6/11/13

Tôi khẳng định Kinh Dương vương là thủy tổ người Việt Nam


Hà Văn Thùy
Thứ tư ngày 11 tháng 9 năm 2013 5:53 AM

Lời người viết: Dăm năm trước, để phản bác ý tưởng “Từ những dấu vết ngữ pháp Việt trong cổ thư Trung Hoa có thể nhận ra tiếng Việt là cội nguồn của ngôn ngữ Hán” của GS. Lê Mạnh Thát, ông Trần Trọng Dương có bài “Lâu đài cất bằng hơi nước.” Là người có sử dụng tư liệu của học giả họ Lê cho bài viết “Tiếng Việt chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán,” tôi có bài “Lâu đài trên mây hay dự cảm sáng suốt” nói lại. Ông Trần Trọng Dương đáp lại bằng bài “Một lần và lần cuối thưa chuyện với ông Hà Văn Thùy,”  Khi biết tác giả là Thạc sĩ Hán Nôm rất trẻ, tôi nhận ra mình dại.

Mấy năm nay, với nguồn tư liệu dồi dào, tôi không chỉ khẳng định “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa” mà còn phát hiện “Giáp cốt văn là sản phẩm của người Việt.” Đọc một số bài của Tiến sĩ Trần Trọng Dương mới đây, tôi mừng nhận ra một khuôn mặt mới, sắc sảo.
Tuy nhiên, với bài viết đang chấn động dân cư mạng và gây hoang mang cho bạn đọc này, tôi buộc phải lên tiếng, dù có dại thêm một lần.

Trong bài viết “Kinh Dương Vương – ngài lài ai?”* đăng trên tạp chí Tia sáng, Tiến sĩ Trần Trọng Dương cho rằng:  “(Kinh Dương Vương) chỉ là ảo ảnh diễn hóa từ nhân vật Kinh Xuyên trong tiểu thuyết truyền kỳ của Trung Quốc.” Bài viết dẫn nhiều tài liệu tham khảo với chứng lý chặt chẽ, khiến cho những học giả Hán Nôm dù với lòng tự hào dân tộc tràn ứ cũng khó lòng phản bác.  Chắc chắn không ít người sẽ tin theo tác giả!

Tuy nhiên, chỉ trong câu ngắn dẫn trên, sự nông cạn hàm hồ của vị tiến sĩ đã bộc lộ. Thứ nhất, tuy xuất hiện lần đầu trong Đường kỷ nhưng câu chuyện về Liễu Nghị không phải là sáng tác của đời Đường mà là một truyền thuyết dân gian. Truyền thuyết, như ta biết, là “ánh xạ của những sự kiện có ý nghĩa lớn của quá khứ, được ghi lại trong ký ức cộng đồng rồi lưu truyền trong dân gian.” Cố nhiên, trong khi được kể lại qua truyền miệng, truyền thuyết sẽ có những dị bản với sai khác ít nhiều về tên nhân vật, về địa danh hoặc một số tình tiết… Tới lúc nào đó,  người ta sử dụng nó vào những mục đích khác nhau: nhà văn chế tác thành tiểu thuyết truyền kỳ, người viết sử liên kết với những chi tiết khác để phục dựng sự kiện xảy ra trong quá khứ. 
Tại sao Tiến sĩ không nói “Ngô Sĩ Liên lấy từ truyền thuyết dân gian” mà lại nói lấy từ tiểu thuyết truyền kỳ của Trung Quốc? Giữa truyền thuyết dân gian và tiểu thuyết truyền kỳ khác nhau một trời một vực. Sự dẫn sai nguồn, lập lờ này làm mất tính chính danh của sử gia, làm giảm lòng tin vào sử sách. 
Càng hàm hồ hơn khi tác giả cho truyện Kinh Dương Vương vào cùng một bị “tiểu thuyết truyền kỳ Trung Quốc!” Phải chăng truyền thuyết đó của Trung Quốc?  Sai lầm chết người! Có lẽ nào tác giả không biết rằng vùng Ngũ Lĩnh vốn là Xích Quỷ, Văn Lang của người Việt? Cho tới đời Tam Quốc, nơi này vẫn chưa là đất Hán. Có chuyện rằng, để đánh Lưu Bị, Tào Tháo nhờ Hứa Tịnh do thám tình hình nước Thục. Trong thư gửi Tào Tháo, Hứa Tịnh viết rằng: ông đã đi từ Hội Kế (Cối Kê - Hàn Châu ngày nay), qua Giao Châu, Đông Âu, Mân Việt, cả vạn dặm mà không thấy đất Hán.
(Từ Hội Kế nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa.) Như vậy, tuy thuộc Hán nhưng suốt vùng Giang Nam vẫn là đất Việt! Thập niên 1950, sau khi làm chủ Trung Hoa, nhà cầm quyền Trung Quốc phải bỏ nhiều công sức đồng hóa khối dân Việt ở đây vì họ vẫn theo phong tục và nói tiếng Việt. Chỉ tới sau năm 1958, tiếng phổ thông mới được dùng rộng rãi. Vậy thì dân cư Trung Quốc khu vực này, nói đúng ra, phải gọi là người Trung Quốc gốc Việt! Người hiểu thực trạng này sẽ không nói những truyền thuyết đó là tiểu thuyết truyền kỳ Trung Hoa! Ngay những tác giả đời Đường biên thành tiểu thuyết cũng chính là người Việt! 
 Sự lầm lẫn tai hại này khiến thế giới mạng hoang mang, thậm chí có vị tiến sĩ đã viết trên blog của mình: “còn mãi về sau thờ một ông vua giả có nguồn gốc Tàu!”

Cũng có sự thực là, truyền thuyết trên không tồn tại đơn độc mà có liên hệ với những sự kiện khác. Đó là châu Kinh, châu Dương trên lưu vực Dương Tử, hai địa danh Việt từ xa xưa. Ai dám chắc không có mối quan hệ nào giữa vùng đất Kinh, Dương với danh xưng Kinh Dương Vương? Các bậc vua chúa, công hầu thường lấy đất đặt tên hiệu. Đó còn là truyền thuyết về Thần Nông hơn 3000 năm TCN. Còn là câu ca Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nuớc trong Nguồn chảy ra… Điều này có nghĩa, câu chuyện về con gái Động Đình Quân không phải xuất hiện thời Đường hay Tần Hán mà xa hơn nữa, ở thời xa thẳm của tiền sử. Nhà tiểu thuyết không cần nhưng người làm sử phải biết kết nối những điều tưởng như rời rạc, riêng rẽ ấy ngõ hầu phục nguyên gương mặt đã khuất của lịch sử. Từ những dị bản truyền thuyết khác nhau, nhà tiểu thuyết dùng tên Kinh Xuyên. Trong khi, nhà sử học chọn tên Kinh Dương Vương. 

Bài viết cũng lộ ra chỗ yếu chết người, lộ ra “gót chân Achile” trong luận thuyết của Tiến sĩ Trần Trọng Dương. Là người biết đọc chữ Hán, ông Trần Trọng Dương đưa tất cả những tài liệu chữ Hán liên quan lên bàn nghị sự rồi cả quyết, những gì ở ngoài cổ thư Trung Hoa đều không có giá trị!
Xin thưa, không phải cổ thư Trung Hoa là tất cả lịch sử! Cổ thư, chỉ ghi chép sự kiện từ thời Tần Hán về sau. Vì vậy, dù đọc tới nát 24 bộ quốc sử (nhị thập tứ sử) thì người Trung Quốc cũng không biết tổ tiên họ là ai, tiếng nói của họ từ đâu ra, chữ viết của họ do đâu mà có! Tuy “Hoa Viết đồng chủng đồng văn, ” do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, cố thư Trung Hoa có thể soi sáng cho nhiều sự kiện của sử Việt, thì cũng chỉ từ sau thời Tần Hán thôi! Bắt cổ thư trả lời mọi câu hỏi của sử Việt khác nào bắt dê đực đẻ?! Tham vọng dùng thư tịch Trung Hoa giải quyết triệt để vấn đề Kinh Dương Vương chỉ là chuyện leo cây tìm cá! 

Chỉ có thể khám phá sự thật bằng hệ quy chiếu khác: tìm tới tận cùng cội nguồn tộc Việt!

Bằng ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn Học 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn Học, 2008), Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn Học, 2011) cùng nhiều bài viết khác, chúng tôi đã chứng minh rằng, để đi tới con người hôm nay, tổ tiên ta đã kinh qua hai thời kỳ. Kết hợp những phát hiện di truyền học lấy AND từ chính máu huyết chúng ta với tư liệu khảo cổ học, cổ nhân chủng học, văn hóa học của người Việt, chúng tôi chứng minh được rằng, 40.000 năm trước, người Việt cổ Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Khoảng 7000 năm trước, tại văn hóa Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Chiết Giang diễn ra sự gặp gỡ hòa huyết giữa người Việt Australoid và người Mongoloid săn bắn hái lượm có mặt ở đây từ trước, sinh ra chủng người mới Mongoloid phương Nam. Đó chính là người Việt hiện đại, tổ tiên xa của chúng ta. Lớp người Việt mới này tăng nhanh số lượng và tới khoảng 5000 năm TCN trở thành chủ nhân của vùng Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc. Sơn Đông có núi Thái Sơn, là nơi ra đời của những vị tổ huyền thoại của người Việt: Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Còn Hà Nam nơi có con sông ngày nay mang tên Hán Thùy, nhưng trước đó, người Dương Việt chủ nhân gọi là sông Nguồn. Đồng bằng phì nhiêu do sông Nguồn sinh ra có tên là Trong Nguồn. Tại đây diễn ra sự kiện Kinh Dương Vương được phong làm vua nước Xích Quỷ năm 2879 TCN rồi chuyện Đế Lai làm vua phương Bắc, Lạc Long Quân làm vua phương Nam.

 Do đất đai trù phú, nên Trong Nguồn thường xuyên bị những bộ lạc du mục Mông Cổ ở phía bắc Hoàng Hà nhóm ngó, cướp phá. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ mở trận công kích lớn vào Trác Lộc bên bờ nam Hoàng Hà, đánh tan liên quân Việt của Đế Lai và Lạc Long Quân. Đế lai tử trận, Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân Việt vùng quê Núi Thái, Sông Nguồn dùng thuyền theo Hoàng Hà ra biển rồi đổ bộ vào Rào Rum - Ngàn Hống đất Việt. Cùng ngôn ngữ và gần gũi về chủng tộc, người Việt bản địa mở lòng đón tiếp những người mới rồi chung tay xây dựng nước Văn Lang. Văn Lang với kinh đô Hạc Trắng là gì nếu không phải chính là Xích Quỷ được dời đô và thay quốc hiệu? Cũng lúc này, người Việt mang gen Mogoloid phương Nam trong đoàn di tản hòa huyết với người bản địa Australoid, sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới, mà thủ lĩnh là Hùng Vương, cụ tổ trực tiếp của chúng ta hôm nay, cùng câu ca:
                 Công cha như núi Thái Sơn
                 Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra
Người Mông Cổ vào chiếm Trong Nguồn, hòa huyết với người Việt bản địa, sinh ra người Hoa Hạ. Do người Việt quá đông nên sau vài ba thế hệ, người Hoa Hạ cũng chuyển hóa thành người Việt mang gen Mongoloid phương Nam. Ý thức được nguồn gốc của mình, các đế vương Trung Hoa sau này coi Trong Nguồn là đất phát tích của họ và hướng về Thái Sơn thờ tự rất tôn kính. Đến thời Đường, sông Nguồn (tiếng Việt còn đọc là Hòn, Hớn, Hán) chuyển thành Hán Thùy, còn đồng bằng Trong Nguồn được gọi là Trung Nguyên. Vì vậy, hơn 2000 năm chúng ta không tìm ra quê gốc!

Cũng phải kể tới sự kiện khác: trận Trác Lộc! Truyền thuyết cùng cổ thư Trung Hoa cho rằng, Hoàng Đế và Viêm Đế (Thần Nông) là anh em trong cùng một bộ lạc do Viêm Đế lãnh đạo. Hoàng Đế mạnh lên, đánh bại Viêm Đế ở Phản Tuyền, giữ vị trí thống lĩnh. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Nhưng rồi Si Vưu, người của Viêm Đế nổi loạn. Hoàng Đế buộc phải tiêu diệt Si Vưu ở Trác Lộc.
Đấy thực ra chỉ là uyển ngữ lịch sử vì mục đích chính trị, giống như sau này người ta chế tác ra chuyện Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Phán rồi Thục Phán thề tôn thờ các vua Hùng mà quên đi những dấu tích của cuộc chiến  khốc liệt khắp vùng Việt Trì, Phú Thọ! Trong con mắt nhà quân sự, hai đội quân của cùng một bộ lạc chỉ có thể tranh chấp vị trí chiến lược đông dân, kinh tế trù phú chứ không khi nào kéo ra bờ sông đánh nhau. Mặc khác, nếu trong cùng bộ lạc, trận chiến sẽ không thể huy động quân số đông và diễn ra ác liệt đến thế! Trên bờ nam Hoàng Hà, Trác Lộc thực sự là trận chiến sống còn giữa kẻ xâm lăng phương bắc và người quyết tâm giữ đất phương nam! Cổ thư Trung Hoa xác nhận sự thật này. Trong cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư có câu: Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu/ Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu (Ngày xưa Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc đến nay còn chưa dứt). Cũng phải phân định điều này: Thần Nông sống trước 3000 năm TCN nên không thể cùng tranh chấp với Hoàng Đế là kẻ sau mình hàng trăm năm!

 Với quy mô như thế của trận Trác Lộc, cho thấy, cuộc chiến năm 2698 TCN bên bờ Hoàng Hà chỉ có thể là cuộc chiến giữa hai nhà nước hay liên minh bộ lạc hùng mạnh. Cổ thư Trung Hoa cho biết, bên Mông Cổ là liên minh các bộ lạc, do Hiên Viên lãnh đạo mà không cho biết lực lượng của Si Vưu ra sao. Nhưng từ lực lượng của Hiên Viên, ta cũng biết lực lượng của Si Vưu không nhỏ. Lực lượng đó chỉ có thể có nơi những nhà nước hay liên minh bộ lạc mạnh. Từ cuộc di tản theo sông Hoàng Hà của Lạc Long Quân (vết tích còn lại trong Ngọc phả Hùng Vương) vào thời điểm này, có thể thấy trận Trác Lộc có sự liên minh giữa hai nhà nước của Đế Lai và Lạc Long Quân. Điều này còn chứng tỏ, thời điểm ra đời của nước Xích Quỷ năm 2879 TCN là có cơ sở!
  Cũng phải nói tới sự kiện này: cậu bé làng Dóng! Lịch sử chưa bao giờ ghi nhận vào đời Hùng vương có chuyện giặc Ân xâm lăng nước ta. Vua Bàn Canh không thể vượt chặng đường quá xa xôi, băng qua sông lớn Trường Giang, mạo hiểm đương đầu với sự chống trả của những quốc gia Bách Việt để tới nước ta. Nhưng vì sao có chuyện cậu bé làng Dóng? Đó chính là ánh xạ của sự kiện, sau khi xâm lăng vùng đất Ân ở Hà Nam, nhà Ân Thương tiếp tục đánh người Việt, mở rộng địa bàn. Người Việt chống trả quyết liệt nhưng rồi dần dần thua cuộc. Một bộ phận người Việt từ đây chạy về Việt Nam, quê gốc của mình, mang theo hình tượng đẹp nhất của cuộc kháng chiến rồi phục dựng trên đất Việt truyện Thánh Dóng với những địa danh Bắc Ninh!

Từ phân tích trên, ta thấy rằng, sử gia Ngô Sĩ Liên đã kết nối tài tình câu chuyện ghi trong Đường Kỷ với những chi tiết mảnh vụn rời rạc của lịch sử để phục dựng giai đoạn quan trọng thiết yếu trong lịch sử tộc Việt. Nhờ khám phá chính xác của ông, năm sáu trăm năm nay, chúng ta có được định hướng con đường tìm lại cội nguồn để không biến thành đám trôi sông lạc chợ. Tuy nhiên, do thời gian xa xôi,  chứng lý lại mong manh, nên không khỏi có những ngờ vực. Những người thiển nghĩ cho đó là chuyện “ma trâu thần rắn” hay “chỉ là ảo ảnh diễn hóa từ nhân vật Kinh Xuyên”… cũng không lạ!
Nay, nhờ phát hiện mới của khoa học nhân loại, chúng ta đã phục dựng lại diện mạo thực của lịch sử. Thật đáng mừng là những phát hiện khoa học hôm nay đã chứng minh dự cảm thiên tài của người xưa: Kinh Dương Vương là vị thủy tổ đích thực của tộc Việt! 

Vừa mới xuất hiện, bài viết của Tiến sĩ Trần Trọng Dương đã lan nhanh như nước lũ trên mạng toàn cầu. Trên một vài trang mạng cho thấy bài viết đã gây sốc mạnh. Nhiều người hoang mang mất lòng tin vào điều thiêng liêng nhất của dân tộc, vào cái hấp lực cuối cùng gắn kết người Việt với nhau. Chắc chắn không phải là mong muốn của nhà nghiên cứu nhưng vô hình trung, đây là đòn “giải thiêng” nặng nề nhất đánh vào lòng tự hào, vào khối đoàn kết dân tộc!
Tuy nhiên, rất may là, tới nay, nhờ tri thức của khoa học nhân loại chúng tôi đã đi tìm tới tận cùng quá khứ dân tộc Việt, khám phá chính xác hành trình mà tổ tiên chúng ta đi suốt 70.000 năm qua cho tới hôm nay. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phát biểu của Tiến sĩ Trần Trọng Dương là hoàn toàn sai lầm.

Bằng sự vững tin ở những chứng lý khoa học không thể phản bác, chúng tôi xin một lần nữa khẳng định: KINH DƯƠNG VƯƠNG LÀ THỦY TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT!

 Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 9 năm 2013
                                                                                  HVT

























Ý nghĩa các biểu tượng cảnh báo trên xe hơi

 

Bảng điều khiển trên xe hơi chính là cách giao tiếp tốt nhất giữa chiếc xe và người điều khiển, đó chính là công cụ để người lái có thể biết được toàn bộ tình trạng hiện tại của chiếc xe, kể cả tình trạng của các thiết bị cơ khí trong hệ thống động cơ.
Theo sự phát triển về số lượng của các công nghệ được ứng dụng lên xe hơi, số lượng các biểu tượng thông báo cũng ngày càng nhiều hơn, chính các đốm sáng bé nhỏ đang theo dõi các hoạt động của xe mà bạn gặp hàng ngày trên bảng điều khiển này có thể bảo vệ bạn, hành khách ngồi xe của bạn cũng như các lái xe khác trên đường. Cũng chính vì lí do đó mà số lượng các biểu tượng này trở nên rất lớn và đôi khi có sự khác biệt đôi chút trên các mẫu xe khác nhau. Tuy nhiên, họ vẫn tuân theo những biểu tượng thông báo chuẩn cho hầu hết các loại xe trên thế giới.

Sau đây là các biểu tương thông báo thường gặp trên các loại xe cũng như thông tin mà nó muốn thể hiện:

how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_1. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_2. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_3. 

1. Đèn cảnh báo ABS – Nó sẽ sáng lên khi có điều gì đó bất thường với hệ thống phanh Anti-lock Brake (hệ thống chống bó cứng phanh). Cũng phải lưu ý rằng đèn này cũng sáng lên lúc xe vừa khởi động, nhưng sau đó sẽ tắt sau vài giây nếu hệ thống phanh này hoạt động bình thường.

2. Thông báo sắp hết nhiên liệu – biểu tượng này sẽ xuất hiện khi lượng nhiên liệu trong xe đã xuống đến mức rất thấp và bạn cần phải bổ sung ngay.

3. Cảnh báo thắt dây an toàn – biểu tượng này sẽ xuất hiện khi động cơ được khởi động và dây an toàn chưa được cài vào. Tùy vào từng nhà sản xuất mà biểu tượng này còn đi kèm theo âm thanh báo động liên tục cho đến khi dây an toàn được cài vào.

4. Cảnh báo vấn đề về hệ thống điện – biểu tượng này cảnh báo có vấn đề xảy ra với hệ thống điện của xe.

5. Cảnh báo hệ thống phanh – thông báo sẽ được bật khi hệ thống vận hành phát hiện hệ thống phanh có vấn đề.

6. Đèn cảnh báo nguy hiểm – tín hiệu này cho biết có một vấn đề không xác định được đang xảy ra với xe của bạn, bạn nên đi kiểm tra ngay.

7. Biểu thị ghế ngồi dành riêng cho trẻ em – nếu nó sáng lên thông báo có một ghế ngồi dành riêng cho trẻ em đã được gắn vào trong xe.

8. Áp suất lốp xe – cảnh báo xuất hiện khi áp suất lốp xe dưới mức cho phép, điều đó sẽ làm tăng mức tiêu thụ nhiên liệu hoặc giảm hoạt động của phanh xe.

9. Bộ lọc không khí – thường được thấy trên hệ thống điều khiển trung tâm của xe, cũng đôi khi sẽ xuất hiện trên bản điều khiển xe trước mặt người điều khiển, nó cho biết có một trục trặc xảy ra tại khoang lọc không khí trong xe.

10. Túi khí phía trước – hiển thị theo dõi hoạt động của túi khí phía trước, khi túi khí được bật ra cũng như khi nó gặp vấn đề hoặc cần phải kiểm tra kỹ thuật một cách chuyên nghiệp.

11. Túi khí hai bên – tương tự như túi khí phía trước.

12. Ghế trẻ em – biểu tượng này biểu thị thông tin giống như biểu tượng ở mục 8, nhưng có hình dáng khác do được sử dụng bởi những nhà sản xuất khác.

how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_4. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_5. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_6. 

13. Đèn sương mù/đèn gầm đã được bật lên.

14. Gạt nước mưa được kích hoạt.

15. Đèn chiếu sáng chính đã được bật.

16. Hệ thống sưởi kính sau đã được bật.

17. Cảnh báo ghế ngồi cho trẻ em lắp không đúng.

18. Sự cố về dầu phanh – rất ít khi xuất hiện, nó thông báo có một sự cố xảy ra về dầu phanh.

19. Cảnh báo ắc quy – nếu cảnh báo này xuất hiện khi xe đang vận hành chứng tỏ có sự cố xảy ra liên quan tới hệ thống ắc quy.

20. Khóa an toàn trẻ em được bật.

21. Thông báo cấp cứu – xuất hiện khi người điều khiển bật đèn cấp cứu (hay còn gọi là đèn ưu tiên).

22. Đèn kiểm soaát hành trình – biểu thị hệ thống kiểm soát hành trình đã được bật, biểu tượng này có thể khác nhau đối với hãng xe khác nhau.

23. Hệ thống sưởi kính chắn gió đã được bật.

24. Sự cố về hệ thống truyền động – nó xuất hiện khi có vấn đề xảy ra với hệ thống truyền động trên xe, xe đang trong tình trạng nguy hiểm, cần phải kiểm tra kỹ thuật ngay khi có thể.

how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_7. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_8. how-to-understand-the-dashboard-lights-1370_9. 

25. Cảnh báo trượt – thường được trang bị trên những chiếc xe cao cấp, nó cảnh báo xe đang mất độ bám đường do điều kiện lái xe khó khăn.

26. Cảnh báo cửa chưa đóng đúng – cảnh báo khi xe đã nổ máy nhưng có một hoặc nhiều của xe chưa được đóng đúng cách.

27. Hệ thống chống trộm – được ứng dụng độc quyền cho các dòng xe của Ford, nó thông báo hệ thống chống trộm công nghệ Securelock đã được bật.

28. Hệ thống kiểm soát bướm ga tự động – khi động cơ xe được khởi động, nếu có sự cố xảy ra với hệ thống tự động kiểm soát bướm ga, đèn cảnh báo này sẽ bật sáng.

29. AWD – (All Wheel Drive) thông báo hệ thống dẫn động 4 bánh xe chủ động đã được bật.

30. Hệ thống cảm biến cân bằng điện tử ESP/BAS – giống như biểu tượng cảnh báo ABS, nhưng đặc biệt là báo cho người điều khiển biết có vấn đề về hệ thống cảm biến ESP/BAS.

31. Chức năng Overdrive đã tắt.

32. Đèn báo rẽ/xi-nhan được bật.

33. Cảnh báo nhiệt độ – cảnh báo cho người điều khiển biết nhiệt độ của máy đã lên đến mức quá cho phép, thường yêu cầu người dùng cho xe dừng lại.

34. Cảnh báo OBD – cảnh báo các lỗi làm việc của động cơ như lỗi liên quan tới sự hình thành hỗn hợp nhiên liệu – không khí và các thiết bị kiểm soát khí thải…

35. Đèn pha được kích hoạt.

36. Cảnh báo áp suất dầu: được báo khi có vấn đề xảy ra với áp suất dầu trong động cơ, thường người dùng được khuyên dừng xe và kiểm tra kỹ thuật ngay khi có thể.
Theo Tinhte














 

Khám phá tên gọi chiến hạm Mỹ

Những chiến hạm hiện đại của Mỹ không chỉ gây chú ý bởi hệ thống vũ khí tối tân mà còn là sự thú vị tiềm ẩn trong tên gọi.


Những ngày qua, khu vực Địa Trung Hải trở nên nóng bỏng bởi Mỹ vẫn giữ nguyên khả năng tấn công quân sự nhằm vào Syria bất cứ lúc nào. Truyền thông thế giới lập tức điểm mặt các chiến hạm mà Lầu Năm Góc có thể điều động tham chiến. Trong đó, có một tàu chiến Mỹ mang tên rất Việt Nam là USS Hue City (CG-66), một tuần dương hạm thuộc lớp Ticonderoga. Với độ choán nước gần 10.000 tấn, đây là lớp tàu chiến đầu tiên được trang bị hệ thống tác chiến Aegis tối tân của quân đội Mỹ.
Đủ loại địa danh
Ticonderoga được đặt theo tên một đồn đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 bang Bắc Mỹ hồi thế kỷ 18, theo các tài liệu của hải quân Mỹ. Tương tự, hầu hết các chiến hạm khác thuộc lớp này đều được đặt tên theo một địa danh mà quân đội Mỹ từng trải qua những trận đánh khốc liệt. Đó cũng là lý do để tuần dương hạm CG-66 mang tên USS Hue City, tức thành phố Huế, nơi diễn ra không ít cuộc đụng độ quyết liệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Không riêng gì các tàu thuộc lớp Ticonderoga mà phần lớn các tuần dương hạm của Mỹ tính từ đầu thế kỷ 20 đến nay đều mang tên địa danh. Bên cạnh đó, tàu đổ bộ Mỹ USS Peleliu ban đầu lẽ ra mang tên USS Khe Sanh (thị trấn Khe Sanh - Quảng Trị) hoặc USS Da Nang (Đà Nẵng) chứ không phải tên như hiện nay.
Nếu như chiến hạm thuộc lớp Ticonderoga mang tên những địa danh gắn liền những trận đánh lớn thì tàu ngầm thuộc 2 lớp VirginiaOhio của Mỹ lại mang tên các bang của xứ cờ hoa. Đây là nội dung trong báo cáo về việc đặt tên cho chiến hạm Mỹ được quốc hội nước này công bố hồi giữa tháng 6.2013. Việc chọn tên địa danh làm tên tàu ngầm cũng khá phổ biến trên thế giới. Nga từng có tàu ngầm hạt nhân mang tên thành phố Kursk của Nga. Cũng từ việc đặt tên này, nên khi nhà tiên tri Bulgaria là Baba Vanga đưa ra dự báo “Kursk chìm trong nước”, người ta chỉ nghĩ đến trận đại hồng thủy nhấn chìm thành phố Kursk. Thế nhưng, sự thật thì tàu ngầm nguyên tử Kursk đã gặp thảm họa nổ tung do một tai nạn vào năm 2000.
Theo báo cáo từ Quốc hội Mỹ, các tàu mẹ đổ bộ thuộc lớp San Antonio và tàu chiến cận bờ của hải quân nước này cũng được đặt tên theo địa danh. Tuy nhiên, các tàu này mang tên địa danh những thành phố, thị trấn nhỏ hoặc cộng đồng tại xứ cờ hoa.
 
Đặt cả tên người còn sống
Trong khi đó, hầu hết các chiến hạm cỡ lớn còn lại như tàu sân bay và tàu khu trục đều mang tên người nổi tiếng. Cụ thể, 12 trong số 14 hàng không mẫu hạm có tên mới nhất của Mỹ đều mang tên người nổi tiếng, gồm 10 chiếc mang tên của các đời tổng thống và 2 chiếc mang tên các nghị sĩ. Trong đó, Tổng thống John Kennedy được đặt tên cho đến 2 tàu sân bay. Trước kia, tên ông từng được đặt cho chiếc hàng không mẫu hạm CV-67 thuộc lớp Kitty Hawk đã về hưu hồi năm 2007. Sắp tới, tàu sân bay CVN-79, thuộc lớp Ford, sẽ lại mang tên ông và dự kiến chính thức hoạt động vào năm 2020.
Nếu như tàu sân bay hầu hết được đặt tên theo tổng thống và nghị sĩ thì tàu khu trục lại mang tên các chỉ huy và anh hùng của hải quân Mỹ. Ví dụ, đô đốc Arleigh Burke (1901 - 1996) được đặt tên cho lớp tàu khu trục chủ lực của Mỹ hiện nay. Tên của ông cũng được đặt cho chiếc đầu tiên thuộc lớp tàu này. Tương tự, toàn bộ tàu chiến lớp Arleigh Burke đều có tên những nhân vật lẫy lừng của hải quân Mỹ. Điển hình như tàu khu trục Arleigh Burke mới nhất mà hải quân Mỹ tiếp nhận mang tên Michael Murphy, một thành viên của lực lượng đặc nhiệm SEAL hy sinh ở tuổi 29 tại Afghanistan hồi năm 2005.
Đặc biệt, từ năm 1973, Washington quyết định lại đặt tên người còn sống cho tàu chiến.
Điều này vốn từng xảy ra thời nước Mỹ vừa lập quốc cho đến năm 1814. Kể từ năm 1973 đến nay, có tổng cộng 14 nhân vật còn sống được đặt tên cho chiến hạm Mỹ. Trong đó, nổi bật phải kể đến nghị sĩ Carl Vinson (1883 - 1981), người có hơn 50 năm làm nghị sĩ trong Hạ viện nước này, đã được đặt tên cho hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson (CVN-70). Tương tự, chiếc USS John C.Stennis (CVN-74) mang tên ông John C.Stennis (1901 - 1995), người làm thượng nghị sĩ suốt 41 năm. 
Ký hiệu của chiến hạm
Mỗi tàu chiến Mỹ đều có một tên riêng kèm theo cụm USS (nghĩa là United State Ship) phía trước. Ngoài ra, mỗi tàu chiến còn có mã tàu, tương tự “biển kiểm soát”, bao gồm cụm ký tự và số. Ví dụ, hàng không mẫu hạm USS Nimitz còn có “biển kiểm soát” là CVN-68. Trong đó, cụm ký tự nhằm biểu thị loại tàu. Cụ thể, các loại tàu được ký hiệu bởi các cụm ký tự như sau:
CV: Tàu sân bay không sử dụng năng lượng hạt nhân.
CVN: Tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân.
LHD/LHA: Tàu đổ bộ mang thiết kế tàu sân bay cỡ nhỏ, có thể mang cả chiến đấu cơ.
LPD: Tàu mẹ đổ bộ, có cả bãi đáp cùng lúc cho nhiều trực thăng.
LSD: Tàu vận chuyển đổ bộ.
MLP: Tàu đổ bộ cơ động.
SSN: Tàu ngầm năng lượng hạt nhân tấn công nhanh.
SSBN: Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo có thể chứa đầu đạn nguyên tử.
SSGN: Tàu ngầm hạt nhân mang theo tên lửa dẫn đường.
CG: Tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường.
DDG: Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường.
FFG: Tàu hộ tống mang tên lửa dẫn đường.
LCS: Tàu chiến cận bờ.
PC: Tàu tuần duyên.
MCM: Tàu quét mìn.
Ngô Minh Trí

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ nền độc lập nghĩ về văn hoá hoà bình


Lê Ngọc Sơn thực hiện
Chủ nhật ngày 15 tháng 9 năm 2013 10:59 AM

SGTT.VN - Từ Pháp, giáo sư Cao Huy Thuần chia sẻ những hoài niệm của chính ông, một nhân chứng lịch sử của thời khắc tháng 8. 1945. Ông có những trăn trở chân thành của mình đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.


Thưa Giáo sư, cảm xúc của Giáo sư là thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2.9 của đất nước?

Tôi nghĩ đến bao nhiêu xương máu đã đổ ra để giành lại độc lập và bảo vệ độc lập. Bài quốc ca của chúng ta có câu: "Đường vinh quang xây xác quân thù". Đúng vậy. Nhưng đường vinh quang cũng xây xác bao nhiêu chiến sĩ, bao nhiêu thường dân, bao nhiêu máu của cả dân tộc, không phân biệt. Máu ấy đỏ chung trên lá cờ của chúng ta, phất phới như một mảnh hồn chung, nhắc nhở chúng ta đừng quên: độc lập ấy là máu của cả dân tộc từ Bắc chí Nam, vinh quang ấy là vinh quang của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

Ngày độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?

Tôi thuộc thế hệ những người được sống với nền độc lập 1945. Năm ấy, tôi 8 tuổi, kỷ niệm đầy ắp. Là nhi đồng Cứu quốc trong đội văn hóa của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tôi đi hát lưu diễn từ huyện này qua huyện khác, có khi cả tuần không về nhà, ghẻ lở khắp lưng vì không tắm rửa, vì ngủ sau sân khấu, vì ăn toàn mắm với cơm độn khoai.

Thay mặt thiếu nhi, tôi được vinh dự nhảy lên bục, hô hào toàn quốc kháng chiến, "thưa đồng bào, quân Pháp đã đổ bộ lên Tân Gia Ba", chẳng biết Tân Gia Ba là cái gì, ở đâu. Quảng Ngãi là đất màu mỡ của cách mạng, nhiều anh học trò của cha tôi xung phong vào Nam ngay từ khi mở mặt trận và chết ngay trong những trận đầu tiên, tuổi chưa tròn mười tám. Tôi đã chảy nước mắt với chiếc khăn tang quấn trên đầu chị vợ chưa cưới của một anh trong số đó. Chị đẹp làm tôi não nùng. Hình ảnh đầu tiên về chiến tranh trong ký ức của tôi là như vậy: chị đẹp, anh trẻ, và chiếc khăn tang.

Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người...

Lãng mạn chăng? Đúng vậy. Nhưng tôi đang nói đến bối cảnh đặc biệt của 1945 và không khí tiểu tư sản trí thức chung quanh tôi. Kháng chiến thuở đầu nhuốm đầy phong vị lãng mạn vừa trí thức vừa anh hùng. Xung phong vào Nam, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Một lần đi là không trở về", thiếu nhi chúng tôi cũng hát như các anh, tất cả đều là Kinh Kha qua sông Dịch. Từ giã người yêu, chẳng ai nồng cháy một cái hôn, chỉ lạnh lùng để khỏi vương vấn: "lạnh lùng vung gươm ra sa trường". Sự thực, tôi chẳng thấy ai đeo gươm, chỉ đôi khi thầm phục trái lựu đạn cài bên hông. Mà lựu đạn ấy cũng biết lãng mạn: có trái không nổ. Tôi nghe nói có nhiều anh chết khi xung phong chỉ vì lựu đạn không nổ. Nhưng sá gì! Các anh chết với nụ cười và bài hát trên môi: "Quyết chiến sa trường. Sống thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai..."

Kháng chiến khởi đầu không thể hào hùng đến thế nếu thiếu đi cái chất lãng mạn anh hùng ấy trong dòng máu thanh niên trí thức, nếu thiếu đi những bài thơ trữ tình yêu người yêu nước trong balô của anh bộ đội. Ít nhất là trong vòng các anh thanh niên mà tôi biết lúc đó, có hai dòng máu lãng mạn chảy trong huyết quản: một dòng bắt nguồn từ tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, một dòng bắt nguồn từ câu thơ trong Chinh phụ ngâm: "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / Xếp bút nghiên theo việc đao cung". Tại sao tôi dám nói thế? Tại vì, từ huyện này qua huyện khác, tôi đã nghêu ngao một câu hát ấy mà về sau tôi không còn nghe ai hát nữa ngoài anh Trần Văn Khê: "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu/ Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân/ Sơn hà nguy biến, tiến ta tiến!/ Hèn thay đời nhàn cự, hèn thay vui yêu đương/ Lúc quê hương cần người, dứt đường tơ vương, giã nhà lên yên..."

Không Chinh phụ ngâm thì là gì? Tất cả là thơ. Kháng chiến là thơ. Mà làm gì anh bộ đội có những bài thơ hay thế trong ba lô nếu không có Tự Lực Văn Đoàn khai hoa nở nhụy cho thơ mới? Tất cả thanh niên trí thức chung quanh tôi thời ấy đều mang Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu trong hơi thở. Tất cả đều là tình nhân của cô Loan, cô Thoa.

Tôi muốn nói thêm: cái chất lãng mạn anh hùng của thời 45 ấy truyền thừa cho đến các anh chị sinh viên miền Nam chúng tôi thời 63 và sau đó. Giọt máu - và bây giờ giọt nước mắt - mà các anh chị thấm vào trang sử thời ấy, các anh chị thử ngửi xem, có phải nó thơm mùi thơ, mùi văn, hương đồng gió nội rất lãng mạn? Nếu không phải thì tại sao các anh thích hát Trăng mờ bên suối ở những dịp nghiêm trang? Tất cả các anh thanh niên trí thức thời 45, tất cả, hoặc gần như thế, các anh chị sinh viên thời Huế-Sài Gòn năm xửa năm xưa, tất cả đều là thi sĩ dù có làm thơ hay không, bởi vì tất cả đều mang chất thơ của văn hóa Việt Nam trong máu. Đừng quên rằng cái lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn cũng là cái lãng mạn phản kháng. Phản kháng một tư tưởng cổ hủ xiềng xích tự do của con người. Chất thơ văn trong máu các anh chị buộc các anh chị phải phản kháng, từ 45 cũng như từ 63. Trước bạo lực, cường quyền, bất công, các anh chị không khuất phục. Như thế hệ trí thức 45 đã không khuất phục. Ngày 2.9 năm nay, tôi hướng về cái chí khí thanh niên đó.

Theo Giáo sư, vì sao một dân tộc từng ngẩng cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hòa bình tìm kế bứt phá vươn lên?

Chiến tranh có quy luật của chiến tranh. Hòa bình có quy luật của hòa bình. Trở về lại với bài quốc ca, năm 1945 chúng tôi hát: "Thề phanh thây uống máu quân thù" mà chẳng thấy gì ghê rợn. Bây giờ chúng ta hát: "Đường vinh quang..." Thế là "văn hóa" của chiến tranh đã khác với văn hóa của hòa bình rồi! "Mỗi ngày anh du kích giết được 3 thằng Tây, vậy 10 ngày anh giết được bao nhiêu thằng?", ấy là bài toán đố lớp tiểu học hồi 1950.

Bây giờ không ai ra toán kiểu đó nữa. Tuy vậy, chiến tranh vẫn chưa ra khỏi cái đầu và thực tế chính trị. Như một quán tính, chiến tranh vẫn đè nặng trên tư duy. Ta và địch vẫn mãi đánh nhau trong đầu óc, với căm thù, thủ đoạn và bạo lực, ngăn cản mọi suy nghĩ về sự cần thiết tất nhiên của cạnh tranh chung sống trong hòa bình. Có cần phải nhắc lại rằng chiến tranh không có văn hóa? Không ai nói "văn hóa chiến tranh". Chỉ có văn hóa hòa bình.

Đừng áp dụng quy luật của thời chiến vào giai đoạn của thời bình. Một bên là nước mặn, một bên là nước ngọt. Chiến tranh là chỉ huy, hòa bình là nghe ý kiến. Chiến tranh là mệnh lệnh, hòa bình là biện luận. Chiến tranh là đại bác, hòa bình là cây bút. Chiến tranh là sắt thép, hòa bình là tơ lụa. Chiến tranh là thù địch, hòa bình là đối thủ. Chiến tranh là cưỡng bức, hòa bình là thuyết phục. Chiến tranh là lý lịch, hòa bình là vua Trần xí xóa. Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người. Chiến tranh là nhất cực, hòa bình là đối trọng. Chiến tranh là con ó quắp mũi tên nơi móng, hòa bình là con bồ câu lông trắng, chân son, và mắt ôi là bồ câu.

Hòa bình mà cứ dùng khí giới của chiến tranh để đối thoại thì "văn hóa" ấy không phải là động lực của phát triển. Đó là cản trở phát triển. Cản trở về mọi mặt, mọi lĩnh vực.

Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay là gì, thưa Giáo sư?

Là chưa có tư duy hòa bình như tôi vừa nói.

Theo Giáo sư, trong giai đoạn hiện nay, cách thức nào hạn chế những thách thức đó để đưa dân tộc đi lên?

Chỉ có một phương thức duy nhất thôi là dân chủ. Ở đâu cũng vậy và ở thời nào cũng vậy, quyền lực lâu ngày của một chế độ sẽ hao mòn tính sắc bén với thời gian, người Pháp nói rõ hơn: le pouvoir s'use, ta có thể dịch là quyền lực bị lão hóa. Ngày xưa, khi mới đánh đuổi ngoại xâm và lên ngôi, ông vua thường là minh quân. Một đời, hai đời, vài đời, tính sắc sảo ban sơ dùi mòn đi, cuối cùng là hôn quân hắc ám. Giới tinh hoa quan chức không có động lực gì thúc đẩy để thay đổi, chỉ ham địa vị, cũng từ từ rữa nát theo ông. Tất cả chế độ chỉ dựa trên ông vua và hầu cận tả hữu mà vua thì hôn quân, quan thì nịnh thần, tất loạn, không Hồ Quý Ly thì Mạc Đăng Dung phải soán ngôi để thiết lập trật tự mới. Chế độ quân chủ ngày xưa không tìm ra được một nguyên tắc để ngăn cản tính lão hóa tất yếu của quyền lực, để quyền lực chuyển mình thay đổi trong hòa bình. Ngày nay, chính thể dân chủ có nguyên tắc, có kinh nghiệm để mài giũa lại quyền lực cho sắc bén, hữu hiệu, để quyền lực tự củng cố, tự sửa đổi. Ông Khổng Tử ngày xưa bảo thủ như vậy mà cũng nói: Học cũng như chèo thuyền nước ngược, không tiến tất thoái. Cai trị cũng vậy.

Nhân ngày độc lập, tôi cũng xin nói thêm, hay nói cho đúng, cũng xin hát thêm - hát những bài hát mà chúng tôi đã hát hồi 1945. Bài Bao chiến sĩ anh hùng tận cùng như thế này: "Thề phục quốc, tiến lên Việt Nam!/ Lập quyền dân, tiến lên Việt Nam!/ Đài hạnh phúc đắp xây tự do!/ Việt Nam tranh đấu chống quân ngoại xâm".

Triệu người Việt Nam như một đều đang nói: chúng ta đang gặp ngoại xâm. Triệu người Việt Nam như một đều đang thề: thề phục quốc. Triệu người Việt Nam như một đều đang hô to: lập quyền dân. Triệu người Việt Nam như một đều đang ước mơ tự do, hạnh phúc. Chúng ta đang sống năm 2013 hay năm 1945? 

Triết lý phát triển nào cho Việt Nam phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa GS?

Tôi xin mượn một chuyện khoa học để trả lời câu hỏi của anh. Hồi thế kỷ 18, nhiều nhà hóa học, nhất là Stahl, nghĩ rằng nếu cái bàn, cái ghế, bất cứ cái gì cũng có thể cháy được thì như vậy hẳn phải có một tố chất gì đó chung cho tất cả những vật thể có thể cháy ấy. Tìm tòi mãi mà không chiết ra được cái tố chất chung ấy, họ gọi cái chất hãy còn vô hình đó là phlogistique. Như thế cho đến Lavoisier. Lavoisier đảo ngược cách suy nghĩ. Chắc gì cái tố chất chung ấy nằm ở trong bản thề cáí bàn, cái ghế, mọi vật có thể cháy? Biết đâu nó nằm ở bên ngoài? Đảo ngược cách suy nghĩ như vậy, Lavoisier khám phá ra cái mà bây giờ trẻ con cũng biết: cái ấy là ôxy. Có ôxy thì cháy. Ôxy ở bên ngoài.

May mắn cho Lavoisier là rốt cục các nhà hóa học không còn kết án ông là diễn biến... khoa học. Không làm một cuộc đổi mới tư duy thì xin anh đừng nói phát triển.

Giáo sư có tin rằng mỗi dân tộc có một số mệnh riêng?

Tôi là Phật tử nên không tin ở số mệnh. Đạo Phật dạy tôi: tất cả đều do hành động của ta. Hành động tốt thì kết quả tốt, hành động xấu thì kết quả xấu. Các câu hỏi của anh là hành động. Trả lời của tôi là hành động. Nó nhỏ như hạt mưa. Nhưng triệu triệu hạt mưa thì chấm dứt hạn hán.


Cần nhận thức đúng về tự do và quyền con người
QĐND - Chủ Nhật, 15/09/2013, 19:59 (GMT+7)
QĐND - Tự do và quyền con người là những giá trị cao quý của nhân loại. Không có chế độ xã hội nào, không có nhà nước đương đại nào phủ nhận giá trị đó. Sự khác biệt về nhận thức lý luận đối với những phạm trù, khái niệm trừu tượng như khái niệm tự do và quyền con người cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, những quan niệm ấu trĩ, sai lầm về “tự do” và “quyền con người” đã khiến cho người ta có hành vi vi phạm pháp luật, rơi vào vòng lao lý. Chẳng hạn dựa vào nhận thức sai lầm về tự do ngôn luận, một số blogger trong “Câu lạc bộ nhà báo tự do” viết bài xuyên tạc chính sách pháp luật của Nhà nước. Hoặc dựa trên “công thức” xơ cứng, sai lầm về pháp luật: “Điều gì luật pháp không cấm thì đều có quyền làm”, người ta kêu gọi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992.
Vậy tự do là gì và trong đời sống thường nhật, người ta phải hành động như thế nào cho phù hợp với quan niệm đúng đắn về tự do?
Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học Locke (John Locke 1632-1704)  “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động. Tuy nhiên, theo Hegel, muốn có tự do thì trước hết phải nhận thức được cái tất yếu, cái quy luật. Người ta nhận thức được quy luật đến đâu thì hành động tự do được bảo đảm đến đấy. Vi phạm quy luật, tất yếu sẽ bị mất tự do. Nhân đây cũng phải nói thêm rằng, loài người còn có giá trị khác, cao quý không kém tự do, đó là ý thức về trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, với dân tộc và gia đình. Phải chăng, đây mới là giá trị phân biệt loài người với phần còn lại của thế giới.
Trong chính trị, quy luật cơ bản liên quan đến sự tồn tại, phát triển của một dân tộc trước hết là quyền dân tộc tự quyết. Quyền này bao gồm: Quyền xác lập chế độ chính trị, thể chế quốc gia và hệ thống pháp luật. Tất cả các quốc gia, kể cả tổ chức chính trị lớn nhất hành tinh như Liên hợp quốc đều phải tôn trọng quyền đó. Với quyền này, các nhà nước có quyền áp dụng tất cả các biện pháp, trong đó có xây dựng và thực thi pháp luật để bảo vệ chế độ của mình. Những hành vi chống lại chế độ chính trị và nhà nước hiện hữu là vi phạm quy luật, tất yếu sẽ mất tự do. Nhận thức đúng đắn về tự do của cá nhân không thể không nhận thức đúng quy luật này. Nói một cách đơn giản: Không có quyền tự do cá nhân nào được phép đứng trên hoặc chà đạp lên chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước.
Bây giờ trở lại vấn đề quyền con người, xem quyền con người (QCN) là gì? Vì sao có những người cho rằng, họ chỉ “thực hiện những quyền con người của mình, đã được pháp luật ghi nhận” mà lại bị bắt bớ, xét xử?
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc. Với tư cách là một giá trị đạo đức, QCN là một giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người. Những giá trị này bao gồm: Nhân phẩm, tự do, bình đẳng, tinh thần nhân đạo, khoan dung và trách nhiệm của mỗi người với cộng đồng. Khái niệm này là phương hướng cho sự phát triển của nhân loại.
Với tư cách là một giá trị pháp lý, QCN là các quy định pháp luật (trong luật quốc gia và luật quốc tế)  nhằm bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người và nghĩa vụ của mỗi người đối với cộng đồng. Có thể nói cho đến nay, cộng đồng quốc tế đã thỏa thuận với nhau những chuẩn mực chung về quyền con người. Những chuẩn mực này được ghi trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”, 1948[1], “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa”, 1966[2]. Tuy nhiên, Luật quốc tế về quyền con người không trực tiếp điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và người dân ở mỗi quốc gia. Các nhà nước nội luật hóa những công ước đã tham gia vào hệ thống pháp luật của mình, trên cơ sở đó các quyền con người ở mỗi quốc gia mới được bảo vệ trên thực tế.
ở Việt Nam, các quyền con người đã được nội luật hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Nói cách khác, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đã được quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia. Viện dẫn quyền con người nói chung mà không dẫn ra được những quyền đó được quy định như thế nào trong pháp luật quốc gia là thiếu tính thuyết phục, là không thể chấp nhận.
Trong luật quốc tế về quyền con người, không có quy định nào về “quyền tự do” nói chung. Một số quyền con người gắn với khái niệm tự do hình thành những quyền tự do cơ bản. Chỉ những quyền tự do cơ bản này mới được pháp luật bảo hộ. Đồng thời, những quyền (tự do) này phải chịu một số hạn chế của pháp luật. Trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” 1966, các quyền tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; về tự do ngôn luận, báo chí; về tự do cư trú, đi lại; Về tự do lập hội, hội họp được ghi nhận. Đồng thời, Công ước này cũng khẳng định những quyền này có thể bị hạn chế “để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền và tự do của người khác” [3]. Trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam, một số quyền công dân cũng bị hạn chế. Điều này thường được quy định theo luật (sau khi quy định về nội dung quyền - Đối với Hiến pháp), hoặc được quy định trong khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Chẳng hạn, Điều 88, Bộ luật Hình sự về “Tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, Điều 89, “ Tội phá rối an ninh”…
Sở dĩ quyền tự do ngôn luận, báo chí của các blogger trong “câu lạc bộ nhà báo tự do” không được Nhà nước ta chấp nhận vì trên trang mạng của họ đã có hàng trăm bài xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo chính sách của Nhà nước.
Sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung, điều chỉnh mối quan hệ xã hội nói riêng không chỉ có pháp luật mà còn có những giá trị khác, trong đó có hệ thống giá trị đạo đức và văn hóa. Những hành vi nào đó, cho dù pháp luật không cấm hoặc chưa cấm, nhưng không phù hợp với đạo đức, không được xã hội chấp nhận thì người ta không nên làm.

VỌNG ĐỨC

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét