6/11/13

ĐỔI MỚI TƯ DUY CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ


Nguyễn Huy Canh
Chủ nhật ngày 28 tháng 11 năm 2010 4:05 PM

Nguyễn Huy Canh
Cử nhân triết học
 Trong thời gian qua đã có nhiều ý kiến đóng góp cho dự thảo văn kiện Đại hội XI về công cuộc đổi mới tư duy chính trị và mô hình cấu trúc hệ thống chính trị.

 Những ý kiến đóng góp đó là đúng đắn khi chỉ ra những hạn chế, khuyết tật và lỗi thời của hệ thống này. Những hạn chế đó đã là nguyên nhân đưa tới tình hình tham nhũng ngày càng phát triển theo chiều sâu và trải rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; tính chuyên quyền độc đoán trong một bộ phận lãnh đạo các cấp ngày càng gia tăng. Chúng ta đã nhìn thấy những lực lượng nhân danh sự lãnh đạo của Đảng vì lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm của mình đã thao túng quyền lực nhà nước như một công cụ để chiếm đoạt tài sản và đất đai của nhân dân.
Đứng trên Hiến pháp và pháp luật là điều đã xảy ra trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện của Đảng. Các thiết chế xã hội trong nhiều mức độ và phạm vi chỉ còn tồn tại như một giá trị hình thức, trang trí... [1]
Từ thực trạng trên, tác giả của những ý kiến đó đưa ra yêu cầu đổi mới như phải luật hoá Điều 4 (Hiến pháp 1992); nhất thể hoá Đảng và nhà nước; hoặc phải thể chế hoá chức danh Tổng bí thư.
Những yêu cầu đó là chính đáng, tuy nhiên phải khẳng định rằng việc nhất thể hoá hai cơ quan Đảng và Nhà nước theo dự án của ông Nguyễn Minh Nhị về thực chất là sự hoà tan hoặc ít ra trên thực tế là xoá bỏ bộ máy nhà nước bởi sự đồng nhất ấy . Đó là điều không thể chấp nhận được.
Luật hoá Điều 4, hay thể chế hoá chức danh Tổng bí thư tác giả của những yêu cầu này đã không dự tính đến tính không khả thi, thiếu hiệu lực của nó một khi những điều luật, bộ luật được viết ra. Bởi vì sự áp đặt, lấn sân trong phương thức lãnh đạo của Đảng, tính hình thức của các thiết chế xã hội vẫn còn đó như một khách thể cần đổi mới chưa chuyển động bao nhiêu sau hơn 50 năm tồn tại. 
Theo tôi phải bắt đầu đổi mới mạnh mẽ từ tư duy chính trị với nội dung từ bỏ các giá trị của chủ nghĩa kinh nghiệm và phương pháp tư duy nhất nguyên đối với quá trình lịch sử. Bởi vì tính đa nguyên đã thấm sâu và đang chi phối mạnh mẽ thực tiễn nước ta trên nhiều mặt cũng như trong Hiện thực tuyệt đối .
Tư duy đa nguyên yêu cầu phải lấy nhân dân (Không phải là một khối quần chúng hiểu như là lực lượng vật chất cơ bản, là cơ sở của sự tồn tại của xã hội) là con người cá nhân, những cá nhân là điểm tựa, điểm xuất phát cho những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng ta – Cá nhân không được hiểu là con người cụ thể riêng lẻ nào đó tách ra, đối lập với xã hội, cộng đồng xã hội mà phải hiểu y là một con người, thực tại người trong quan hệ độc lập với toàn bộ thế giới còn lại đang được tư duy và cải biến bởi sự sinh tồn và phát triển của riêng nó, theo nghĩa sự giống nhau của con người trong trường hợp này không quy được về nhau bởi quan hệ sở hữu và chiếm hữu tư nhân đã hình thành như những giá trị phổ quát của thời đại chúng ta  - như chúng ta vẫn lấy cộng đồng xã hội làm căn cứ, làm khách thể để hình thành tư duy chính trị.
Không phải chúng ta đã không làm điều đó, mà trái lại 25 năm qua chúng ta đã tư duy theo phương pháp ấy, nhờ đó đã có sự tôn vinh thành phần kinh tế tư nhân, các doanh nhân và doanh nghiệp tư nhân.
Nội dung chủ yếu hiện nay của phương pháp tư duy đó là phải:
1, Tiếp tục công nhận, thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai bên cạnh sở hữu công của Nhà nước và tập thể . Bởi chúng ta cần phải hiểu rằng đó chính là mặt cấu thành của tồn tại người trong xu thế vận động đa nguyên của lịch sử hiện đại. Việc thừa nhận nó chính là biểu hiện của tư duy nhất quán và triệt để theo yêu cầu của sự phát triển- dĩ nhiên việc tư nhân hoá sở hữu đất đai là một quá trình mà lộ trình và bước đi của nó như thế nào phải do thực tiễn quy định.
Không bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai trong những năm qua đã là một trong những lĩnh vực chủ yếu nảy sinh tệ nạn tham nhũng và ức hiếp quần chúng nhân dân.
Nếu quyền tư hữu về đất đai của người dân được thừa nhận thì đơn thư khiếu kiện kéo dài chất cao hàng đống cũng như khối dân oan đã được hình thành như một thực thể xã hội sừng sững sẽ phải tự tiêu vong (về cơ bản).
2. Người ta đã nói nhiều đến nhà nước pháp quyền và xem xét nó ở nội dung là tính thượng tôn của pháp luật. Nhưng thực ra sự tôn trọng pháp luật, đề cao pháp luật chưa bao giờ là tiêu chí để nhận dạng nhà nước pháp quyền.
Quan điểm xem nhà nước pháp quyền ở nội dung “quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân” là hoàn toàn đúng. Nhưng điều quan trọng phải chỉ ra được cái cơ sở hiện thực trên đó nhà nước pháp quyền hình thành, phát triển đầy đủ nội dung trong nội hàm của nó là như thế nào.
Nhà nước pháp quyền không phải là một khách thể tĩnh, cũng không phải là một mô hình chủ quan được rút ra từ kinh nghiệm của thế giới hiện đại rồi áp dụng, áp đặt vào xã hội hiện tại, nó phải lấy xã hội dân sự làm cơ sở, làm tiền đề. Trong một chừng mực nào đó chúng ta phải xem nó là hình ảnh, là cái bóng của xã hội dân sự. Trong mối quan hệ ấy chúng ta sẽ nhìn thấy đựơc sự sáng tạo ra bộ máy nhà nước  trong toàn bộ hoạt động của nhân dân trong tiến trình sinh thành của lịch sử hiện đại.  .
Xã hội dân sự chính là điều kiện , là cơ chế cần thiết và chủ yếu để nhân dân thực hiện , tham gia một cách tích cực vào quá trình sáng tạo ấy.
Mối quan hệ qua lại với xã hội dân sự đựơc thực hiện sẽ làm cho nhà nứơc pháp quyền không ngừng phát triển , hoàn thiện năng lực cũng như tính hiện thực chắc nịch  của mình : quyền lực thuộc về nhân dân không chỉ còn chủ yếu trên nguyên tắc , lý thuyết và trên khẩu hiệu  mà nó đựơc thể hiện từng ngày , từng giờ trong toàn bộ sự vận động của lịch sử thế giới .  Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng không nằm ngoài những quy định đó. Do đó tư duy về nhà nước pháp quyền phải bắt đầu bằng việc xây dựng xã hội dân sự theo nội dung thu hẹp dần xã hội nhà nước hoá mà chúng ta đang sống ở trong đó. 
Xã hội nhà nước hoá là sản phẩm, là khách thể hoá của tư duy chính trị đã hình thành từ những năm 80: đó là tư duy bao cấp mà gốc rễ sâu sa của nó có từ trong phương pháp tư duy nhất nguyên - lịch sử.
Đó là việc nên ngày càng ít bao biện, ôm đồm làm thay của nhà nước đối với các tổ chức, đoàn thể mà bản thân nó đã thuộc về xã hội dân sự.
Vấn đề không chỉ ở chỗ nhà nước bớt đi gánh nặng biên chế và ngân sách chi cho nó mà quan trọng hơn trong định hướng đó chúng ta dần dần có được một xã hội dân sự với tất cả bộ phận hợp thành của nó tạo nên cơ sở vật chất cho nhà nước pháp quyền.
3. Dân chủ về tư tưởng, chính trị đó là khát vọng của nhân dân, là mong muốn của Đảng. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều việc làm và cố gắng để hiện thực hoá điều này bằng việc đã tạo ra và giành nhiều cơ hội, cơ chế cho tự do ngôn luận và báo chí. Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến nhiều chiều của nhân dân ở dự án đường sắt cao tốc; dự án bauxite ở Tây Nguyên... là những thí dụ điển hình cho khẳng định đó. Tuy nhiên nếu tự do ở lĩnh vực này chỉ có thể phát triển theo chiều sâu và ngày càng thực chất hơn nếu chúng ta thừa nhận một nền báo chí tư nhân bên cạnh báo chí nhà nước giống như các doanh nghiệp tư nhân tồn tại, hoạt động bình đẳng bên cạnh doanh nghiệp nhà nước trong sự hướng dẫn và quản lý của pháp luật. Tư nhân hoá báo chí phải là tư duy chủ đạo của quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị, tinh thần của đất nước, của dân tộc. Điều đó phù hợp với tính quy định bản chất của tồn tại người trong thế giới hiện thực của tính đa nguyên ngày càng mở rộng.
4. Cuối cùng đó là sự đổi mới hệ thống chính trị , theo tôi đã trở thành cấp thiết và chính đáng  bởi toàn bộ  những hạn chế của nó đang bộc lộ làm suy yếu Đảng và nhà nước ta : đó là tính hình thức của nền dân chủ ngày càng gia tăng ;  công cuộc phòng chống tham nhũng gặp nhiều trở ngại nếu không muốn nói là bế tắc như một ĐBQH đã phàn  nàn như dòng văn học hiện thực phê phán . Quá trình đổi mới này không phải bắt đầu bằng việc làm trong sạch bộ máy Đảng (như ông Nguyễn Trần Bạt mong muốn ) .  Đành rằng sự trong sạch này là cần thiết . Nhưng uy tín và sức mạnh của một đảng cầm quyền là ở chỗ nó phải đáp ứng đựơc những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống và nguyện vọng phát triển  của  nhân dân bằng những dự án chính trị đầy lý tính .
Trong chiều hướng ấý sẽ là sai lầm khi ông Trần Bạt cho rằng cần phải luân chuyển quyền lực ( theo nghiã thừa nhận một chế độ chính trị đa đảng) và xem đó là điều kiện tiên quýêt khắc phục sự suy thoái của đảng và nói chung của dân tộc. Quá trình  này cũng  không thể bắt đầu từ con người, từ cán bộ - như ông Nguyễn Đình Hương đã đề xuất. (Bởi vì tư duy lý tính chỉ ra rằng cán bộ trong tư cách này -  và chỉ trong tư cách này thôi -  chính là một bộ phận không tách rời và luôn bị chi phối bởi cơ chế đó).
Tôi hiểu rằng một lực lượng chính trị xã hội chỉ trở thành quyền lực chính trị khi nó nắm giữ và chi phối quyền lực nhà nứơc . Vì cấu trúc trong tương quan tách rời với bộ máy nhà nước nên việc áp đặt , lấn sân của Đảng đối với nhà nước diễn ra thường xuyên là đương nhiên (là điều không thể khác được- bởi Đảng ta là một quyền lực chính trị).
Làm thế nào để công cuộc phòng chống tham nhũng không còn như dòng văn học hiện thực phê phán ;  làm thế nào để nhà nứơc - quyền lực của nhân dân không trở thành hình thức , thành vật trang trí mà quyền lãnh đạo của Đảng vẫn được bảo đảm theo hiến pháp ? … theo tôi , cùng với những nội dung đổi mới đã trình bày ở trên là sự đổi mới cơ chế , phương thức tổ chức và lãnh đạo của Đảng đối với nhà nứơc  . Đó phải là quá trình hoá thân quyền lãnh đạo của Đảng vào quyền lực nhà nước sao cho  mọi  đường lối, chủ trương của Đảng  được hình thành trực tiếp từ những cơ quan nhà nước này. Chỉ bằng con đường đó chúng ta mới khắc phục được cái hiện tượng “một trong hai và hai trong một” như ông Nguyễn Trung đã nêu ra. Và khi ấy chúng ta mới hy vọng có điều kiện xây dựng được một nhà nước pháp quyền XHCN. Còn không những tính chất hợp thành của nó chỉ tồn tại trên quan điểm, nguyên tắc và trên giấy là chủ yếu.
Đó cũng là con đường Đảng tìm thấy quyền lực của mình thực sự thuộc về nhân dân và ngược lại, nhân dân cũng tìm thấy quyền lực của mình ở nơi Đảng. Chỉ khi ấy sự thoái hoá về đạo đức, yếu kém về năng lực cũng như sự bất cập giữa lí thuyết và thực tiễn trong toàn bộ sự hoạt động của Đảng sẽ được khắc phục (dù đó là một quá trình có thể nói là vất vả…). Tôi cũng cho rằng khi ấy nhu cầu luật hoá Điều 4 và thể chế hoá chức danh Tổng bí thư mới có khả năng trở thành hiện thực vật chất.
Tôi tin tưởng (với một sức mạnh của lý tính) dự án chính trị trên đây sẽ tạo ra được một bước đột phá cho quá trình phát triển tiếp theo của dân tộc ta.

[1] - Cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An có lý khi nói về thể chế chính trị của ta có màu sắc quân chủ chuyên chế của một nhóm người.
- Xem bài phát biểu của ĐBQH Nguyễn Văn Thuận.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét