Linh mục Giuse Vũ Thái Hòa
NỘI DUNG CÁC CÂU HỎI
1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu ?
Trong Giáo Hội Công Giáo, với phong
trào canh tân phụng vụ khởi phát ít lâu trước Công Đồng Vaticanô II
(1962-1965), được thảo luận rộng rãi trong Công Đồng, và dần dần được áp dụng
với những thay đổi mà ta đã thấy khá quen thuộc như hiện nay, người ta càng
ngày càng ý thức sâu sắc hơn về ý nghĩa đích thật của thánh lễ như là hành vi
cảm tạ, ngợi khen và hân hoan. Thật vậy, thánh lễ là hiến tế tạ ơn. Cách gọi
này đã xuất hiện từ lâu và gợi lên lịch sử của thánh lễ. Thánh lễ bắt nguồn
từ một nghi thức của Do-thái, nghi thức vọng lễ Vượt Qua, trong đó mỗi gia
đình người Do-thái dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã thương giải phóng dân tộc
của họ thoát khỏi ách nô lệ của Ai-cập, cảm tạ Người vì những cuộc giải cứu
khác về mặt thiêng liêng mà cuộc giải phóng đầu tiên này là dấu chỉ. Nghi
thức Vượt Qua cũng loan báo Đấng Cứu Tinh sẽ đến, là Đấng Thiên sai sẽ chiến
thắng sự chết và tội lỗi, và sẽ đưa Lịch Sử thánh đến sự hoàn tất.
Diễn tiến của nghi thức này cũng chính là diễn tiến mà chúng ta gặp trong
thánh lễ hôm nay : nhắc lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho dân
Người, tiếng hát và lời tạ ơn, chúc tụng và chia sẻ bánh, rượu.
Bạn đừng ngạc nhiên về những điểm giống nhau của thánh lễ với nghi thức Vượt
Qua của người Do-thái : bởi trong chính một buổi cử hành lễ Vượt Qua, Chúa
Kitô đã lập bí tích Thánh Thể. Thay vì chỉ chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa đã
ban cho bánh, rượu và mọi điều hạnh phúc, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, dâng
lời tạ ơn, bẻ ra và nói : "Này là Mình Thầy, chịu phó nộp vì các con :
các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy". Cũng vậy sau bữa ăn,
Người cầm lấy chén rượu và nói : "Chén này là Giao Ước mới trong máu Thầy
; mỗi lần các con uống, các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy"
(1 Cor 11, 23-25).
Như vậy, chúng ta thấy rõ bữa Tiệc Ly bắt nguồn từø một nghi thức tạ ơn của
người Do-thái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải phóng của dân riêng Thiên
Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của nghi thức này, Chúa Kitô lại làm phong
phú thêm bằng một ý nghĩa mới mang tầm vóc hoàn vũ. Chính Người, là Đấng Cứu
Tinh mà mọi người mong đợi, đang thực hiện cuộc giải phóng dân mới của Chúa,
tức là Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và sự phục sinh của Người. Từ bữa
Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa Cha, mỗi ngày và mọi nơi, của lễ hy
sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành
thánh lễ ra sao?
Các Tông Đồ và giáo dân tiên khởi
đã cử hành nghi thức "bẻ bánh" (danh từ các tín hữu thời ấy dùng để
nói đến thánh lễ) : "Hằng ngày, họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới
Đền Thờ, bẻ bánh ở tư gia và ăn uống đơn sơ, vui vẻ" (Công Vụ Tông Đồ 2,
46). Họ dùng bữa, với nghi thức "bẻ bánh", nay ở nhà người này, mai
tại nhà người kia. Cộng đoàn thời ấy được xem như là một "đền thờ sống
động".
Rất sớm, người ta đã thêm vào trong bữa ăn này những bài thánh ca, kinh
nguyện và những bài đọc Kinh Thánh.
Chỉ từ thế kỷ thứ IV, người ta mới nói đến "Lễ Misa" (xem chữ này ở
phần cuối : Giải thích một số từ phụng vụ). Vào thời ấy, sau khi hoàng đế
Constantinô trở lại đạo công giáo, người ta thấy xuất hiện những cộng đoàn
đông đảo Kitô hữu. Các nghi lễ phụng vụ chịu ảnh hưởng các nghi thức và lễ
hội của người Rôma. Y phục được dùng trong các buổi lễ thời đó là nguồn gốc
của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay. Dần dần, người ta không còn
ý thức về ý nghĩa của cộng đoàn và của bữa ăn mà trong đó Chúa Kitô chính là
lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau đó
thì mai một thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự vào hy lễ. Thánh lễ
trở thành một buổi trình diễn có tính cách thánh thiêng.
Vào thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô nơi
bánh thánh đưa đến việc trưng bày bánh thánh trên bàn thờ (Chầu Thánh Thể).
Việc linh mục giơ cao bánh đã được truyền phép xuất phát từ việc các tín hữu
ước mong được "nhìn" bánh thánh (khoảng từ năm 1200). Việc nâng cao
chén thánh được thêm vào sau đó.
Vào thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh
Thể đầu tiên. Tín hữu "ngắm nhìn" Thánh Thể nhưng ít khi rước lễ.
Phải chờ đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Piô X, họ mới ý thức lại việc rước
lễ "thường xuyên" (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Trong thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm 1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII
công bố thông điệp "Mediator Dei" (Đấng trung gian của Thiên Chúa)
nhằm canh tân phụng vụ dưới mọi phương diện, trong đó có việc mời gọi cộng
đoàn đối đáp với linh mục chủ tế.
Với Công Đồng Vaticanô II, người ta tìm lại được ý nghĩa sâu xa của thánh lễ,
được tất cảù mọi người cùng cử hành dưới sự chủ tọa của linh mục, là bữa tiệc
của Thiên Chúa và là nghi thức bẻ bánh. Cách đây không lâu, lòng tôn sùng
Thánh Thể vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá nhân, nay thì thánh lễ lại
trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.
3. Các phần trong thánh lễ như thế
nào ?
Thánh lễ gồm hai phần :
° Phụng vụ Lời Chúa.
° Phụng vụ Thánh Thể.
Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành một hành vi phụng tự duy
nhất. Thật vậy, thánh lễ là bàn tiệc gồm Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đây các
tín hữu được giáo huấn và bổ dưỡng.
Các nghi thức trước phần phụng vụ Lời Chúa (gồm bài ca nhập lễ, lời chào,
nghi thức sám hối, kinh Thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập lễ) đều
có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị.
Các nghi thức vừa kể trên nhằm giúp các tín hữu hiệp thông với nhau, chuẩn bị
tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa và cử hành thánh lễ cho xứng đáng.
A. Phụng vụ Lời Chúa
Phần chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài đọc trích từ Kinh Thánh, với
những bài thánh ca kèm theo. Còn bài giảng, lời tuyên xưng đức tin (kinh Tin
Kính) và lời nguyện giáo dân, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, có mục đích
khai triển và kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa.
B. Phụng vụ Thánh Thể
- Dâng lễ : chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở thành Mình và Máu
Chúa Kitô.
- Kinh Tạ Ơn : là trung tâm và là đỉnh điểm của thánh lễ (chúng ta sẽ khai
triển ở phần sau).
- Những nghi thức hiệp lễ : kinh Lạy Cha, chúc bình an, bẻ bánh, kinh Lạy
Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ.
Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức kết lễ : chào và ban phép lành, và
giải tán cộng đoàn giáo dân.
4. Linh mục đóng vai trò gì trong
thánh lễ?
° Giám mục hoặc linh mục chủ tọa
thánh lễ là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Điều
đó quả quyết rằng, lúc những người đã chịu phép Rửa tụ họp nhau lại, đó là
chính Chúa Kitô qui tụ và phán dạy họ, chính Người ban Mình của Người và xây
dựng Giáo Hội.
Nếu có nhiều linh mục đồng tế, thì chỉ có một vị chủ tế từ đầu đến cuối thánh
lễ. Vị chủ tế đó biểu tượng cho sự hiện diện của chính Chúa Kitô trong Giáo
Hội của Người.
° Khi đọc những lời nguyện, linh mục chủ tế luôn nhân danh cộng đoàn (sẽ đề
cập chi tiết hơn ở những câu hỏi sau).
5. Tại sao thánh lễ luôn được cử
hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến?
Bởi vì Chúa Giêsu đã phán dạy :
"Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19 ; 1 Cor 11,
24-25). Do đó, chúng ta thực hiện những gì mà Chúa Giêsu đã truyền cho chúng
ta phải làm để tưởng nhớ đến Người. Từ gần 2000 năm qua, chỉ có một vài thay
đổi nhỏ trong thể thức diễn tả mà thôi. Và cũng gần 2000 năm qua, người Kitô
hữu không ngừng tuyên đọc : "Trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu cầm lấy
bánh... cầm lấy chén rượu..." và họ cùng làm một cách thức như thế.
Trong thánh lễ, chúng ta không cử hành bữa Tiệc Ly, nhưng là cử hành sự chết
và sự sống lại của Chúa Giêsu. Để thực hiện điều đó, chúng ta dựa trên cử chỉ
và lời nói của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc Ly. Có tất cả bốn cử chỉ : "Chúa
Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ". Toàn phần
phụng vụ Thánh Thể tóm gọn trong đó :
° Chúa Giêsu cầm lấy bánh (và rượu) : đây là phần Dâng lễ.
° tạ ơn : kinh Tạ Ơn.
° bẻ ra : nghi thức bẻ bánh.
° và trao cho cho các môn đệ : rước lễ.
Sự "tưởng nhớ" của thánh lễ không chỉ là một kỷ niệm, nhưng là tác
động bí tích, qua đó, điều Chúa Kitô đã thực hiện một lần duy nhất trong quá
khứ được ban cho chúng ta thực sự trong hiện tại của đức tin Kitô giáo.
Về vấn đề tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta có thể đặt câu hỏi : tại
sao không cử hành thánh lễ ngày thứ năm, vì Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh
Thể ngày thứ năm Tuần Thánh ?
Chúa nhật là ngày ưu tiên để cử hành thánh lễ, vì đó là ngày Chúa Phục Sinh.
Và thánh lễ chỉ có thể cử hành khi Chúa Kitô đã sống lại. Thánh Phaolô có nói
: "Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì lời giảng dạy của chúng tôi là hư
vô và đức tin của anh em là mơ hồ" (1 Cor 15, 14). Nói cách khác, nếu
Chúa Kitô không sống lại, thì không có đức tin, không có Giáo Hội và cũng
không có các bí tích.
Như thế, cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật có một ý nghĩa thần học rất quan
trọng. Thánh lễ không phải là sự lặp lại của bữa Tiệc Ly. Cử hành thánh lễ
ngày Chúa nhật xác định rằng đó là sự tưởng niệm sự chết và sự sống lại của
Chúa Kitô. Chính trong buổi tối Phục sinh mà hai môn đệ, trong nhà trọ tại
làng Emmau, đã nhận ra Chúa Sống Lại khi Người bẻ bánh (Lc 24, 13-35).
Sau cùng, Chúa nhật là ngày toàn Dân Chúa dâng lời tạ ơn, tán tụng lên Thiên
Chúa, cảm tạ Người đã chiến thắng sự chết.
6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài
trắng, áo lễ và đeo dây các phép ?
° Áo dài trắng (cũng gọi là áo
Alba) là loại áo chùng dài màu trắng với hai ống tay rộng, được mặc bên
trong.
° Dây các phép (cũng gọi là dây Stola) là một dải vải dài, thường cùng màu
với áo lễ. Giám mục và linh mục mang dây các phép chung quanh cổ và rủ xuống
phía trước, còn thày phó tế thì đeo chéo vai. Cách đeo dây các phép cho phép
ta dễ nhận ra phẩm trật của các chức thánh (giám mục, linh mục, phó tế).
° Áo lễ, rất rộng phủ ngoài áo dài trắng. Màu áo thì tùy theo mùa phụng vụ
hoặc theo ngày lễ : đỏ, xanh, tím, trắng (hoặc vàng).
Phó tế chỉ mặc áo trắng và dây các phép (chéo vai).
Trong Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, các chi thể không thi hành cùng một
chức vụ như nhau. Khi thi hành việc phụng tự, sự khác biệt về chức vụ được
biểu lộ ra bề ngoài nhờ sự khác biệt về phẩm phục. Do đó phẩm phục là dấu chỉ
của mọi thừa tác viên. Hơn nữa, phẩm phục thánh làm tăng vẻ trang trọng của
chính nghi lễ phụng vụ.
Nếu linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép trong thánh lễ,
chính chỉ vì muốn cho mọi người biết rằng linh mục nói và hành động không
phải với danh nghĩa cá nhân của mình, nhưng là nhân danh Đức Giêsu Kitô.
7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các
phẩm phục phụng vụ ?
Mỗi màu sắc mang một ý nghĩa :
Màu tím, màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi, được dùng trong Mùa
Chay và Mùa Vọng. Người ta cũng dùng màu tím trong thánh lễ và các nghi thức
phụng vụ cầu cho những kẻ đã qua đời (trước Công Đồng Vaticanô II, dùng màu
đen).
Màu đỏ là màu máu và lửa, được dùng trong ngày Chúa nhật Thương khó (lễ Lá),
thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong các cử hành cuộc
thương khó của Chúa, trong lễ kính các thánh Tông đồ, các thánh sử Tin Mừng
và trong các lễ kính các thánh tử đạo.
Màu trắng (có thể được thay thế bằng màu vàng) gợi lên sự trong sạch, tinh
tuyền, nhất là vinh quang của Thiên Chúa, được dành cho các nghi thức phụng
vụ và các thánh lễ Mùa Phục Sinh và Mùa Giáng Sinh ; cũng dùng trong các lễ
kính, lễ nhớ về Chúa không phải là lễ kính nhớ cuộc thương khó của Người ;
các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không phải là thánh tử đạo. Màu
trắng còn diễn đạt sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như sự phục sinh của chúng
ta sau này. Nơi bàn tiệc thiên quốc những người được tuyển chọn đều mặc y
phục trắng toát (xem sách Khải Huyền 7, 9).
Màu xanh lá cây được dùng trong các thánh lễ trong Mùa Thường Niên hoặc Quanh
Năm. Màu xanh lá cây là màu của niềm hy vọng và của sự sống. Khi thấy vị linh
mục tiến lên bàn thờ trong phẩm phục màu xanh, điều đó cho chúng ta nghĩ rằng
chúng ta là những người có niềm hy vọng lớn lao, là đoàn lữ hành đang được
Chúa Kitô dẫn đến những cánh đồng cỏ xanh tươi của miền đất hứa...
Màu hồng được sử dụng hai lần trong năm (Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa nhật
IV Mùa Chay) để mời gọi tín hữu hưởng niềm vui thầm kín và an lành trong niềm
trông đợi Đấng Cứu Tinh hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa Kitô phục sinh.
Tại Việt Nam, màu hồng thường được dùng trong thánh lễ hôn phối, trong bầu
khí vui tươi, để diễn đạt tình yêu nam nữ, là hình ảnh của tình yêu Chúa Kitô
với Giáo Hội của Người.
8. Tại sao khi bước vào nhà thờ,
người ta làm dấu thánh giá với nước thánh ?
Bình nước thánh đặt nơi cửa nhà thờ
mời gọi người tín hữu lấy tay chấm nước thánh và làm dấu thánh giá để nhắc họ
nước của bí tích Thánh Tẩy.
Trong đêm Phục sinh, nghi thức rảy nước thánh đi kèm với việc cộng đoàn lặp
lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Nghi thức an táng cũng dùng nước thánh để nhắc nhở rằng bí tích Thánh Tẩy mở
đường và dẫn đến đời sống vĩnh cửu : những người tham dự được mời rảy nước
thánh để tỏ cử chỉ thân thiện và niềm hy vọng.
9. Tại sao thánh lễ thường bắt đầu
bằng một bài hát ?
Ca hát là cách diễn tả thông thường
của bất cứ lễ hội nào. Và việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội
Bài hát nhập lễ nhằm xóa tan sự lạnh lùng của mỗi người chúng ta và kết hợp
chúng ta thành một cộng đoàn tình thương và sống động.
Hát là dấu chỉ niềm hân hoan trong tâm hồn. Chúng ta hát để diễn tả sự hiệp
nhất của cộng đoàn tham dự và để nói lên rằng chúng ta vui sướng được gặp lại
nhau, như Thánh vịnh 132 đã biểu lộ :
"Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống sum vầy bên nhau !"
Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu tiên của thánh lễ
là sự tập họp của đoàn dân Chúa.
10. Tại sao linh mục cúi hôn bàn
thờ ?
Bàn thờ là nơi quan trọng nhất của
nhà thờ, là trung tâm điểm của phụng vụ Thánh Thể.
Sở dĩ bàn thờ được coi là quan trọng, vì đó là nơi Thiên Chúa và con người
gặp gỡ, liên kết với nhau, là nơi mà Thiên Chúa đến với loài người và loài
người đến với Thiên Chúa. Bàn thờ cũng tượng trưng cho Chúa Kitô, mối giao
tiếp tuyệt hảo của sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa, bởi vì trong ngôi
vị của Chúa Kitô, vừa có bản tính Thiên Chúa, vừa có bản tính loài người.
Hơn nữa, Tân Ước xác quyết rằng Chúa Giêsu là "viên đá góc tường"
dựa trên đó tất cả được xây dựng (Ep 2, 20). Do đó, bàn thờ bằng đá hoặc chứa
đựng một viên đá trên đó biểu tượng cho Chúa Kitô.
Đối với người Do-thái, bàn thờ vừa là nơi tế lễ, vừa là chỗ thiết tiệc, là
nơi mà con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và giải khát.
Nếu bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm lạ khi thấy vị
linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu thánh lễ. Đó là cử chỉ tôn kính đối với
Chúa Kitô và đối với hy lễ của Người.
11. Dấu thánh giá mang ý nghĩa gì ?
"Nhân danh Chúa Cha, và Chúa
Con, và Chúa Thánh Thần. Amen". Thánh lễ bắt đầu bằng dấu thánh giá, là
một trong những dấu hiệu Kitô giáo cổ xưa nhất, và là dấu hiệu tuyệt hảo của
người Kitô hữu.
Khi làm dấu thánh giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô, bày tỏ
niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô đã chết trên thánh giá vì chúng ta, chúng
ta nói lên lòng ước muốn đón nhận sự phong phú khôn lường của thánh giá và
ước muốn liên kết đời sống chúng ta với đời sống của Chúa Kitô chết trên
thánh giá. Vậy, thánh giá quả là dấu chỉ sự cứu độ, sự cứu chuộc và sự phục
sinh. Dấu thánh giá còn nhắc chúng ta về bí tích Thánh Tẩy của mình, bởi
chúng ta đã được rửa tội "nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh
Thần".
Dấu thánh giá là biểu thức của chính đức tin Kitô giáo, đó là sự hiện hữu của
Thiên Chúa tình yêu được mạc khải bởi đời sống của Chúa Kitô. Do đó người ta
hiểu tại sao các Kitô hữu thường làm dấu thánh giá và luôn luôn bắt đầu một
nghi thức phụng vụ bằng dấu thánh giá.
Trong thánh lễ, nhiều lần bạn đáp
Amen sau những lời nguyện mà linh mục chủ tế thay mặt cộng đoàn tuyên đọc.
Thí dụ :
- "Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến
sự sống muôn đời. - Amen".
- "... đến muôn thuở muôn đời. - Amen".
Amen là một chữ do-thái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường dùng Amen để kết
thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng đã sử dụng, không những lúc Người
cầu nguyện, mà còn cả trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi bật chân lý
Người nói : "Amen - Thật - Ta bảo thật các ngươi..." Chúng ta thường
gặp ngôn thức này trong Tin Mừng.
Trước kia, sau các lời nguyện, người ta thưa "Ước gì được như vậy".
Bây giờ người ta thích dùng chữ Amen hơn, vì Ước gì được như vậy không thể
diễn tả hết được sự phong phú của chữ Amen.
Khi thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như vậy, mà còn xác
nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi vị linh mục công bố :
"Mình Thánh Chúa Kitô" và tín hữu thưa "Amen". Chữ Amen ở
đây có nghĩa "Vâng ! Tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình
bánh này". Đó là một điều chắc chắn !
Khi bạn thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều đó không chỉ có
nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó được chấp nhận, nhưng còn nói lên
rằng : lời nguyện đó cũng là lời nguyện của chính bạn, và bạn muốn tháp nhập
vào đó với hết tâm tình.
Hơn thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự trung tín của
Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng. Bởi vì
căn gốc của chữ do-thái này có ý nghĩa sự trung thành, trung tín. Như thế, khi
thưa Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa, như lời thánh Phaolô :
"Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho rằng lời nói của chúng
tôi đối với anh em, không phải là vừa "Có" lại vừa
"Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng
tôi đã rao giảng nơi anh em, [...], nơi Người chỉ là "Có" mà thôi.
Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi
Người. Vì thế nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời "Amen" tôn vinh
Thiên Chúa" (2 Cor 1, 18-20).
13. Tại sao, sau Công Đồng Vaticanô
II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn ?
Đây là một trong những cải cách
phụng vụ thấy rõ nhất của Công Đồng Vaticanô II.
Thời thượng cổ, hầu hết các nhà thờ được xây hướng về phía đông, hướng mặt
trời mọc, nơi tượng trưng cho sự Sống Lại. Hướng về phía đông khi cầu nguyện
là một cách muốn cho hiểu rằng cộng đoàn cùng với linh mục chủ tế ngỏ lời với
Chúa Kitô phục sinh.
Chúng ta cũng biết rằng người Do-thái hướng về thành Giêrusalem khi cầu
nguyện, và người hồi giáo hướng về thành La Mecque.
Sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế không quay lưng vềà phía cộng đoàn
như theo truyền thống nữa, mà quay mặt về cộng đoàn trong suốt thánh lễ.
Thông thường, chúng ta đối diện với người nào đó khi nói chuyện. Do đó thật
là hợp lý khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn : chào đầu lễ, bài giảng...
Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa Kitô nói với dân Người.
Nhưng khi cầu nguyện thì sao ? Khi cầu nguyện, tất cả cùng thưa với Chúa. Do
đó chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh mục đứng đối diện với cộng đoàn.
Thật ra, bàn thờ được đặt giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt vị trí như
thế có nghĩa là : Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở giữa chúng ta, như
lời hứa của Chúa Kitô : "Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy,
thì có Thầy ở giữa họ." (Mt 18, 20). Thánh Phaolô có nói : "Đức
Kitô ở giữa anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang !" (Col 1, 27).
14. Các bài đọc được chọn lựa như
thế nào ?
° Trong thánh lễ ngày Chúa nhật, có
ba bài đọc : bài đọc I trích từ Cựu Ước (trừ Mùa Phục Sinh, vì từ Chúa nhật
Phục Sinh cho đến Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghe đọc
sách Tông Đồ Công Vụ), bài đọc II thường là một đoạn thư của thánh Phaolô hay
của một Tông Đồ khác, còn bài đọc III thì luôn luôn là một đoạn Tin Mừng
(Phúc Âm).
Các bài đọc Cựu Ước kể cho chúng ta nghe công trình của Thiên Chúa trước khi
Chúa Kitô giáng trần. Bài Tin Mừng thuật lại các việc làm, cử chỉ và giáo
huấn của Chúa Giêsu. Còn bài đọc II cho chúng ta biết tư tưởng và đời sống
của các Kitô hữu tiên khởi.
Trong thánh lễ các ngày Chúa nhật Mùa Vọng, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, cũng như
các ngày lễ trọng (Giáng Sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống...), cả ba bài đọc
đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về tư tưởng. Một sứ điệp được công bố
dưới ba khía cạnh khác nhau.
Còn vào các ngày Chúa nhật khác mà ta gọi là Chúa nhật Thường Niên hay Quanh
Năm, bài đọc I được chọn hợp với ý nghĩa của bài Tin Mừng. Mục đích để làm
nổi bật sự hợp nhất của Cựu Ước và Tân Ước, của lịch sử cứu độ mà Chúa Kitô
là trung tâm. Nếu có liên hệ tư tưởng với bài đọc II, thì chỉ là tình cờ mà
thôi, vì bài đọc II theo một chu kỳ riêng biệt.
Các bài đọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng theo ý nghĩa thần
học và có tính cách sư phạm : trước tiên chúng ta nghe chứng từ của các bậc
tiền bối trước thời Chúa Giêsu (bài đọc Cựu Ước) ; kế tiếp, chứng từ của các
vị đã tiếp nhận sự mạc khải của Chúa Kitô phục sinh (bài đọc Tân Ước) ; và
sau cùng là lời của chính Chúa Kitô (Tin Mừng).
Trước Công Đồng Vaticanô II, chỉ có hai bài đọc và được lặp lại mỗi năm. Bây
giờ, trong mỗi thánh lễ Chúa nhật, chúng ta có ba bài đọc, được đọc lại sau
một chu kỳ ba năm có tên năm A, năm B, năm C. Năm A đọc Tin Mừng theo thánh
Mát-thêu ; năm B, thánh Mác-cô ; năm C, thánh Lu-ca ; còn Tin Mừng theo thánh
Gio-an được đọc mỗi năm trong Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Như vậy, Giáo Hội cho
đọc nhiều bài Thánh Kinh hơn trước rất nhiều. Chúng ta có thể nghe gần như
trọn vẹn sách Tin Mừng.
° Thánh lễ trong tuần chỉ có hai bài đọc : bài đọc I trích từ Cựu Ước hoặc
Tân Ước (trừ Tin Mừng), bài đọc II luôn là một đoạn Tin Mừng, được phân phối
như sau : trong các tuần 1-9 Quanh Năm, đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô ;
trong các tuần 10-21, theo thánh Mát-thêu ; và trong các tuần 22-34, theo
thánh Lu-ca. Trong các Mùa khác, bài Tin Mừng được chọn theo tính chất đặc
biệt của mỗi Mùa.
Trong Mùa Thường Niên, bài đọc I có chu kỳ hai năm (năm chẵn và năm lẻ), bài
đọc II (Tin Mừng) có chu kỳ một năm. Các Mùa khác, bài đọc I và II đều có chu
kỳ một năm.
15. Bài Thánh vịnh có vai trò gì ?
Bài Thánh vịnh (hoặc bài thánh ca
trích trong Kinh Thánh) được chọn theo ý tưởng của bài đọc I. Đó là sự đáp
lại của cộng đoàn đối với Lời Chúa mà cộng đoàn vừa nghe (vì thế có tên là
Đáp ca hay Thánh vịnh đáp ca), như là lời đáp lại với chính Thiên Chúa vừa
phán dạy trong bài đọc I.
Thông thường, Thánh vịnh, và đặc biệt là câu đáp của Thánh vịnh, lặp lại một
lời, một ý nào đó vừa được công bố. Thí dụ, nếu bài đọc I mời gọi lắng nghe
tiếng Chúa và thực hành những giáo huấn của Người, thì hầu như như câu đáp
của Thánh vịnh sẽ là : "Lạy Chúa, Lời Ngài là chân lý, và luật Ngài là
sự giải thoát cho chúng con".
16. Tại sao phải đứng lên khi nghe
công bố Tin Mừng ?
Trong thánh lễ, cộng đoàn ngồi khi
nghe đọc hai bài Sách Thánh đầu tiên cũng như khi hát hoặc đọc Thánh vịnh.
Nhưng chúng ta đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng, vì là bài đọc quan trọng
hơn cả.
Các bài Tin Mừng chứa đựng chính lời của Chúa Giêsu. Khi linh mục đọc Tin
Mừng trong thánh lễ, chính Chúa Kitô đang hiện diện và nói với chúng ta. Tin
Mừng thuật lại các việc và hành động của Chúa Giêsu. Do đó, khi nghe công bố
Tin Mừng, chúng ta đứng lên để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu, tôn kính những
giáo huấn của Người, cũng như mọi việc Người làm.
17. Tại sao phải làm tới ba dấu
thánh giá trước khi nghe Tin Mừng ?
Khi linh mục loan báo sẽ đọc bài
Tin Mừng nào đó (Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô,
thánh Lu-ca hay thánh Gio-an), chúng ta tuần tự làm một dấu thánh giá trên
trán, một trên môi miệng và một trên ngực. Tập tục này có từ thế kỷ thứ XI và
mang nhiều ý nghĩa phong phú.
Làm ba dấu thánh giá như thế để xin Chúa ban ơn và chúc lành cho chúng ta.
Qua dấu thánh giá trên trán, trên môi và trên ngực, chúng ta cầu xin cho lời
Tin Mừng, mà chúng ta sắp nghe, thấm nhập trọn vẹn trong con người, bám rễ
sâu trong trí khôn và trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta cũng xin cho trí
tuệ của mình được soi sáng để thông hiểu Lời Chúa và cho tâm hồn được sưởi ấm
để đón nhận Tin Mừng.
Khi làm ba dấu thánh giá, chúng ta có thể đọc thầm lời nguyện như sau :
"Xin Lời Chúa mở rộng lòng trí con, cho miệng lưỡi con biết công bố Lời
Ngài, cho con biết giữ Lời Ngài trong tâm hồn con và thực thi Lời Ngài".
18. Tại sao đọc kinh Tin Kính ?
Trong thánh lễ, một trong những
giây phút liên hệ chặt chẽ với Lời Chúa, đó là lúc đọc kinh Tin Kính hay lời
tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính được đọc trong các lễ chúa nhật và lễ trọng
như là sự chấp nhận và đáp lại Lời Chúa mà giáo dân đã nghe trong các bài đọc
và bài giảng.
Kinh Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin Kitô giáo. Đọc kinh
Tin Kính là dấu chỉ nhìn nhận đức tin của mọi Kitô hữu.
19. Đâu là ý nghĩa của Lời nguyện
tín hữu ?
Tiếp sau phần Tuyên xưng đức tin là
phần lời nguyện tín hữu, hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân.
Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ
ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự thánh
lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2, 1).
Trong lời nguyện tín hữu, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp đập với
mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với những khổ đau,
lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này.
Lời nguyện tín hữu phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn
cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người.
20. Quyên tiền có phải là nghi thức
thừa thãi không ?
Một số người không thích quyên tiền
trong các thánh lễ Chúa nhật, vì việc ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện.
Phải chăng đó là hành vi quá vật chất và trần tục trong khung cảnh hoàn toàn
thiêng liêng ?
Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là sự tổng hợp của hai cách thực
hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo :
° Một đàng, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh lễ. Các lễ vật này
được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế đón nhận để dâng lên Thiên Chúa. Đó
là nguồn gốc của phần Dâng Lễ và lời nguyện tiến lễ (lời nguyện trên lễ vật).
Từ thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền mặt có vẻ tiện lợi hơn, nên
việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng việc quyên tiền. Việc quyên tiền này
trong thánh lễ là dấu chỉ sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ
cũng như lễ vật của mỗi người. Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ, hiện vẫn
còn được thực hiện tại một vài miền và vào các dịp lễ lớn, giữ lại dấu vết
của tục lệ cổ xưa này.
° Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ vũ
ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội và của người
nghèo.
Do đó việc quyên tiền trong thánh lễ là một trong những phương cách thể hiện
lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình liên đới với tha nhân.
21. Tại sao chủ tế đổ ít nước vào
rượu ?
Ngày xưa, tại các xứ vùng biển Địa
Trung Hải, người ta có thói quen pha một chút nước vào rượu, thường nặng và
gắt.
Vào bữa Tiệc Ly (bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi
chịu tử nạn), phải chăng Chúa Giêsu đã pha chút nước vào rượu nho ? Có thể
như vậy, tuy không có một tài liệu nào xác quyết việc này cả. Nhưng từ thế kỷ
thứ II, người ta có thể xác định chắc chắn có việc pha nước vào rượu trong
thánh lễ.
Nghi thức này có ý nghĩa rất hay : đó là dấu chỉ mối liên quan chặt chẽ giữa
thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô ; đồng thời, là sự liên kết chặt chẽ
của chúng ta (tượng trưng bởi nước) với Chúa Kitô (rượu nho) làm thành lễ vật
dâng trong trong thánh lễ. Chúa Kitô không tự hiến tế một mình, nhưng liên
kết với Giáo Hội mà chính Người là đầu.
Ý nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong lời cầu nguyện
của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho : "Cũng như giọt nước này
hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của
Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con".
22. Cử hành thánh lễ với loại rượu
nho nào ?
Qui luật duy nhất là dâng thánh lễ
với rượu nho tự nhiên và nguyên chất, nghĩa là không pha trộn với chất nào
khác.
Tại nhiều xứ không trồng nho được, người ta sử dụng rượu nho tự nhiên có nồng
độ hơi cao một tí, như rượu Porto chẳng hạn,
để có thể giữ được lâu.
Trước thế kỷ thứ XVI, người ta thường dùng rượu nho đỏ (hiện nay, phụng vụ
theo truyền thống Byzance, bên Đông Phương, vẫn còn duy trì tập tục này). Vào
thế kỷ thứ XVI tại Tây Phương, khi người ta bắt đầu dùng khăn lau để tráng
chén lễ, người ta thích dùng rượu nho trắng hơn để dâng lễ vì ít để vết.
23. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối
phần Dâng lễ ?
Dù không được coi là quan trọng
trong thánh lễ, nghi thức này không thiếu ý nghĩa sâu sắc.
Rửa tay trước khi làm một việc gì cần sự sạch sẽ đặc biệt, đó là chuyện tự
nhiên. Vì thế bạn không nên ngạc nhiên khi thấy vị chủ tế rửa tay, để chuẩn
bị cầm bánh và rượu sẽ được truyền phép để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
Nghi thức rửa tay đã có từ thế kỷ thứ IV. Vào thời kỳ này, người ta còn đem
đến cho vị chủ tế không những bánh và rượu để được truyền phép, mà cả những
sản phẩm cần dùng khác để các thầy phó tế phân phát cho người nghèo sau thánh
lễ.
Hơn nữa, việc rửa tay cũng cần thiết sau khi chủ tế xông hương lễ phẩm và bàn
thờ (nghi thức xông hương muốn nói lên rằng lễ phẩm và lời cầu nguyện của
Giáo Hội cũng ví như hương trầm bay lên trước nhan thánh Chúa).
Tuy nhiên ngay từ đầu, nghi thức rửa tay luôn có một ý nghĩa thiêng liêng, đó
là dấu hiệu của việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì nước là dấu chỉ của sự thanh
tẩy.
Khi rửa tay, vị chủ tế đọc lời Thánh vịnh 50, câu 4 : "Lạy Chúa, xin rửa
con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy".
Cho dù mọi tín hữu có thể thông dự vào việc thanh tẩy này, nghi thức rửa tay
chỉ dành riêng cho chủ tế, vì người ta hiểu rằng, trong chốc lát, vị chủ tế
sẽ hành tác nhân danh Chúa Kitô.
Kinh Tạ Ơn (trước đây gọi là Kinh
nguyện Thánh Thể) là kinh nguyện quan trọng nhất trong thánh lễ. Đó là trung
tâm điểm của bí tích Thánh Thể. Không có kinh Tạ Ơn thì không có thánh lễ.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn, nghĩa là Người
đọc kinh Tạ Ơn (xem Lc 22, 19).
Kinh Tạ Ơn khởi đầu bằng lời mời cộng đoàn hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và
tạ ơn Thiên Chúa :
° Chúa ở cùng anh chị em. - Và ở cùng cha.
° Hãy nâng tâm hồn lên. - Chúng con đang hướng về Chúa.
° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. - Thật là chính đáng.
Hãy tạ ơn Chúa ! Đó là lời quan trọng nhất. Tạ ơn Chúa là mục đích chính của
thánh lễ. Tham dự thánh lễ là tạ ơn Chúa cả trời đất vì bao kỳ công của Người
hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Kinh Tạ Ơn luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha.
Cấu trúc kinh Tạ Ơn :
Chúng ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ cấu trúc của
kinh Tạ Ơn. Để tham khảo, tôi đề nghị bạn tìm đọc kinh Tạ Ơn
II trong cuốn sách lễ nào đó. Sau đây là cấu trúc :
1. Đối thoại mở đầu : đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn, mà chúng ta vừa
nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn.
2. Lời Tiền Tụng : linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng đoàn tán tụng Chúa
Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình cứu chuộc cho nhân loại, hoặc về lý
do nào đặc biệt, tùy ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau. Lời Tiền Tụng cũng làm
nổi bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
3. Kinh "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !" : toàn thể cộng đoàn, hợp với
các thần thánh trên trời, hát hay đọc "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !"
Đây là lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh danh Chúa Cha.
4. Kinh khẩn cầu : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, dùng quyền
năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là làm trở thành Mình và Máu Chúa
Kitô.
5. Lời truyền Phép : linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại những lời Người đã
nói trong bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong
bữa tối sau cùng này, ban cho các Tông Đồ Mình và Máu Người, dưới hình bánh
và hình rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải làm cho mầu nhiệm này
tồn tại mãi.
6. Kinh tưởng niệm : sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng niệm toàn bộ công
trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là việc tưởng niệm cuộc khổ hình, phục
sinh, lên trời của Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh tưởng niệm
được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn : "Lạy Chúa, chúng con loan
truyền Chúa đã chịu chết..."
7. Kinh khẩn cầu (2) : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau
khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các tín hữu được lãnh nhận ơn cứu độ và
được hiệp nhất trong Hội Thánh, là thân thể sống động của Chúa Kitô.
8. Lời chuyển cầu : sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời cầu xin, cho Giáo
Hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ sống cũng như đã qua đời, v.v...
trong niềm hiệp thông với các thánh.
9. Vinh tụng ca : cuối kinh Tạ Ơn, một lần nữa linh mục dâng lời tôn vinh
Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
10. Amen ! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kinh Tạ Ơn bằng cách xướng hoặc hát
Amen ! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được đọc
trong kinh Tạ Ơn.
Như thế, thánh lễ, nhất là trong kinh Tạ Ơn, trở thành tổng hợp và khuôn mẫu
cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía cạnh, cho mọi nhu cầu, bắt đầu
bằng lời tụng ca và lời tạ ơn lên Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ơn
lành. Thực sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận những hồng ân đó,
nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.
25. Tại sao chỉ có một mình linh
mục đọc kinh Tạ Ơn ?
Kinh Tạ Ơn không phải là kinh
nguyện của một mình linh mục, nhưng là của toàn thể cộng đoàn. Bằng chứng là,
khi đọc kinh Tạ Ơn, linh mục không dùng chữ "con" nhưng là
"chúng con". Thí dụ trong kinh Tạ Ơn II, ta thấy những câu như sau
:
° "Vì thế, chúng con xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ
này..."
° "Giờ đây tưởng nhớ... chúng con dâng lên Cha bánh trường sinh và chén
cứu độ này..."
° "Sau hết, xin Cha rộng lòng thương xót cho tất cả chúng con..."
Vị linh mục không tách rời với cộng đoàn ; ngài liên kết với cộng đoàn và
nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có lúc linh mục phát biểu nhân
danh Chúa Kitô : đó là lúc ngài đọc lời truyền phép Thánh Thể. Nhưng hầu hết,
ngài phát biểu nhân danh cộng đoàn.
Như thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cả cộng
đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do đó nếu nói rằng kinh Tạ Ơn là việc dành
riêng cho linh mục mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một mình linh mục đọc
hầu hết kinh Tạ Ơn, nhưng ngài nhân danh mọi người mà làm. Kinh nguyện này
không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là kinh nguyện chung của toàn
cộng đoàn. Lời thưa "Amen" của cộng đoàn diễn tả điều đó (đã đề cập
ở câu hỏi trước).
26. Chúc bình an, một hành vi xã
giao mà thôi ?
Khi vị chủ tế chúc : "Bình an
của Chúa hằng ở cùng anh chị em", cộng đoàn thưa : "Và ở cùng
cha".
Và chủ tế nói thêm : "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau". Bạn
đừng nghĩ rằng việc chúc bình an ở đây cũng giống như việc thân hữu ngoài đời
trao tặng cho nhau. Không, đây là một sự hòa giải. Thật vậy, trong Bài giảng trên
núi, Chúa Giêsu nói rõ rằng trước khi thực hiện mọi hành vi phụng tự, cần
phải làm hòa với anh chị em mình trước đã : "Nếu ngươi đang dâng của lể
nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì
ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi
trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ " (Mt 5, 23-24). Do đó, trong
phụng vụ Đông Phương, nghi thức chúc bình an vẫn còn được đặt trước kinh Tạ
Ơn, cũng như tại Tây Phương trong thời gian đầu. Việc thực hành nghi thức
chúc bình an đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Sau Công Đồng Vaticanô II, nghi
thức này lại được lồng vào trong thánh lễ. Một số người không thích cho lắm,
vì họ nghĩ rằng : ngoài các cử chỉ, di động phiền toái, lại còn thiếu sự thân
mật giữa các tín hữu đang tham dự thánh lễ.
Thật ra, nghi thức chúc bình an trước tiên có một ý nghĩa thiêng liêng. Thánh
lễ là nơi mà tất cả tín hữu khám phá và nhận ra mình là con cái của cùng một
Cha, do đó tất cả là anh chị em với nhau. Nói lên điều đó không thôi thì chưa
đủ, cần phải được thể hiện cụ thể. Cử chỉ chúc và trao bình an là một trong
những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó chúng ta biểu lộ rằng chúng ta là con cùng
một Cha.
Nhưng đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn, bởi vì cử chỉ này
đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình và coi người khác như là
người mà ta phải tôn trọng và yêu thương. Trong một vài trường hợp, để chúc
bình an một cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ trong lòng trước đã,
người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc này không dễ dàng gì !
Việc chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình thường thôi, bởi
vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô và nói rằng chúng ta yêu mến
Người, trong khi chúng ta từ chối hướng mặt về người anh chị em đang ở bên cạnh
chúng ta ? "Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem thấy, thì không
thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được" (1 Gioan 4, 20).
Như thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu
chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi dân tộc) không phải là cử chỉ xã
giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong sự bình an và tình yêu thương
nhau. Và sự bình an này do Chúa Kitô ban tặng ("Bình an của Chúa hằng ở
cùng anh chị em"). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán : "Thầy để lại bình
an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con
không như thế gian ban tặng" (Gioan 14, 27). Do đó, sự bình an này rộng
lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn
hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.
27. Nghi thức bẻ bánh có ý nghĩa gì
?
Nghi thức bẻ bánh lập lại cử chỉ
của Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly : "Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho
các môn đệ". Vào thời các Tông đồ, thánh lễ được gọi là việc "bẻ
bánh". Thánh Phaolô giải thích : "Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng
phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta
tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta
thông phần vào một tấm bánh" (1 Cor 10, 16-17).
Cử chỉ bẻ bánh thể hiện rõ ràng giá trị và tầm quan trọng của dấu hiệu hiệp
nhất của mọi người trong cùng một tấm bánh, và của dấu hiệu yêu thương trong
việc mọi người cùng chia với nhau tấm bánh duy nhất.
Trước đó, kinh Tạ Ơn đã nhấn mạnh điều này khi bày tỏ lời nguyện sau :
"Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi
chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô" (kinh Tạ Ơn II). Chúng ta không
thể tăng triển trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô nếu chúng ta không cùng một
lúc tăng triển trong sự hiệp nhất huynh đệ.
Ngày xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải chia sẻ bánh thánh
cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những lý do mục vụ (số người rước lễ đông
chẳng hạn), người ta thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân và một
bánh lễ lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do đó nghi thức
bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn giữ được ý nghĩa sâu sắc của
nó.
28. Tại sao chủ tế bỏ một miếng
bánh thánh nhỏ vào chén thánh ?
Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước
lúc rước lễ, linh mục bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh.
Sách lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy sự cần thiết hoặc
do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn giữ lại nghi
thức ấy vì muốn trung thành với truyền thống. Có hai cách giải thích :
1.Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo Hội. Các mẫu bánh
thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được phânchia cho các cha xứ tại các
nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo Hoàng cử
hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn diễn tả sự
hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo hoàng của mình.
2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những
người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta cathay thế lại mỗi khi
bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để
chịu lễ cho dễ dàng hơn.
Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến ý
nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu mình và máu, như
Chúa Giêsu đã làm ở bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người Do-thái, là gợi lên
sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác thịt nữa. Do đó,
hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô
hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ,
chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống.
Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ :
"Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh
nhận cho chúng con được sống muôn đời".
29. Tại sao phải dùng bánh không
men trong thánh lễ ?
Luật hiện hành của Giáo Hội buộc
rằng thánh lễ phải được cử hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926).
Nhưng ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II, thánh Justinô cho
biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà mình đến để dâng trên bàn thờ. Chắc
chắn đó là bánh nướng được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ XI, người ta
chấp nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành thánh lễ. Vào giữa thế
kỷ XI, Giáo Hội Tây Phương có thói quen chỉ dùng bánh không men.
Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men ?
1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử Mát-thêu (26, 17),
Mác-cô (14, 12) và Lu-ca (22, 7-8), bữa Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt Qua, trong đó
người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Do-thái, do phải vội
vã lên đường trốn ra khỏi Ai-cập, họ không có đủ thời giờ để chờ bột dậy men
rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách để nhắc nhở việc ấy.
2. Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được thực
hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn bánh nào
rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để dâng thánh lễ vì
ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta làm
được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự tinh tuyền của lễ vật
chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành
cho giáo dân.
3. Thánh lễø là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo Hội Đông Phương vẫn duy trì
bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp
nhất với các Kitô hữu Đông Phương.
4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh
đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể.
30. Có phải không lên rước lễ vì ta
tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng ?
Ngày xưa, linh mục dâng thánh lễ
bằng tiếng la-tinh và quay lưng lại với giáo dân. Mỗi người tự dọn mình bằng
cách đọc thầm kinh dọn chịu lễ trước khi lên rước lễ. Nhưng ngày nay, theo
tinh thần canh tân phụng vụ sau Công Đồng Vaticanô II, toàn bộ thánh lễ là sự
chuẩn bị cho việc rước lễ. Hay nói đúng hơn, toàn bộ thánh lễ là hiệp lễ
(rước lễ) : từ việc mặc niệm lúc đầu thánh lễ, nhìn nhận tội lỗi mình, nghe
Lời Chúa qua các bài đọc, lời nguyện giáo dân, thông dự vào kinh Tạ Ơn, đọc
kinh Lạy Cha. Tất cả đều nhằm khai triển hành động của Chúa Kitô, Đấng làm
cho chúng ta trở nên thân thể của Người.
Trong kinh Tạ Ơn, sau khi bánh, rượu đã được thánh hiến, chúng ta xin Chúa
Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa
Kitô, chúng ta được hiệp nhất trong Hội Thánh, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô.
Bạn thấy rước lễ quan trọng như thế nào khi biết rằng rước lễ tóm lược toàn
bộ thánh lễ. Do đó những người tham dự thánh lễ không nên tách rời cộng đoàn
và tự cô lập mình, khi nghĩ rằng mình không xứng đáng lên rước lễ. Bạn không
quên điều này : rước lễ không phải là một phần thưởng, nhưng là một lương
thực.
Bạn hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ : "Lạy Chúa,
con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời,
thì con được lành mạnh" (Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN). Như
thế, vấn đề ở đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, nhưng trái
lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân
huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của ta ví tựa như trời cao với
vực thẳm, cho nên đây không là lúc đặt vấn đề mình có xứng đáng hay không để
rước Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám
tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình : "nhưng xin Ngài phán một lời"
(Lc 7, 7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời
mời của Chúa Giêsu "Hãy cầm lấy mà ăn" quan trọng hơn việc tìm kiếm
sự thanh khiết của chúng ta nhiều.
Vả lại, chúng ta cảm thấy nghịch thường khi thấy một số tín hữu nhận lời mời
của Chúa Kitô đến dự bữa tiệc thánh của Người, và do đó, tự xem là con cái
trong một gia đình, lại tự tách riêng ra, không tham dự rước lễ, làm như họ
là người ngoài bữa tiệc hoặc là những người bàng quan. Tham dự thánh lễ mà
không rước lễ là chưa thấu hiểu ý nghĩa đích thật của bí tích Thánh Thể.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông
hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, với đức tin
cao độ, chúng ta thực sự cảm thấy chưa sẵn sàng trong nội tâm để tiến lên đón
nhận Mình thánh Chúa. Vì rước lễ đòi hỏi sự chuẩn bị cả con người chúng ta,
nên phải làm hết sức để tránh làm sao cho việc rước lễ khỏi trở nên máy móc,
nhàm chán. Có lẽ trong một vài trường hợp, ta không nên lên rước lễ, không
phải vì ưu tư về sự thanh khiết của mình, nhưng vì không phù hợp với lòng
thành của mình trước cử chỉ ta sắp thực hiện.
31. Tại sao chúng ta ít khi được
rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa ?
Giáo Hội khuyến khích việc chịu lễ
Mình và Máu Thánh Chúa, vì hoàn toàn phù hợp với lời mời của Chúa Giêsu :
"Hãy cầm lấy mà ăn", "Hãy cầm lấy mà uống".
Nhưng khi có nhiều người tham dự thánh lễ, việc cho rước lễ dưới hai hình
bánh và rượu gặp nhiều khó khăn cụ thể. Đó là lý do giải thích tại sao hiếm
khi bạn được rước lễ dưới hai hình thức. Mong rằng trong các dịp lễ trọng, và
khi có nhiều thừa tác viên cho rước lễ, giáo dân được rước cả Mình và Máu
Thánh Chúa.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, là khi bạn chỉ rước Mình Thánh Chúa hoặc
chỉ rước Máu Thánh Chúa, bạn đều rước Chúa Giêsu Kitô trọn vẹn. Người hiện
diện thật sự và trọn vẹn ngay chỉ dưới một hình thức (Sắc lệnh của Công Đồng
Trentô (hoặc Triđentinô), khóa họp 13, năm 1551).
Có người đặt câu hỏi : có thể rước lễ nhiều lần trong ngày được không ? Theo
Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần
nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong thánh lễ mà họ tham dự mà thôi.
32. Nên rước lễ bằng tay hay bằng
miệng ?
Đối với một số người, rước lễ bằng
tay có vẻ thiếu tôn kính với Mình Thánh Chúa Kitô. Hôm trước ngày chịu nạn,
trong lúc lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, đọc lời tạ ơn,
bẻ ra và trao cho các môn đệ" (Lc 22, 19). Chắc chắn là các môn đệ đã
cầm bánh thánh trong tay của mình. Và Giáo hội cũng đã tiếp tục làm như thế
trong suốt mười thế kỷ đầu. Sử liệu không thiếu để minh chứng việc này.
Việc rước lễ bằng miệng chỉ xuất hiện sau đó. Một đàng, việc Giáo Hội chống
mọi hình thức ma thuật và tục lệ mê tín dị đoan (thí dụ : chôn bánh thánh
trong đất ruộng để mùa gặt được tốt) dẫn đến việc rước lễ bằng miệng. Đàng
khác, do người ta ngày càng nhạy cảm về tính chất thiêng liêng của Mình Thánh
để rồi đi đến suy nghĩ cho rằng chỉ có linh mục mới có quyền đụng đến bánh
thánh.
Rước lễ bằng tay và rước Máu thánh Chúa được tái lập bởi Công Đồng Vaticanô
II.
Ngày nay người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách rước lễ. Cách nào
hay hơn đối với bạn ? Điều cốt yếu là bạn tham dự bữa tiệc Thánh Thể và đón
rước Mình Thánh Chúa Kitô phục sinh với tất cả lòng cung kính.
33. Tại sao các tín hữu không tự
đến lấy bánh thánh ?
Các tín hữu không tự động đến lấy
bánh thánh, mà nhận bánh thánh từ tay linh mục, phó tế hay từ một thừa tác
viên. Ở bữa Tiệc Ly cũng vậy. Chính Chúa Giêsu đã trao ban bánh và rượu cho
các môn đệ của mình.
Thánh Thể là ân huệ được ban tặng cho chúng ta. Bạn không tự mình cầm lấy
được, nhưng đón nhận từ một người khác. Tự mình nhận lấy bánh thánh và rượu
thánh có thể sẽ dẫn đến sự hiểu lầm cho rằng bạn có quyền nào đó trên các
tặng phẩm cao quí này. Không phải thế. Thánh Thể là hồng ân của Chúa, không
ai có quyền hoặc có thể chiếm đoạt lấy cho mình. Chỉ có Chúa Kitô ban hồng ân
theo ý Người và theo lòng nhân từ của Người.
Ai đón nhận bánh thánh là đón nhận ơn cứu độ, vì người ấy đón nhận chính Đấng
Cứu Thế là Đấng hiện diện dưới hình bánh.
34. Câu chúc kết thúc thánh lễ
"Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an" có ý nghĩa gì ?
Đó là những lời cuối cùng mà chủ tế
nói trong thánh lễ. Những lời này không chỉ có mục đích để kết thúc thánh lễ
bằng cách giải tán giáo dân, nhưng còn có ý nghĩa sai đi. Linh mục muốn nói :
° Anh chị em vừa nghe Lời Chúa, vừa suy ngẫm và tung hô lời giáo huấn của
Chúa Kitô, thì bây giờ hãy đem những lời ấy ra thực hành. Hãy đi làm chứng về
điều mình vừa nghe, về điều mình tin.
° Trong thánh lễ, anh chị em đã nhớ rằng Chúa Kitô đã hiến mạng sống mình vì
tình yêu, và anh chị em cố gắng noi theo gương của Người. Anh chị em đã lãnh
nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.
Giờ đây, anh chị em hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô ! Hãy ban tặng sự
sống của mình giống như Chúa Kitô đã làm ! Hãy yêu mến tha nhân như Người đã
làm gương cho chúng ta ! Hãy yêu thương, tha thứ, và đi gieo niềm hy vọng
khắp mọi nơi !
Trong sách lễ bằng Pháp ngữ, chủ tế nói : "Hãy ra đi trong bình an của
Chúa Kitô" (Allez dans la paix du Christ). Còn trong sách lễ bằng Anh
ngữ, có thể chọn một trong ba công thức sau :
- "Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô" (Go in the peace of
Christ),
- "Thánh lễ đã xong, hãy ra đi trong bình an" (The Mass is ended,
go in peace),
- "Hãy ra đi trong bình an yêu mến và phục vụ Thiên Chúa" (Go in
peace to love and serve the Lord).
35. Bổng lễ (tiền xin lễ) để làm gì
?
Tất cả mọi thánh lễ được cử hành
đều dành cho toàn thế giới, như Chúa Giêsu đã phán : "Mình Thầy bị phó
nộp vì các con. Máu Thầy đổ ra để mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20
và Mt 26, 26-28). Vì thế trong thánh lễ, Giáo Hội cầu nguyện cho hết mọi
người : hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cũng như cho những người đã qua đời.
Tuy nhiên, vị chủ tế vẫn có thể kết hợp các ý nguyện chung này với một ý cầu
nguyện riêng của tín hữu.
Thánh lễ vô giá. Nhưng ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã muốn
chứng tỏ rằng việc tham dự thánh lễ bao gồm toàn vẹn bản thân, cũng như chính
Chúa Kitô đã trao hiến trọn vẹn thân Người. Vì thế họ đã đem đến dâng hoặc
bằng hiện vật (bánh, rượu, đèn nến...), khởi đầu cho việc kiệu rước lễ vật
trong thánh lễ, hoặc bằng tiền để trang trải những chi phí phụng tự, giúp cho
linh mục có điều kiện sinh sống, trang trải các hoạt động của Giáo Hội. Đó là
ý nghĩa lễ vật của họ khi họ ủy thác cho vị linh mục một ý chỉ nào đó.
Từ đó phát sinh "tiền xin lễ" khá phổ biến kể từ thế kỷ thứ XII.
Các tòa giám mục tùy ý ấn định giá bổng lễ nhưng phải hợp với khả năng của
mọi người. Vì lo rằng việc xin lễ có thể phát sinh những hình thức thương
mại, nên nhiều người chủ trương dẹp bỏ thói quen này. Nhưng các hoạt động của
Giáo Hội cũng như của hàng giáo sĩ đều dựa vào những đóng góp tự nguyện của
giáo dân, trong đó có việc dâng bổng lễ. Vì thế trong thực tế, thật khó mà
xem thường phần đóng góp quí báu này của giáo dân.
36. Có thể cử hành thánh lễ chỗ nào
khác ngoài nhà thờ không ?
Thánh lễ có thể được cử hành ở
ngoài nhà thờ, như ta đã từng thấy tại những nơi khốn khổ (trong trại tù,
trong nhà riêng ở những vùng có cấm đạo, v.v...). Thánh lễ có thể được cử
hành dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi thánh lễ được cử hành ở những nơi khác ngoài nhà thờ, điều quan trọng là
ý nghĩa thánh lễ phải được tôn trọng tối đa. Tại những nơi có đông người tham
dự, việc cử hành nhắm sao cho trang trọng để mọi người có thể tham dự một
cách tích cực và sốt sắng. Tại nhà riêng, vấn đề quan trọng là đừng để việc
cử hành thánh lễ bị tầm thường hóa : sắp xếp chỗ cử hành, chủ tế phải mặc y
phục phụng vụ, người tham dự phải trang nghiêm, đó là những điều giúp cho
thánh lễ thêm long trọng.
37. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc
truyền thanh có được coi là tham dự thánh lễ thật sự hay không ?
Thánh lễ trên đài truyền hình hoặc
truyền thanh là một thánh lễ đích thật, vì được truyền trực tiếp từ một giáo
xứ hay một dòng tu. Nhưng đài truyền hình và truyền thanh không truyền hết
được tất cả các phần và chi tiết của thánh lễ.
Thánh lễ được truyền hình và truyền thanh có những lợi điểm nhưng cũng có
những giới hạn. Các phương tiện truyền thông này giúp cho những ai (bệnh nhân
chẳng hạn) không thể đi đến nhà thờ có thể cầu nguyện trong sự hiệp thông với
một cộng đoàn và liên kết với toàn thể Hội Thánh. Họ được nghe các bài Sách
Thánh Chúa nhật và nghe bài giảng chú giải thực dụng của Lời Chúa. Vả lại,
các tín hữu, nơi mà thánh lễ được truyền hình hoặc truyền thanh, cũng có ý
thức trong việc lôi kéo, khuyến khích lòng thành và đạo đức của những ai đang
phải sống cô quạnh để họ hiệp thông với Hội Thánh qua phương tiện truyền
thông.
Nhưng thánh lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh không thể thay thế việc
đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Không phải việc xét dự lễ như thế có được xem
như đã giữ luật buộc dự lễ ngày Chúa nhật hay chưa, bởi những người không thể
di chuyển được vì do bệnh tật, do phải sống xa nhà thờ hay do thời tiết cản
trở, đều không buộc phải đi lễ ngày Chúa nhật. Như thế, chúng ta không có lý
do gì ngồi ở nhà, thực hiện điều mà đáng lẽ chúng ta phải làm ở nhà thờ.
Yếu tố đầu tiên của mọi bí tích, đó là cộng đoàn tín hữu đáp lại lời mời gọi
của Thiên Chúa, và trong lời cầu nguyện, trong lúc nghe Lời Chúa và trong
tình bác ái huynh đệ, họ cùng nhau cử hành sự chết và sự sống lại của Đức
Giêsu Kitô.
38. Tại sao ngôn ngữ phụng vụ không
thích nghi với ngôn ngữ ngày nay ?
Ngôn ngữ phụng vụ phải thích nghi
sao cho mọi tín hữu hiểu được, không phải chỉ dành riêng cho một nhóm người
riêng biệt nào đó, qua chức vụ hay nhờ học tập nhiều mới thấu hiểu được. Vả lại
thánh lễ biểu hiện sự hiệp thông của mọi tín hữu trong Chúa Kitô.
Nhưng mỗi người phải có một thời gian học hỏi mới cóù thể hiểu được một ngôn
ngữ nào đó. Thí dụ : bạn không thể làm cho một người nào đó hiểu về ngôn ngữ
của các thảo trình trên máy vi tính, trong khi người đó chưa sử dụng máy vi
tính bao giờ cả ! Hoặc là, bạn không thể buộc người nào đó chưa từng chơi túc
cầu phải hiểu ngay được bài tường thuật truyền hình về giải bóng tròn thế
giới ! Về ngôn ngữ phụng vụ cũng vậy thôi.
Cầu nguyện theo Kitô giáo không phải chỉ nói lên nguyện vọng của mình với
Thiên Chúa. Nhưng lời cầu nguyện còn làm cho chúng ta liên kết với Thiên
Chúa, vì qua lời cầu nguyện của chính Chúa Kitô, qua lời nói và việc làm của
Người, mà người tín hữu lặp lại như lời cầu nguyện của chính mình vậy.
Bạn có được hướng dẫn thực sự trong việc cầu nguyện, trong việc đọc Kinh
Thánh không ? Bạn có tiếp tục đào sâu giáo lý sơ cấp mà bạn đã được học lúc
còn bé thơ không ?
39. Để cử hành thánh lễ, người ta
có thể thay thế bánh miến và rượu nho bằng các thứ khác, chẳng hạn bằng cơm
và trà ở Á Châu, hoặc bằng bánh khoai mì và rượu thốt-nốt bên Phi Châu được
không ?
Ngày nay, Kitô giáo được loan
truyền khắp thế giới và Công Đồng Vaticanô II mong muốn mỗi dân tộc diễn tả
đức tin theo truyền thống văn hóa riêng của mình. Vậy tại sao không thích
nghi bữa tiệc Thánh Thể với bữa ăn truyền thống của mỗi dân tộc ?
Bánh miến (làm bằng bột mì) và rượu nho có vẻ quá gắn bó với nền văn hoá Cận
Đông và Tây Phương. Nhưng bạn đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do-thái,
chính Người đã dùng bánh miến và rượu nho để lập phép Thánh Thể.
Dùng bánh miến và rượu nho cũng là một cách để nhớ lại rằng Thiên Chúa đã đi
vào Lịch Sử. Mạc khải Kitô giáo đã được thực hiện trong một nơi chốn rõ rệt
và một thời điểm nhất định. Khi chúng ta tuân theo huấn lệnh của Chúa Giêsu
"Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy", chúng ta phải để ý đến những
điều kiện cụ thể này của việc Người nhập thể.
Đàng khác, bạn đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến và rượu nho trong
Kinh Thánh, thí dụ :
° "Thầy là bánh hằng sống" (Gioan 6, 35.48). "Thầy là bánh từ
trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" (Gioan 6, 51). (Bánh ở đây
phải hiểu là bánh miến).
° "Thầy là cây nho thật" (Gioan 15, 1). "Thầy là cây nho, các
con là ngành nho..." (Gioan 15, 5).
"Bánh miến" và "cây nho" là hai đề tài rất thường gặp
trong Kinh Thánh.
Do đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật ý nghĩa về mối
giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người, được đóng ấn trong
Đức Giêsu Kitô và được cử hành trong mỗi thánh lễ.
40. Tại sao buộc đi lễ ngày Chúa
nhật ?
Ngày nay, nhiều tín hữu nhiệt thành
không thích kiểu nói "buộc đi lễ ngày Chúa nhật". Họ khó chấp nhận
việc dâng lễ ngày Chúa nhật như là một bổn phận phải giữ ! Thật vậy, người ta
thường nói đến Kitô giáo với những bổn phận phải chu toàn.
Những kiểu nói "luật buộc", "bổn phận" đúng ra nên được
hiểu như là những dấu hiệu báo động : chúng không chỉ định một lý tưởng phải
vươn tới, nhưng chỉ là một nhắc nhở lòng trung thành cần phải giữ và phát
triển.
Khi đức tin sống động, thì không cần phải nói đến việc buộc giữ ngày Chúa nhật.
Nếu bạn yêu mến Chúa Kitô thì bạn không thể không đáp lại lời mời gọi của
Người. Khi bạn đang đói và được người ta dọn một bữa ăn thịnh soạn, hỏi rằng
bạn có thực sự bị bắt buộc ăn hay không ? Nếu bạn khao khát hạnh phúc và bình
an, thì chỉ có Chúa Kitô mới có thể làm cho bạn thỏa lòng. Vậy bạn có bị bắt
buộc phải tiếp đón Chúa Kitô khi Người mời gọi bạn đến dự tiệc Thánh Thể của
Người không ? Tham dự thánh lễ không phải là dịp để chúng ta lấy lại sức cho
đời sống thường nhật của chúng ta hay sao ?
Trước câu hỏi : "có buộc đi lễ các ngày Chúa nhật hay không ?", câu
trả lời sẽ là "có" cho những ai không mắc ngăn trở thật sự để đến
tham dự thánh lễ.
Vả lại, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu cử hành thánh lễ hằng ngày. Tham dự
thánh lễ mỗi ngày là thông phần hoàn toàn với hành vi phụng vụ của Giáo Hội
để dâng lên trên bàn thờ tất cả đời sống và lịch sử của con người. Đối với
các tín hữu có thể đi nhà thờ được, thánh lễ hằng ngày đặt sự phục sinh của
Chúa Kitô ngay giữa các hoạt động trong ngày của họ : nghề nghiệp, gia đình,
xã hội, v.v...
Trong mối quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, khi chúng ta bắt đầu tính
toán để khỏi làm hơn bổn phận đòi hỏi, làm vừa vặn cho đúng luật buộc, khi
chúng ta cố "mặc cả" về điều "được phép" và "điều
cấm đoán" để tìm ra những điều dễ làm hơn, khi chúng ta muốn tìm ơn cứu
rỗi "rẻ tiền", thì lúc đó chúng ta nên xét lại tình trạng sức khỏe
đức tin của chúng ta !
Kết luận
Qua những câu trả lời trong tập
sách nhỏ này, chúng ta đã khám phá ra hoặc khám phá lại ý nghĩa của thánh lễ.
Nhưng giải thích thánh lễ vẫn chưa đủ, mà cần phải sống và cử hành thánh lễ
trong đức tin, với tất cả tâm tình.
Thánh lễ không phải là một loạt nghi thức nối tiếp nhau, nhưng là cùng một
hiến tế tạ ơn, cùng một mầu nhiệm phục sinh. Thánh lễ cũng không thể bị thu
nhỏ lại thành một cộng đoàn lắng nghe lời Chúa và tuyên xưng đức tin của
mình. Trước tiên thánh lễ là sự hiện diện tác động của hy lễ của Chúa Kitô,
chính Người kết hợp và thánh hiến Giáo Hội, chính Người ban đời sống thần
linh qua Mình và Máu Người trong rước lễ. Hiến chế về "Phụng Vụ
thánh" nói rõ điểm đó :
"Trong Bữa Tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã
thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài
qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê
yêu quí của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái Chết và Sống Lại của Người :
đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt
qua, trong đó chúng ta ăn Chúa Kitô, được tràn đầy ân sủng, và được đảm bảo
vinh quang tương lai" (số 47).
Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh sự quan trọng của thánh lễ trong đời sống Kitô
hữu. Thí dụ : theo các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II, thánh lễ là
"trung tâm điểm của cộng đoàn tín hữu" (Sắc lệnh LM, số 5), là
"nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo" (Hiến chế
GH, số 11), và là "nguồn mạch ơn thánh hóa cho con người và làm vinh
danh Thiên Chúa" (Hiến chế PV, số 10).
Gốc rễ, nguồn mạch, trung tâm, chóp đỉnh : thánh lễ là tâm điểm của đức tin
và đời sống của chúng ta. Theo công thức nổi tiếng của Đức Hồng Y Henri de
Lubac, "nếu Giáo Hội làm lên thánh lễ" (si l'Église fait
l'eucharistie), trước tiên và tiên quyết "thánh lễ làm lên Giáo
Hội" (l'eucharistie fait l'Église).
Thánh lễ là bữa tiệc, trong đó Thiên Chúa bổ sức cho chúng ta tiến đến hạnh
phúc vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã phán : "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì
có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết" (Gioan
6, 54).
Ước gì mỗi người chúng ta biết sống sâu sắc bí tích Thánh Thể để lãnh nhận
những ơn thánh bổ ích cho cuộc đời của chúng ta và để sinh nhiều hoa trái.
Giải thích một số từ
phụng vụ
Alleluia (hay Halêluia)
Tiếng do-thái, có nghĩa "hãy
ngợi khen Thiên Chúa". Alleluia, được đọc hoặc hát trước khi nghe công
bố Tin Mừng (Phúc Âm), diễn tả niềm hân hoan, tán dương và ngợi khen, và mời
gọi chúc tụng Thiên Chúa vinh quang. Do đó, trong Mùa Chay, mùa sám hối và
hoán cải, mùa tưởng niệm mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Kitô, chúng ta không đọc
hoặc hát Alleluia trong các nghi thức phụng vụ.
Amen
(Xem câu hỏi số 12)
Bài giảng (hay bài diễn giảng)
Giảng ở đây có nghĩa là giảng Lời
Chúa : linh mục chú giải về đoạn Tin Mừng vừa nghe, quảng diễn và áp dụng Lời
Chúa trong đời sống hằng ngày.
Bài giảng là phần phụng vụ phải có trong các thánh lễ chúa nhật và lễ trọng,
vì sau Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của
Tin Mừng, của Thánh Kinh trong thánh lễ cũng như trong đời sống Kitô hữu.
Bí tích
Danh từ bí tích (bí : kín, dấu kín
không biết được ; tích : dấu vết để lại) dịch từ chữ hy-lạp mysterion hoặc từ
chữ la-tinh sacramentum.
Bí tích cũng còn được gọi là Nhiệm tích.
Sách "Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo" (1992) định nghĩa bí tích như sau
: "Các bí tích là những dấu hiệu hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết
lập và được trao lại cho Giáo Hội để ban sự sống thần linh cho chúng ta. Các
nghi thức hữu hình để cử hành các bí tích thì nói lên và thực hiện những ân
sủng riêng của mỗi bí tích" (số 1131).
Bí tích là máng chuyển ơn Chúa cho chúng ta. Mọi bí tích đều là hành vi của
Chúa Kitô được Giáo Hội cử hành qua nghi thức phụng vụ gồm sự vật, cử chỉ và
lời nói kèm theo. Thí dụ : trong bí tích Rửa Tội, linh mục đổ nước ba lần
trên đầu thụ nhân hoặc dìm thụ nhân ba lần trong giếng rửa, và đọc :
"T..., cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Có tất cả bảy bí tích : Rửa Tội (hoặc Thánh Tẩy), Thêm sức, Thánh Thể, Hòa
Giải (hoặc Giải Tội), Xức Dầu bệnh nhân, Truyền Chức, Hôn Phối.
Hiến tế tạ ơn
Hiến tế tạ ơn là một cách gọi khác
của thánh lễ và lễ Misa. Từ ngữ này (dịch từ động từ hy-lạp eucharistein : tạ
ơn) diễn tả rõ ràng mục đích chính của thánh lễ : cảm tạ và ngợi khen Chúa
Cha nhờ Chúa Kitô, với Người và trong Người, cũng như sự kết hợp của Giáo Hội
với các tác động này của Chúa Kitô (xem câu hỏi số 1).
Kinh Tin Kính
Có hai bản kinh Tin Kính : kinh Tin
Kính các Tông Đồ và kinh Tin Kính Nicée. Dưới hình thức này hay hình thức
khác, kinh Tin Kính được cộng đoàn đọc trong các thánh lễ Chúa nhật và lễ
trọng sau bài Tin Mừng và bài giảng.
° Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông Đồ (symbole des
Apôtres), là bản kinh Tin Kính xưa nhất, có từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng
hợp các công thức đã có trước đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như
chúng ta thấy hiện nay. Đây là bản tuyên xưng những tín điều chính yếu nhất
khi chịu phép Rửa.
° Kinh Tin Kính Nixêa do Công Đồng Nixêa (Nicée) chấp thuận vào năm 325 nhằm
đối phó với lạc thuyết arianô chối bỏ thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Sau đó
bản này được Công Đồng Constantinople bổ túc vào năm 381 nhằm để xác quyết
thần tính của Chúa Thánh Thần do nhiều bè rối chối bỏ, vì thế đôi khi người
ta gọi bản này là kinh Tin Kính của các Công Đồng Nixêa-Constantinople. Giáo
dân Việt Nam
thường đọc bản này trong thánh lễ.
Kinh Vinh Danh
Bài thánh ca này đã có từ lâu đời
cũng được gọi là "khúc hát thiên thần" (le cantique des anges).
Giáo Hội, được đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần, dùng kinh Vinh Danh để tôn vinh
Chúa Cha và cầu khẩn Chúa Chiên Con. Kinh Vinh Danh được hát hay đọc vào phần
đầu thánh lễ Chúa nhật (trừ Mùa Vọng và Mùa Chay), trong các lễ trọng, lễ
kính và trong các dịp lễ khá long trọng. Người ta không biết tác giả là ai
cũng như năm sáng tác, nhưng biết rằng kinh Vinh Danh đã có trong kinh sáng
bên Đông Phương vào thế kỷ thứ IV.
Lễ Misa
Trong Sách Lễ Rôma, bản chính bằng
tiếng la-tinh, để kết thúc thánh lễ, chủ tế đọc "Ite missa est".
Missa (do động từ la-tinh mittere : gửi đi) có nghĩa là sự trả về. Do đó
"Ite missa est" có nghĩa là "Hãy đi, đây là lúc giải
tán", cũng như khi ta nói : "Thôi về đi, mọi việc đã xong rồi
!" Đương nhiên, chúng ta biết công thức bằng tiếng Việt : "Lễ đã
xong, chúc anh chị em ra về bình an" (xem câu hỏi số 34).
Từ thế kỷ thứ IV, chữ missa chỉ định toàn bộ thánh lễ. Từ đó, có tiếng Pháp
Messe, tiếng Anh Mass, và tiếng Việt Lễ Misa.
Năm phụng vụ
Năm phụng vụ, bắt đầu từ Chúa nhật
I Mùa Vọng (vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12, tùy theo năm) cho đến thứ
bảy của tuần 34 Thường Niên, nhằm kể lại toàn bộ lịch sử ơn cứu độ và cuộc
đời của Chúa Kitô mà lễ Phục Sinh là đỉnh điểm.
Mỗi lễ phụng vụ làm nổi bật một khía cạnh nào đó của mầu nhiệm cứu độ duy
nhất.
Năm phụng vụ gồm các mùa sau đây, theo tuần tự :
° Mùa Vọng : khoảng 4 tuần trước lễ Giáng Sinh.
° Mùa Giáng Sinh : từ lễ Giáng Sinh tới cuối tuần lễ Hiển Linh.
° Mùa Thường Niên (hoặc Quanh Năm) (phần I) : từ Chúa nhật sau lễ Hiển Linh
đến thứ tư Lễ Tro. Vì ngày lễ Phục Sinh không cố định nên Mùa này kéo dài từ
5 đến 9 tuần, tùy theo năm.
° Mùa Chay : gồm 40 ngày (không tính các ngày Chúa nhật), từ thứ tư Lễ Tro
đến Chúa nhật Phục Sinh.
° Mùa Phục Sinh : gồm 50 ngày, từ Chúa nhật Phục Sinh đến Chúa nhật lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống.
° Mùa Thường Niên (phần II) : kéo dài từ 25 đến 29 tuần (tùy theo năm), từ lễ
Chúa Thánh Thần hiện xuống đến Chúa nhật I Mùa
Vọng. Năm phụng vụ mới lại bắt đầu. + Ngày lễ Phục Sinh được tính vào Chúa
nhật đầu tiên sau trăng tròn đầu tiên của mùa xuân. Từ ngày lễ Phục Sinh này,
người ta xác định được ngày của ba lễ khác : thứ tư Lễ Tro, 40 ngày trước đó
(không tính các ngày Chúa nhật) ; lễ Thăng Thiên, 40 ngày sau (vào ngày thứ
năm) ; lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, 50 ngày sau (vào ngày Chúa nhật).
Nhà Chầu, nhà Tạm.
Nhà Chầu hay Nhà Tạm là một chiếc
tủ nhỏ chứa đựng Mình Thánh Chúa. Tùy kiến trúc từng nhà thờ mà Nhà Chầu được
đặt tại gian cung thánh hoặc bên cạnh.
Theo lịch sử phụng vụ, việc giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà Chầu, hay Nhà Tạm,
trước tiên là để dành cho những người bệnh hoặc những người hấp hối sắp ra đi
như "của ăn đàng". Ngày nay, Giáo Hội tiếp tục giữ Mình Thánh Chúa
trong Nhà Chầu để cho tín hữu có thể đến viếng và cầu nguyện trong ngày,
ngoài những nghi thức phụng vụ chính thức. Đèn chầu, được đăït bên cạnh, ngày
đêm thắp sáng nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô ở giữa dân Người.
Phụng vụ
Danh từ phụng vụ (phụng : vâng
phục, tôn sùng ; vụ : công việc) được dịch từ chữ hy-lạp leiturgia (ghép bởi
danh từ ergon = công việc, và tĩnh từ leitos = công cộng) có nghĩa : việc
công cộng có ích cho dân chúng. Trong quá trình lịch sử, danh từ leiturgia có
thêm nhiều nghĩa khác nhau.
Theo tinh thần của Công Đồng Vaticanô II, phụng vụ là tác động linh thiêng,
qua đó, và dưới một nghi thức, hành vi tư tế của Chúa Kitô, nghĩa là công
cuộc thánh hóa con người và vinh danh Thiên Chúa, được thực hiện và tiếp tục
trong Giáo Hội và bởi Giáo Hội.
Nói một cách đơn giản, phụng vụ chỉ định các nghi thức thờ phượng công cộng
của Giáo Hội. Các nghi thức phụng vụ, theo định nghĩa, phải có sự chủ tọa của
một thừa tác viên của Giáo Hội với sự tham dự tích cực của các tín hữu.
Ngoài ra danh từ phụng vụ còn có hai nghĩa khác nữa :
° bên Đông Phương, phụng vụ có nghĩa là chính thánh lễ.
° phụng vụ chỉ định môn học về các việc phụng tự khác nhau. Thí dụ : thần học
phụng vụ, phụng vụ Đông Phương, v.v...
Thánh lễ đồng tế:
Thánh lễ đồng tế do nhiều linh mục cùng cử hành, và dưới sự chủ tọa của một
vị.
° Tại Tây Phương, trước thế kỷ thứ XIII, thánh lễ được đồng tế "âm thầm",
nghĩa là chỉ có vị chủ tế, là người có chức vụ lớn nhất, đọc kinh Tạ Ơn (Kinh
nguyện Thánh Thể) mà thôi. Vào thế kỷ thứ XIII tại Rôma, các vị đồng tế cùng
đọc kinh Tạ Ơn với Đức Giáo Hoàng, và mỗi vị cầm một bánh lễ trong tay của
mình. Khoảng cuối thời Trung cổ, thánh lễ đồng tế không còn phổ thông nữa.
Công Đồng Vaticanô II (1962-1965) xác định giá trị cao cả của thánh lễ đồng
tế, vì việc đồng tế biểu lộ cách thích đáng của chức linh mục và của hy tế,
cũng như sự hợp nhất của toàn dân Chúa.
° Tại Đông Phương, thánh lễ đồng tế vẫn được duy trì từ xưa tới nay.
"Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !"
Bài hát này là bản tổng hợp của một số câu Kinh Thánh : (theo bản dịch mới)
° Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn là Đấng Thánh (Is
6, 3 ; Kh 4, 8).
° Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa (Is 6, 3).
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).
° Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa (Tv 117, 26 ; Mt 21, 9).
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).
Câu trong Isaia (6, 3) gồm : "(Toàn trái) đất rạng ngời vinh quang
Chúa". Phụng vụ thêm chữ "trời". Viễn ảnh trở nên bao la : cả
trên trời và dưới đất, cả các thiên thần, các thánh và loài người, với muôn
loài tạo vật, đồng thanh tung hô vinh danh Chúa Cha.
Theo sách Khải Huyền (4, 8), bài "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh" là lời
tung hô của các thiên thần và các thánh trên trời. Như thế, mỗi thánh lễ được
cử hành làm cho chúng ta hướng về lời tán tụng muôn đời này.
Biên soạn tại Rennes (France),
tháng 10 năm 1996
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét