Theo Petrotimes
Hải chiến Hoàng Sa là một trận
chiến giữa Hải quân Việt Nam cộng hòa và Hải quân Trung Quốc từ 17 đến
19/1/1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Từ nguồn tài liệu của sách, báo trong nước và
nước ngoài, xuất bản từ 1974 đến 2004, Petrotimes sẽ giới thiệu với bạn đọc về
toàn bộ sự kiện này nhân 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1951, Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật
Bản, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam khi đó là Trần
Văn Hữu tuyên bố: cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh
thổ Việt Nam; và tuyên bố này không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51
nước tham dự hội nghị.
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam cộng hòa tiếp nhận chủ
quyền toàn bộ quần đảo này từ Quốc gia Việt Nam nhưng một phần quần đảo đã bị
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm giữ năm 1956 khi người Pháp rút đi, còn quân
đội Việt Nam cộng hòa chưa kịp trấn giữ. Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và
thực hiện chủ quyền được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra.
Sau trận chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cho đến nay.
Xung đột xảy ra trong bối cảnh nào?
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo. Nhóm đảo mà Việt Nam cộng hòa
bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết, Lưỡi
Liềm (Crescent Group); nhóm còn lại là nhóm An Vĩnh hay nhóm Bắc đảo
(Amphitrite Group) (bấy giờ quen gọi là “Tuyên Đức” – tên Trung Quốc của nhóm
An Vĩnh). Dưới thời Việt Nam cộng hòa đã có đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa do
Pháp xây, trực thuộc Ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy
quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island )
thuộc nhóm An Vĩnh.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm về
việc mở rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối
với các quần đảo và phạm vi 12 lãnh hải biển tương ứng với các đảo này, bao gồm
Nam Sa (tức Trường Sa), Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Sa (tức bãi
Macclesfield), quần đảo Bành Hồ (Pescadores). Vào thời điểm này, Trung Quốc là
đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam
dân chủ cộng hòa tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam cộng hòa và
Hoa Kỳ.
Ngày 22/9/1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt
Nam cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa nhưng không xảy ra
thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam cộng hòa cũng thiết lập một sân
bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Theo giáo sư Lý Hiểu Binh (Xiaobing Li), Đại học Central Oklahoma
trong bài viết gửi BBC cho rằng, từ năm 1969, Trung Quốc bắt đầu giảm viện trợ
quân sự và dân sự cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Liên Xô thay thế Trung Quốc
trở thành quốc gia hỗ trợ kinh tế, quân sự nhiều nhất cho Bắc Việt Nam . Điều này
khiến quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày càng lạnh nhạt,
thay vào đó Bắc Việt Nam xem Liên Xô là đồng minh quan trọng nhất. Cùng thời
điểm này, mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc xấu đi. Trung Quốc xem Hoa Kỳ
là cường quốc đang mất dần ảnh hưởng vì thất bại của họ tại Việt Nam, còn Liên
Xô bị Trung Quốc xem là “chủ nghĩa đế quốc Xô viết” nổi lên thành mối đe dọa
hàng đầu đối với Trung Quốc.
Một tài liệu của CIA ngày 12/8/1969 nhận định: “Gần như căng thẳng
Trung – Xô sẽ không thể nào giảm trong vòng hai ba năm tới. Vì quyền lợi quốc
gia xung đột nhau, vì sự cạnh tranh nhằm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế,
và sự lo sợ có thực về ý định của nhau sẽ khiến việc tiếp cận không thể xảy ra.
Vấn đề biên giới cũng sẽ không dễ giải quyết. Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có
nhiều cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ dọc biên giới Trung – Xô. Cả hai nước ở
tình trạng chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Sang đầu năm 1970, Liên Xô
triển khai tới 48 sư đoàn, tương đương gần một triệu quân dọc biên giới Trung
Quốc.
Còn Trung Quốc tập trung 6 triệu quân tại biên giới với Liên Xô.
Thậm chí còn có nguồn tin cho rằng, lãnh đạo Liên Xô đã tính đến việc dùng vũ
khí nguyên tử tấn công Trung Quốc nếu cần. Mối đe dọa từ Liên Xô đã thúc đẩy
lãnh đạo Trung Quốc bình thường hóa quan hệ Mỹ – Trung vào năm 1973”.
Bốn chiến hạm của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tham dự trận
hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa
(Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Senkaku (Sento Shosho hay Senkaku
Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan
và Trung Quốc; và cùng năm, Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân
Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng, Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong
chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ (Hạm đội
7). Theo nhận định của Hải quân Việt Nam
cộng hòa thì đây là “sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và là nguy cơ
cho Việt Nam
cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa”.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam cộng hòa
tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh
Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam
cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương
quân trấn giữ nhóm đảo Nguyệt Thiềm.
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội
kiến Mao Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung phản đối “bá quyền”
tại châu Á và Thái Bình Dương. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc
ở thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và
thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem
việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam cộng hòa.
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa,
Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam cộng hòa chiếm đóng
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam cộng hòa ra tuyên bố khẳng
định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của
Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam cộng hòa quyết
định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở bằng máy
bay hạng nặng C-47 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Ngày
16/1/1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam cộng hòa thăm dò một số đảo
Hoàng Sa trong việc chuẩn bị xây dựng sân bay nói trên thì phát hiện ra sự hiện
diện của Hải quân Trung Quốc và giao tranh xảy ra sau đó.
Lực lượng hai bên khi xung trận
Phía Việt Nam cộng hòa có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường
Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng
(HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân
Việt Nam cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa
phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia
trận chiến là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271,
Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và số
407. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân
lục chiến. Sau khi trận chiến đã kết thúc thì Liệp tiềm đĩnh số 282 và Liệp
tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện.
Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274 của Trung Quốc chụp
từ tàu của Việt Nam
cộng hòa trước khi nổ súng
Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274 của Trung Quốc chụp từ tàu
của Việt Nam
cộng hòa trước khi nổ súng
Về vũ khí trên các tàu, 2 chiếc Tuần dương hạm của Việt Nam
Cộng hòa trang bị 1 khẩu pháo 127 ly (5 inch) đặt tại boong trước, đằng sau của
khẩu đại pháo là giàn pháo 40 ly 2 nòng nằm một tầng cao hơn ngay dưới đài chỉ
huy. Hai bên hông đài chỉ huy là các khẩu đại bác 20 ly đôi (2 nòng). Tại boong
sau có các khẩu đại bác 40 ly đơn, một bên tả hạm, một bên hữu hạm. Vũ khí
chính của HQ-10 là khẩu pháo 76,2 ly đặt tại sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn tại
boong giữa và 4 đại bác 20 ly đặt hai bên hông đài chỉ huy và boong sau. Còn tàu
khu trục HQ-4 được trang bị radar phòng không (DER – Destroyer Escort Radar) và
hai giàn pháo 76,2 ly có radar điều khiển (radar control) với khả năng tự dò
tìm góc độ và tầm xa để “khóa chặt” (lock on) mục tiêu. Trong khi đó, tàu chống
ngầm lớp Krondstadt (Kronshtadt class submarine chaser) của Trung Quốc trang bị
1 pháo 85 ly và 2 pháo 37 ly điều khiển bằng tay.
Như vậy, xét tương quan lực lượng, mỗi bên có 4 chiến hạm trực
tiếp tham chiến. Việt Nam
cộng hòa có ưu thế là các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh
hơn, nhiều hơn so với tàu Trung Quốc. Tuy nhiên, nhược điểm của các tàu này là
cồng kềnh, vận chuyển chậm. Các chỉ huy Việt Nam Cộng hòa cũng không lập sẵn kế
hoạch cơ động tác chiến nếu có nổ súng, dẫn đến việc tác chiến bị động và 2 tàu
trong đội hình (HQ-5 và HQ-16) còn bắn nhầm vào nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét