7/11/13

CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG PHỨC TẠP NẢY SINH TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY THỰC TRẠNG - NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT



THAM LUẬN CHO VIỆN DÂN TỘC HỌC

Thạc sĩ  Hà Xuân Nguyên


Theo số liệu thống kê, Tây nguyên hiện có 21 dân tộc chính (ta hay gọi là người Thượng) gồm: Ba na, Gia rai, Ê đê, Giẻ - Triêng, Xơ đăng, Mạ, K'ho, Raglai, Mơ nông, Brâu, Rơ mâm... với tổng số dân hơn 1.500.000 người (chiếm khoảng 14 % so với số dân tộc cả nước và 1/3 dân số Tây nguyên). Ngoài ra, còn có người Kinh và số lượng đáng kể người dân tộc thiểu số từ phía Bắc di cư vào Nam trong những thập niên gần đây.

Đặc điểm chung nhất của cộng đồng các dân tộc Tây nguyên là cư trú chủ yếu ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; hiểu biết về xã hội còn hạn chế; trình độ sản xuất kinh tế còn thấp và không đều; có truyền thống đoàn kết, gắn bó, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau và đang có quan hệ về mặt dân tộc, tôn giáo với cư dân ở các quốc gia trong khu vực và với một bộ phận đồng tộc đã chuyển cư ra nước ngoài sinh sống (chủ yếu ở Lào và Campuchia).
Dưới tác động của cơ chế thị trường và tình hình chính trị quốc tế, trong nước và khu vực, Tây nguyên hiện đang có sự phân hoá, biến đổi mạnh mẽ. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi xin nêu lên một số vấn đề cần quan tâm sau:

1. Kinh tế thị trường phát triển đã tạo ra sự bất bình đẳng xã hội giữa người kinh và người thượng, giữa vùng đi lại thuận lợi với vùng khó khăn
Thế kỷ 21, Việt Nam đang bước vào ngưỡng cửa của nền kinh tế tri thức, tự động hoá, tin học hoá, nhưng Tây nguyên hiện nay, dù có nhiều tiến bộ hơn trước, vẫn còn bảo lưu nhiều tàn dư của chế độ công xã nông thôn với phương thức canh tác sản xuất lạc hậu, tình trạng du canh du cư, nạn chặt cây đốt rừng làm rẫy vẫn tiếp tục tái diễn, ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường và cuộc sống người dân. Song, nhờ biết đi tắt đón đầu, tiếp thu nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật, cùng với sự quan tâm đầu tư của Trung ương, sự nổ lực ở địa phương, ý chí tự lực cánh sinh của mỗi người dân, bước đầu tạo ra được một hình ảnh Tây nguyên đầy sức sống, tiềm năng và hứa hẹn. Thành công đó là nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam qua bao sóng gió, thác ghềnh, trước những biến động chính trị lớn của thời đại tác động. Nhớ lại, trước đây, cả một giai đoạn dài từ 1975 - 1986, cái ăn, cái mặc cho đồng bào dân tộc là nổi lo thường trực của các ngành, các cấp. Tư tưởng bình quân chủ nghĩa, cào bằng thành tích, phân phối trong kinh doanh phần nào hạn chế vai trò tự chủ, sáng tạo của mỗi cá nhân, tạo ra tâm lý trông chờ ỷ lại là sức ỳ lớn cản trở sự phát triển xã hội. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần VI mở ra một hướng đi mới, chúng ta chấp nhận nền kinh tế thị trường đã kích thích sự cạnh tranh trong sản xuất, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà doanh nghiệp góp sức xây dựng quê hương.
Thế nhưng, mặt trái của kinh tế thị trường đã làm đảo lộn trật tự xã hội, đâu đó ở một số nơi quan hệ tình cảm giữa người với người bị thui chột, thậm chí vì đồng tiền, lợi nhuận, có không ít kẻ bất chấp luật pháp, đạo lý làm những việc gây hậu quả nghiêm trọng. Hiện nay, rừng ở Tây nguyên đang tiếp tục bị tàn phá, người dân thiếu đất sản xuất, các thế lực thù địch đang ráo riết lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động gây chĩa rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong khi đó, đồng bào ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới do điều kiện đi lại khó khăn, nhiều hộ gia đình vẫn còn thiếu cơm, thiếu thuốc chữa bệnh, nhiều người còn chưa biết chữ, nhất là phụ nữ; nạn thất nghiệp chiếm tỷ lệ cao, từ 5,16 % năm 2000 tăng lên 5,55% năm 2001. Đây là những vấn đề nhạy cảm, là thách thức ghê gớm đối với sự nghiệp của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

2. Tôn giáo phát triển mạnh, hoạt động tôn giáo đã bị lợi dụng, làm cho tình hình an ninh chính trị phức tạp
Trên địa bàn Tây nguyên hiện có 4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài, với tổng số tín đồ gần 1.000.000 người, chiếm 40 % dân số toàn Tây nguyên, trong đó ảnh hưởng của Ki-tô giáo đối với đồng bào dân tộc rất lớn, còn Phật giáo và Cao đài chỉ ở người Kinh.
Do hoàn cách lịch sử để lại, trước những năm đổi mới, phần đông cán bộ cơ sở còn tư tưởng định kiến về tôn giáo, nhìn tôn giáo dưới nhãn quan chính trị, cho tôn giáo là địch, là Fulro, là phản động nên chưa thấy hết được những tác động, ảnh hưởng tích cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội. Giai đoạn này, thực tế có một số tín đồ khô nhạt đạo, bỏ đạo, số lượng người truyền đạo giảm. Căn cứ vào dấu hiệu này nhiều người lầm tưởng rằng tôn giáo đã suy yếu, đang bên bờ diệt vong, nhưng thật ra tôn giáo đang tìm cách thích nghi để tồn tại, đang đi vào chiều sâu tâm linh. Đến khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, đổi mới, việc đi lại giữa các vùng thuận lợi, tính tự do, dân chủ được phát huy, cùng với tác động của sự tăng trưởng kinh tế thì nhu cầu tâm linh ở tín đồ trỗi dậy. Từ năm 1986 đến nay, tỷ lệ người theo tôn giáo có dấu hiệu tăng đột biến.
Chúng tôi xin nêu một vài số liệu cụ thể: Tại Tây nguyên số người dân tộc theo Công giáo tăng từ 33.400 người/1975 đến 144.000 người/1996; riêng 3 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng phát triển mới ở 42 xã, trong đó có 13 xã vùng sâu, vùng biên giới. Đối với đạo Tin lành, mặc dù chưa được thừa nhận tư cách pháp nhân, nhưng số người theo đạo vẫn tăng từ 31.793 người/1975 lên đến 132.000 người/1996 và 243.158 người/2000, trong đó có 71 xã, phường (32 xã vùng sâu, vùng biên giới) thuộc 13 huyện thị là nơi đạo mới phát triển; số Mục sư, truyền đạo tuy có giảm nhưng số cốt cán trẻ mới đào tạo tăng gấp 3 - 4 lấn số cũ và hoạt động rất tích cực; số nhà thờ bị chính quyền đóng cửa khi truy quét Fulro là 117/124 cái(1); những tổ chức hội thánh trước đây bị giải tán nay đều phục hồi trở lại.
Ngoài ra, do tác động của một số chức sắc và những đối tượng truyền đạo cực đoan bên ngoài không ngừng lợi dụng các diễn đàn quốc tế lên tiếng tố cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền... để gia tăng việc tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng chống lại chính quyền nhằm tạo sự rối loạn từ bên trong, gây mất ổn định an ninh chính trị với các hoạt động thâm nhập biên giới, truyền đạo trái phép diễn ra dưới nhiều hình thức như: dùng băng cát xét, tài liệu viết tay phô tô, rỉ tai, hoặc thông qua các hoạt động từ thiện để truyền đạo mở rộng phạm vi ảnh hưởng; có nơi giáo hội còn cho “chủ trương” phát triển tín đồ vào ngay con em, vợ con của cán bộ đảng viên hoặc dùng áp lực cộng đồng cô lập ép người vào đạo, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa  người theo đạo này với người theo đạo kia...
Người dân sau khi vào đạo sẽ tự nguyện bỏ đi các lễ hội truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp, không thờ cúng tổ tiên, không cùng Yàng (thần); hiện tượng “chảy máu cồng chiêng” diễn ra nhiều nơi, có nguy cơ làm băng hoại đến truyền thống văn hóa dân tộc.
Trong tổ chức giáo hội cấp cơ sở (Ban Chấp sự ở đạo Tin lành, Ban hành giáo ở đạo Công giáo) họ đều có một “hệ thống chính trị” tồn tại như một chính quyền, gồm: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội người cao tuổi, các tổ chức thanh thiếu nhi... với nội dung sinh hoạt vừa đời vừa tôn giáo, thu hút nhiều người tham gia. Ngoài ra, tình trạng tín đồ đọc kinh tại nhà riêng, nhà rông diễn ra công khai, phổ biến - dù biết đó là trái pháp luật.
Sau vụ bạo loạn chính trị tháng 2/2001, các ngành tập trung giải quyết, bóc gỡ số cầm đầu, nhưng tình hình vẫn chưa thật sự ổn định. Các thế lực thù địch vẫn đang ra sức móc nối, phát triển đạo trái phép; ráo riết đả kích Đảng, Nhà nước, kích động lôi kéo người sang Campuchia, tạo cớ để Mỹ thông qua Cao ủy Liên hiệp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) can thiệp vào công việc nội bộ nước ta để có điều kiện tuyển chọn, huấn luyện người Tây nguyên đưa trở về Tây nguyên hoạt động. Thực trạng này đã gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đang là mối quan tâm của chính quyền các cấp.
Tiếp đến, những ngày đầu tháng 4-2004, kịch bản được các thế lực bên ngoài đạo diễn tiếp tục nổ ra tại Tây nguyên. Diễn biến sự việc diễn ra thế nào chúng tôi không đề cập cụ thể, đã có nhiều phương tiện đưa tin. Nhưng hậu quả để lại cho Tây nguyên nhiều bài toán hóc búa cần tìm lời giải đáp.
Ngoài ra, Tây nguyên hiện nay có biên giới với Lào và Campuchia dài 591 km, đi qua 24 xã thuộc 11 huyện của các tỉnh trong khu vực (trong đó có 150 km giáp tỉnh Atôpơ của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Campuchia); khu vực này gồm 21 dân tộc anh em sinh sống, có 16.952 hộ với 83.974 khẩu, trong  đó có 57.376 khẩu  là đồng  bào  các dân  tộc(1) (chiếm 68 %). Vì thế, đây là địa bàn có vị trí hết sức quan trọng  về an ninh - quốc phòng. Nhiều nhà phân tích, hoạch định chiến lược đã khẳng định: Nắm được Tây nguyên sẽ khống chế được toàn bộ vùng duyên hải miền trung, cũng như cửa ngõ Sài Gòn, vùng Đông Nam bộ, khống chế khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia. Hơn nữa, đây là nơi giáp với “hậu cứ Thái Lan” - sân sau của Mỹ, mảnh đất này từng xảy ra nhiều cuộc giao tranh giữa các thế lực để xác lập chủ quyền (chẳng hạn như: Hoạt động của Hoàng Cơ Minh vượt biên đem quân quậy phá biên giới rồi đến những toán biệt kích thâm nhập sau này, hoặc gần đây lực lượng Fulro câu kết với các “chiến sĩ” của Ksor Kok tiến hành “cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc” (!) để thành lập một quốc gia tự trị mới) càng làm cho tình hình chính trị nơi đây thật sự nóng lên.
Bài học kinh nghiệm được đúc kết lại trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước của ông cha ta từ mấy nghìn năm nay để lại cho thấy, vấn đề dân tộc và tôn giáo là vấn đề của mọi vấn đề, của mọi thời đại, của mọi chế độ. Nó phức tạp bởi vì liên quan đến chủ quyền an ninh quốc gia, quyền tự quyết, tự chủ của một dân tộc, một đất nước, liên quan đến số phận của hàng triệu triệu con người. Nhận thức được vấn đề này để ứng xử với những biến đổi được nguỵ danh dưới nhiều chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" và nay đang được ngả giá mặc cả ở Tây nguyên.
Mặt khác, do sự kém hiểu biết ở một số cán bộ địa phương, chưa nhận thức đúng hết ý nghĩa của văn hoá nên thường nhìn các phong tục, tập quán lối sống của đồng bào dân tộc cho đó là mê tín, dị đoan, lạc hậu, lỗi thời.... cần phải xoá bỏ. Chúng ta thường nói phải chăm lo đến tình đoàn kết kinh thượng nhưng lại thiếu trách nhiệm, chưa có biện pháp hữu hiệu, còn bộc lộ khá rõ nét tư tưởng dân tộc lớn ban ơn, áp đặt, nên cái gì không như kinh thì lạc hậu. Nhiều người thường nghĩ rằng trong lĩnh vực kinh tế hiện đại hóa tức là tây hóa, trong lĩnh vực xã hội hiện đại hóa tức là kinh hóa, lấy suy nghĩ của người kinh áp đặt cho đồng bào dân tộc nên dẫn tới hiện tượng cưỡng bức văn hóa. Cơ sở này giúp chúng ta giải thích tại sao đồng bào theo đạo ngày một đông, tại sao đồng bào thường có tư tưởng chống lại sự “hiện đại hóa” tiến bộ của ta ? Trong khi chúng ta chưa đưa được văn hóa mới của Đảng vào cuộc sống thì người dân tìm thấy ở tôn giáo có chức năng bù đắp những thiếu hụt trên nên tin theo.
Một vấn đề khác nữa đặt ra cho chính quyền các cấp phải thận trọng, xem xét đó là đất đai. Bởi đây là những mâu thuẫn luôn xảy ra trong đời thường, dễ bị lợi dụng kích động vì chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, dễ làm nảy sinh xung đột giữa các dân tộc mà điều này đã từng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Dĩ  nhiên, chúng ta không nên nhìn một chiều, cường điệu hóa sự việc, nặng về tính tiêu cực mà phải xem xét trong một tổng thể chung để đánh giá có sự xác đáng hơn, tức là ngoài nguyên nhân chủ quan còn các các yếu tố khách quan tác động, chi phối bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường.

3. Việc thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước hiệu quả không cao
Phải nói rằng trong thới gian qua Đảng, Nhà nước có nhiều chương trình, dự án toàn diện nhằm ưu tiên phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội cho cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, để rút ngắn khoảng cách chênh lệch hiện nay, tạo điều kiện cho người dân có điều kiện phát triển. Gần đây nhất Bộ Chính trị có Nghị quyết 10 về Tây nguyên, Chủ tịch nước có Quyết định 122 về đất đai, cùng với nhiều chương trình của Chính phủ đang được các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện. Mục tiêu đặt ra trong quá trình thực hiện các dự án trên là phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở Tây nguyên, Song thực tế đã qua thời gian thực hiện nhưng vẫn chưa tạo ra được sự chuyển biến mang tính đột phá để làm thay đổi cuộc sống người dân.




Tất cả những vấn đề phức tạp nảy sinh trên do tác động của nền kinh tế thị trường. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên có nhiều, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến nguyên nhân chính là có 2 vấn đề sau:
- Thứ nhất, chúng ta chưa nhận thức sâu sắc, chưa lường hết trước được tác động, ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với xã hội, kể cả các yếu tố tích cực và tiêu cực, nên chưa có được những giải pháp ngăn chặn ở tầm chiến lược. Do vậy, khi có vấn đề phát sinh thì thường dùng biện pháp hành chính khống chế, chỉ đạo, vi phạm quy luật, đối chọi quy luật nên tạo ra những nhân tố tác hại đến kết quả thực hiện.
- Thứ hai, lợi dụng sự tự do kinh tế, giao lưu giữa các vùng thuận tiện, các thế lực thù địch lợi dụng để thâm nhập, hoạt động, chỉ đạo, gây khó khăn cho ta trong công tác xử lý.
Do vậy, để hạn chế những tác động trên, đưa Tây nguyên phát triển đi lên, chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

1. Phải nắm được quy luật vận động, phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường để điều tiết tránh những tác động xấu, ổn định sản xuất cho người dân, tạo ra được sự ổn định về an ninh, chính trị để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở Tây nguyên
Dù cuộc sống người dân Tây nguyên lúc này còn nhiều khó khăn, nhưng nơi đây còn bảo lưu nhiều tàng tích của chế độ công xã nông thôn, là bảo tàng sống, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Do vậy, những ứng xử  thiếu khôn ngoan, khoa học, hấp tấp vội vàng áp đặt cho Tây nguyên tất sẽ có những tác động xấu về mặt xã hội. Muốn Tây nguyên phát triển toàn diện, trước hết cần có sự góp công của các nhà khoa học xã hội và nhân văn định hướng, đi tiên phong.
Vấn đề đặt ra ở đây là Đảng, Nhà nước cần có sự ưu tiên đặc biệt đối với người dân tộc, phải có những quy định cụ thể chỉ có người dân tộc mới được làm, còn người kinh thì không, chẳng hạn như: mua bán đất đai trong vùng dân tộc, buôn bán, trao đổi hàng hoá và khai thác các mặt hàng quý hiếm .... Đồng thời cần có chính sách hỗ trợ vốn để những người dân có sức sản xuất, kinh doanh.
Nhân tố quan trọng để quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ chế độ không gì hơn ngoài việc chăm lo cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được tạo điều kiện học tập có tri thức bước vào ngưỡng cửa của thời đại mới. Điều cần kíp hiện nay là chính quyền các cấp thực hiện tốt chương trình định canh định cư kinh tế mới, xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và  giáo dục cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; biến các chủ trương, quan điểm của Đảng thành những đề án phát triển kinh tế thật cụ thể, có tính thực tiễn cao, phù hợp với tâm lý dân tộc để họ chấp nhận, tránh tình trạng dàn trải chung chung như vừa qua. Chính quyền cần tính toán kỹ khi quyết định đầu tư đến địa phương nào, đầu tư về lĩnh vực gì có thể đem lại hiệu quả; khi tổ chức thực hiện, cần có sự chỉ đạo xuyên suốt, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, không để rơi rớt vốn vào tay một số cán bộ biến chất, tránh trường hợp “đầu voi đuôi chuột” hoặc làm giữa chừng, hậu quả này vừa gây thiệt hại về kinh tế vừa làm giảm lòng tin của quần chúng đối chính quyền.

2. Chính quyền các cấp phải thực hiện cho đúng, cho tốt chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Điều này nói thì rất dễ, song tiếp cận vào thực tiễn không mấy ai thành công. Bởi hai lĩnh vực này tự thân nó đã rắc rối, phức tạp rồi nên nhận thức mỗi người, mỗi ngành, mỗi cấp khác nhau. Cái khó của người công tác tôn giáo, dân tộc không phải do Nhà nước chưa có luật hay pháp lệnh hoặc các văn bản hướng dẫn cụ thể, mà chính là ở sự không thống nhất về nhận thức ở chính cán bộ chúng ta. Muốn khắc phục được tình trạng này, đòi hỏi cán bộ mỗi cấp, mỗi ngành phải thấu rõ quan điểm: Giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo, phải xuất phát từ chính sách đại đoàn kết của Đảng ta, mà điều kiện cơ bản để thực hiện thành công là tạo cho được nền tảng kinh tế xã hội cho sự ổn định về tư tưởng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong vấn đề dân tộc, không nên và cũng không thể đặt vấn đề hy sinh lợi ích của dân tộc này cho lợi ích của dân tộc kia, hy sinh dân tộc thiểu số cho dân tộc đa số, mà làm sao cho  các dân tộc đều chung hưởng hạnh phúc, hoà bình.

3. Thực hiện tốt chính sách đất đai
Như chúng tôi đã phân tích ở trên, vấn đề đất đai ở Tây nguyên đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều ngành, nhiều cấp, tôi đề nghị các cấp Trung ương, địa phương cần có sự điều chỉnh về việc quy hoạch các khu vực đất; cân đối lại hoặc có chính sách ưu tiên đối với người dân tộc, tạo điều kiện cho họ có đất canh tác. Đối với những vùng đất quy hoạch trồng rừng nên giao cho người địa phương quản lý; đồng thời xác định lại khu vực định canh định cư, tổ chức giao đất khoán rừng cho dân. Chúng ta chủ trương khuyến khích tạo điều kiện cho mọi người dân tìm cách làm giàu, song không phải ai có tiền mua bao nhiêu đất được và trong sự nghiệp xây dựng đất nước, sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc là điều tất nhiên không tránh khỏi, vì vậy, Nhà nước cần có chính sách tương trợ, giúp đỡ các dân tộc còn khó khăn nhiều hơn nữa.

4. Làm tốt công tác dân vận đối với quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới; phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân đội đứng chân trên địa bàn để làm tốt nhiệm vụ  bảo vệ an ninh biên giới quốc gia.
Thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc phòng an ninh đối với việc bảo vệ biên giới Tây nguyên là rất quan trọng, nhưng để thành công là phải huy động được sức dân, tạo lòng tin ở dân, phải xây dựng được thế trận lòng dân vững chắc. Đây là nhiệm vụ không chỉ đặt ra trước mắt mà còn mang tính chiến lược cơ bản lâu dài. Do đặc thù của khu vực Tây nguyên, nên những vùng xung yếu đặc biệt khó khăn thì các cấp ủy Đảng, chính quyền chủ động phối hợp với lực lượng quân đội trực tiếp tham gia tổ chức sản xuất, gắn phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, khơi dậy nguồn lực tổng hợp trong nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

5. Củng cố hệ thống chính trị cơ sở đủ mạnh
Củng cố tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị, xã hội cấp xã ở vùng đồng bào dân tộc là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách của chúng ta hiện nay; đặc biệt là cần coi trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số một cách đồng bộ, toàn diện ở các cấp và các lĩnh vực; đồng thời có chính sách ưu tiên để thu hút cán bộ từ nơi khác đến miền núi công tác nhằm tạo được sức bậc làm chuyển biến bộ mặt miền núi Tây nguyên, giúp họ có đủ hành trang cần thiết để bước vào hội nhập, giao lưu với thế giới.

Tóm lại, là địa bàn chiếm vị trí quan trọng trong chiến lực phòng thủ đất nước, Tây nguyên hiện nay đang chứa nhiều yếu tố phức tạp, nhạy cảm nhất của xã hội, đó là các vấn đề: dân tộc, tôn giáo, biên giới, Fulro, Đề ga và đói nghèo. Các mối quan này dễ làm cho các địa phương lúng túng, thậm chí có nơi vấp phải sai lầm trong cách xử lý, tạo điều kiện cho kẻ địch lợi dụng để giương lên con bài dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo....nhằm tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ nước ta với một kịch bản được Mỹ và phương Tây dàn dựng công phu diễn ra như  ở Cô-xô-vô, I Rắc... Đây là vấn đề mang tính thời sự, liên quan đến an ninh chính trị quốc gia, rất mong được các đồng chí lãnh đạo, các ngành, các cấp quan tâm.

                                                     --------





(1) Số liệu Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ.

(1) Tham khảo số liệu trong báo cáo của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét