiện tốt giải pháp "đầu ra", tránh trường hợp Nhà nước cho đi
học về nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng chuyên môn. Ngoài ra, cũng
cần có chính sách ưu tiên để thu hút cán bộ từ nơi khác đến vùng xâu, vùng xa,
vùng biên giới công tác nhằm tạo được sức bậc làm chuyển biến bộ mặt miền núi.
4.
Phát triển kinh tế, xã hội là điều kiện, nền tảng để thực hiện tốt chính sách
dân tộc
Nhân tố quan trọng để quần chúng tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ chính quyền không gì hơn ngoài việc chăm
lo cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được tạo điều kiện học tập có tri thức
bước vào ngưỡng cửa của thời đại mới. Điều cần kíp hiện nay là thực hiện tốt
chương trình định canh định cư kinh tế mới, xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt
công tác chăm sóc sức khỏe và giáo dục
cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; biến các chủ trương, quan
điểm của Đảng thành những đề án phát triển kinh tế thật cụ thể, có tính thực
tiễn cao, phù hợp với tâm lý dân tộc để họ chấp nhận, tránh tình trạng dàn trải
chung chung. Cần tính toán kỹ khi quyết định đầu tư đến địa phương nào, đầu tư
về lĩnh vực gì có thể đem lại hiệu quả; khi tổ chức thực hiện, cần có sự chỉ
đạo xuyên suốt, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, không để rơi rớt vốn vào tay
một số cán bộ biến chất, tránh trường hợp “đầu voi đuôi chuột” hoặc làm giữa
chừng, hậu quả này vừa gây thiệt hại về kinh tế vừa làm giảm lòng tin của quần
chúng với chính quyền.
6.
Chống tái mù chữ trong vùng đồng bào dân tộc, tiếp tục phát triển giáo dục,
nâng cao dân trí cho người dân
Trong thời gian qua, Chính phủ, Bộ Giáo
dục-Đào tạo và các tỉnh Tây nguyên đã có nhiều chính sách ưu tiên trong lĩnh
vực giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số, như việc tạo điều kiện cho con
em đồng bào dân tộc theo học các lớp cử tuyển, cấp phát sách vở và đồ dùng học
tập..., kèm theo đó là xây dựng cơ sở vật chất trường lớp ổn định khang trang
đến tận thôn, bản, làng, có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút giáo viên
đến vùng sâu, vùng xa giảng dạy. Chúng tôi rất đồng tình hoan nghênh, ủng hộ và
hy vọng chủ trương trên sớm đạt hiệu quả cao.
Song thực tế hiện nay là tình trạng tái
mù chữ ở đồng bào dân tộc đang có biểu hiện phát triển. Đây là vấn đề bức xúc
đối với lãnh đạo các tỉnh Tây nguyên, nếu giải quyết tốt được vấn nạn này thì
đầu ra cho mọi vấn đề khác sẽ thuận lợi. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ
này, cần lưu ý:
- Đối với đồng bào các dân tộc Tây
nguyên, vai trò của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng rất lớn. Tàn dư của chế
độ mẫu hệ đến nay vẫn chưa chấm dứt. Nếu để một bộ phận lớn số người này đứng
ngoài cuộc, thờ ơ hoặc không tham gia cùng với chính quyền thực hiện "công
nghiệp hoá, hiện đại hoá" thì kết quả sẽ không cao như mong đợi.
- Chúng ta đang tập trung sức triển khai
thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong
vùng đồng bào dân tộc, rất cần những con người có tri thức để làm động lực thúc
đẩy quá trình đó phát triển nhanh hơn.
- Chỉ có biết chữ mới đưa con người tiếp
cận được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, có điều
kiện phát triển, hoà nhập cùng thế giới. Một xã hội hiện đại, văn minh sẽ không
có chỗ đứng cho người mù chữ.
Đối tượng chính cần hướng đến là những
người lớn tuổi, có uy tín trong cộng đồng, là lực lao động chính trong gia
đình. Vì họ đang là đầu tàu, là những hoa tiêu dẫn dắt thế hệ trẻ trên con
đường đi tới xã hội văn minh. Song biện pháp thực hiện cần phải kiên quyết theo
các công đoạn sau:
- Thứ nhất, người học xong lớp xoá mù thì
ngành giáo dục phải có kế hoạch cho họ tiếp tục theo các lớp - có thể tạm gọi
là trên xoá mù. Lớp học này nên chia
thành nhiều cấp, theo nhóm tuổi, mục tiêu phấn đấu là người học xong xoá mù
không những đọc được chữ thành thạo, mà có thể làm được các phép tính đơn giản.
Bởi vì, theo logíc thực tế, việc học chữ không được ôn luyện thường xuyên về
sau sẽ bị mai một.
- Thứ hai, người tham gia giảng dạy,
ngoài phẩm chất đạo đức, chuyên môn, cần có kiến thức am hiểu về phong tục, tập
quán từng dân tộc. Giáo viên được phân công đến xoá mù ở địa bàn nào thì chịu
trách nhiệm trực tiếp về chất lượng giảng dạy ở địa bàn đó với cơ quan chủ quản
(xem đây là một trong những cơ sở để đề bạc, khen thưởng hay kỷ luật). ở đây,
cần phân định rõ trách nhiệm của ngành tổ chức, quản lý, người dạy, người học,
để sau này có gì xảy ra sẽ có địa chỉ xử lý.
- Thứ ba, những địa phương ở vùng biên
giới, cần có sự tham gia tích cực của lực lượng bộ đội biên phòng. Đối với
những cán bộ được tỉnh, huyện tăng cường đến các xã công tác, ngoài việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị được giao, còn có trách nhiệm tuyên truyền, vận động
người dân tham gia học tập xoá mù.
Đi đôi với các biện pháp trên cần có chế
độ đãi ngộ thích đáng cho giáo viên đứng lớp và nguồn kinh phí nhất định cho
công tác tổ chức thực hiện. Chúng ta cũng rất thông cảm và chia sẽ với những
khó khăn chung của ngành giáo dục hiện nay - nhất là vấn đề kinh phí, giáo
viên, nhưng cũng không nên viện cớ vì lý do này mà để tình trạng tái mù chữ
trong vùng đồng bào dân tộc gia tăng, phát triển hoặc biện minh cho yếu kém của
việc dạy và học như hiện nay là không thuyết phục.
- Thứ tư, về lâu dài, các ngành chức năng
chủ động có chính sách đào tạo nguồn giáo
viên tại chỗ thay thế dần cho số giáo viên từ nơi khác đến; phải thực hiện xã hội hoá giáo dục. Đây là trách nhiệm
của toàn dân, trong đó vai trò của ngành quản lý (các Sở Giáo dục - Đào tạo)
phải tích cực tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền đề xuất các giải pháp thực hiện
cụ thể. Cần suy nghĩ nên làm cách nào để huy động được nguồn lực trong xã hội
tham gia vào việc "trồng người", trách nhiệm mỗi gia đình, mỗi ngành,
mỗi cấp, mỗi địa phương.... phải làm những công việc cụ thể gì (hoặc làm bao
nhiêu). Do vậy, sau mỗi khoá học, Ban Giám hiệu nhà trường căn cứ vào tình hình
thực tế ở cơ sở dự kiến trong năm tới khoảng bao nhiêu học sinh đi học, thiếu
bao nhiêu giáo viên, trường, lớp, đồ dùng dạy học - trong đó, Nhà nước lo được
bao nhiêu, số còn lại chúng ta có thể kêu gọi lòng hảo tâm của các nhà từ
thiện, hoặc vận động các doanh nghiệp đứng chân địa bàn ủng hộ, giúp đỡ. Cuối
cùng, nếu chưa đủ sẽ đem ra dân bàn bạc, thảo luận để mọi người cùng quyết định
? Thiết nghĩ, một khi tư tưởng của người dân đã thông thì sẽ không có việc gì
khó, vấn đề là chúng ta có tổ chức được không, cơ quan, đoàn thể nào đứng ra
làm việc này ? Đây là vấn đề không mới, nhưng rất cần quan tâm thực hiện.
Tóm lại, trong tình hình mới ở Tây nguyên
hiện nay, chỉ giải quyết được vấn đề dân tộc một cách đúng đắn, khoa học thì
mới có thể tạo được sức mạnh nội lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Dù công tác dân tộc còn những khó khăn, hạn chế nhất định, song những thành tựu
đạt được là rất lớn, rất đáng tự hào, là cơ sở để Đảng bộ, chính quyền, quân và
dân các dân tộc Tây nguyên vạch ra hướng đi mới, góp phần thực hiện tốt hơn nữa
chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.
-----------
(1) Liên hệ vấn đề này từ thực tế thấy rằng, cả một giai đoạn dài
từ sau giải phóng đến những năm 1980 của thế kỷ 20, dù đời sống người dân còn
lắm khó khăn, nhưng tư tưởng người dân ổn định, nhưng khi kinh tế thị trường
phát triển, đời sống đã khá lên thì kèm theo đó là những vấn đề phức tạp.
(1) Ý của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét