Đây là bài cuối của loạt bài phỏng vấn, đối thoại thực hiện vào cuối năm 2010. Thichhoctoan (Giáo sư Ngô Bảo Châu) sẽ tiếp tục đi nói chuyện với những người có nhiều chuyện để nói và hy vọng sẽ có năm bài mới vào dịp năm mới.
*****
Ngô Bảo Châu: Xin chào chú Nguyễn
Trần Bạt. Qua bài nói chuyện của chú với sinh viên trường Kinh tế quốc dân và
trường Luật, cháu được biết chú được đào tạo như một kỹ sư, nhưng lại theo học
khoa Ngữ văn ở trường Tổng hợp, rồi để sau này lại theo học hàm thụ về luật
nữa. Chú có nói là chú đi học Văn vì một người một phụ nữ, còn đi học Luật để
chuẩn bị thành nhà tư vấn đầu tư đầu tiên ở Việt
Nguyễn Trần Bạt: Tôi đi học Văn bởi lúc đó tôi nghĩ
rằng trong cuộc đời một người đàn ông nghiêm túc không có nhiều người đàn bà,
cho nên tôi đi học môn học mà người phụ nữ tôi yêu theo đuổi trong sự xác định
rằng đó sẽ là người bạn đời của mình. Có lẽ số phận đã khuyên tôi làm thế để có
được người đàn bà của tôi một cách trọn vẹn.
Còn việc đi học luật để làm nghề thì đấy
là do sinh kế. Tôi nghĩ rằng lúc trẻ ai cũng phải làm thế. Tôi đã chọn một nghề
nghiệp và do đó cũng phải chọn môn học giúp mình có kiến thức theo đuổi nghề
nghiệp đó. Cho đến giờ tổng kết lại tôi thấy rằng việc học những môn học ấy là
những hạt giống tốt cho tôi những kết quả mà tôi có hôm nay.
Ngô Bảo Châu: Như một người gắn bó với việc học hành
trong cả cuộc đời, chú có nhận xét như thế nào về sự thay đổi của quan niệm về
việc học trong dân ta trong từng thời kỳ của lịch sử đương đại. Nhìn trẻ con đi
học bây giờ chú có thấy lo không ?
Nguyễn Trần Bạt: Quan niệm về việc học của người Việt
hiện nay đã tốt hơn trước, có những mục tiêu, có những động cơ thực tế hơn.
Trong xã hội hiện nay người ta không còn quan niệm học là để làm quan và bằng
con đường làm quan để tạo ra các điều kiện sống nữa. Tuy nhiên cái quan niệm mà
chúng ta đang có vẫn đang ở một mức thấp so với sự phát triển của thế giới.
Nhìn việc học của trẻ con bây giờ tôi
cũng có những nỗi lo, đấy là nỗi lo về việc trẻ con nhận được gì khi đến
trường. Nhưng theo tôi việc trẻ con nhận được gì không nằm trong các bài giảng
mà nằm trong các lời giảng. Tôi có một nỗi lo tiềm ẩn trên hai khía cạnh. Thứ
nhất là cách huấn luyện trẻ con nhặt những thứ mà độ có ích của nó là cần phải
xem xét, nghiên cứu. Thứ hai là năng lực tổ chức những điều mà bọn trẻ nhận
được từ trường học một cách có ích cũng cần phải xem xét.
Ngô Bảo Châu: Khi được hỏi về phẩm chất quan trọng
nhất của một thương nhân, chú có nói đó là tính lương thiện. Đối với cháu đây
quả là một bất ngờ thú vị. Cháu xin hỏi chú hai câu hỏi rất cũ. Một là, trong
thương trường, lương thiện quá có dễ chết non không ? Hai là, lương thiện là
cái đẻ ra đã có, hay là cái mình phải học tập và rèn luyện để có ?
Nguyễn Trần Bạt: Nhiều người quan niệm rằng lương thiện
quá thì dễ chết, nhưng không lẽ vì sợ chết mà chúng ta đánh mất tính lương
thiện của mình hay sao ? Có người đặt cho tôi câu hỏi tương tự: “Trong môi
trường kinh doanh luôn có chuyện cá lớn nuốt cá bé, có kẻ thắng người thua, có
người sống và người chết thì khái niệm lương thiện được hiểu như thế nào ?” Tôi
trả lời rằng: “Lương thiện là không chà đạp lên con người và lợi ích của con
người vì lợi ích của mình. Thất bại trong kinh doanh không bao giờ đồng nghĩa
với cái chết. Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh không ai chết, nhưng thua thì
có và phải coi thua là chuyện bình thường.
Chúng ta thử tưởng tượng xem, trong một
xã hội mà tính lương thiện không tồn tại nữa thì chúng ta còn gì để sống và xã
hội lúc đó sẽ như thế nào ? Lương thiện là một tiên đề trong hệ thống các tiêu
chuẩn hình thành đời sống tinh thần của con người. Lương thiện là thứ mà chúng
ta không thể mặc cả với nó được. Chính tính lương thiện là tiền đề làm tăng
chất lượng của lẽ phải tâm hồn con người. Đây chính là một trong những năng lực
phát triển của con người. Con người lương thiện là con người luôn giữ gìn khát
vọng vươn tới sự thánh thiện của đời sống tâm hồn và sự phong phú của các phẩm
chất tinh thần. Nếu không duy trì hàng ngày khát vọng đó, con người sẽ sống với
tâm hồn khô héo, với trí tuệ lỗi thời và mọi xúc cảm biến mất.
Ngô Bảo Châu: Cháu rất đồng ý với chú Bạt khi chú
nói về việc phải xây dựng lại vị trí cao quí của người thầy giáo trong xã hội.
Có một câu hỏi mà cháu muốn đặt cho nhà kinh tế Nguyễn Trần Bạt: Giáo viên là
công chức nhà nước, hưởng lương theo thang lương của công chức. Vậy thì làm thế
nào để cải thiện lương cho giáo viên ? Theo chú không tăng được lương cho giáo
viên vì nhà nước thiếu tiền hay vì không có cơ chế ?
Nguyễn Trần Bạt: Không có nhà nước nào thiếu tiền, chỉ
có nhà nước không biết tiêu tiền thì mới thiếu. Chúng ta vẫn thấy ở Mỹ người ta
ca ngợi những tổng thống phân bố ngân sách một cách hợp lý và không làm thâm
hụt ngân sách. Ngược lại, bất kỳ tổng thống nào làm thâm hụt ngân sách cũng đều
bị xã hội chê bai, chỉ trích rất ráo riết. Không phải là nhà nước của chúng ta
không có đủ tiền, vì nhiều khi ngân sách được chi thừa và lãng phí cho các lĩnh
vực khác của xã hội. Vậy tại sao ngân sách dành cho giáo dục lại không đủ ? Bởi
vì địa vị của giáo dục vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ.
Trong câu hỏi của anh, có một mệnh đề mà
chúng ta cần bàn là “giáo viên là công chức nhà nước”. Tôi cho rằng cấu trúc ra
khu vực giáo dục không nhất thiết phải là nhà nước, cho nên giáo viên cũng
không nhất thiết phải là công chức. Trường học là một bộ phận của xã hội dân
sự, nhà nước không nên biến các trường học thành sở hữu của mình. Cho nên có lẽ
cần có sự điều chỉnh chính sách một cách hợp lý hơn.
Ngô Bảo Châu: Có ý kiến cho rằng thầy cô giáo ngày
xưa, như thời chú đi học, dạy giỏi, dạy hay hơn thầy cô giáo ngày nay. Trên
nguyên tắc, thầy cô giáo ngày nay được đào tạo có bài bản hơn, được tiếp xúc
nhiều hơn với khoa học tiên tiến, với thế giới. Theo chú thì ý kiến trên có
đúng không và nếu không, tại sao ý kiến này rất phổ biến ?
Nguyễn Trần Bạt: Sự hơn của thế hệ sau so với thế hệ
trước là một tiên đề. Nếu đem so trình độ thì một học sinh cỡ tú tài hiện nay
có kiến thức toán xấp xỉ bằng Einstein vào thời kỳ của ông ấy. Nhưng không phải
bất kỳ học sinh nào thời nay cũng có thể trở thành Einstein được. Vấn đề nằm ở
con người, mục tiêu ứng dụng, mục tiêu sáng tạo của nó có lành mạnh thì mới tạo
ra được thành tựu. Thành tựu toán học, thành tựu vật lý hay hoá học và thành
tựu xã hội là khác nhau. Cho nên, nhiệm vụ đặt ra cho những người thầy ở mọi
thế hệ là phải nghiên cứu những cách thức của thời đại để thổi lên, để kích
thích các khả năng có trong mỗi con người.
Ngô Bảo Châu: Chú Bạt nhắc đi nhắc lại về việc tiếp
thu các giá trị văn hóa phổ quát của nhân loại. Theo chú, làm thế nào để trẻ
nhỏ có thể tiếp thu được những giá trị đó ?
Nguyễn Trần Bạt: Trong cuốn sách “Cải cách và sự phát
triển”, tôi đã nêu ra một trong bốn cuộc cải cách cơ bản cần được tiến hành là
cải cách giáo dục với nguyên lý phi chính trị hoá giáo dục. Xét về mặt phân tâm
học thì năng lực tiếp nhận của trẻ con vào những lứa tuổi khác nhau thích hợp
với những loại kiến thức khác nhau. Tại sao trẻ con châu Âu nói chuyện triết
học Kant, triết học Hegel… một cách rất nhẹ nhàng? Bởi vì lúc các em chưa kịp
có định kiến thì các em đã được tiếp cận một cách vô thức. Về mặt phương pháp
luận nhận thức mà nói thì kẻ nào vào sớm nhất trong miền tiềm thức của một con
người thì kẻ đó trở thành chủ của bộ não và cái còn lại là sự lựa chọn của
chính kẻ đó. Chúng ta để cho trẻ con làm quen sớm với một số khái niệm rất hạn
chế, và do đó, trẻ con của chúng ta dù có chương trình tốt đến mấy thì khả năng
tiếp cận của chúng cũng rất thấp. Nếu làm toán, học sinh chúng ta làm rất tốt,
nhưng suy tưởng toán học thì không tốt. Nếu không làm cho các trường đại học,
các cơ sở giáo dục trở nên tự do hơn đối với các tiêu chuẩn bắt buộc phải có về
nhận thức mà hiện nay chúng ta đang phổ biến trong xã hội, thì mọi ý đồ, mọi
khát vọng về cải cách giáo dục đều là vô ích. Chúng ta sẽ có những sản phẩm
giáo dục nói một cách chuẩn hơn về thuật ngữ, có khả năng diễn đạt một cách
trôi chảy cái cũ, nhưng để tìm ra cái mới thì rất khó, mà nhiệm vụ của chúng ta
là tìm ra cái mới chứ không phải là diễn đạt trôi chảy cái cũ.
Ngô Bảo Châu: Chú có nói rằng WTO là một trường học
rất lớn. Việt Nam
đã nhập đã được bốn năm. Theo chú, nhà nước và nhân dân ta đã học được những gì
từ trường học này ?
Nguyễn Trần Bạt: Đã gần bốn năm kể từ khi Việt Nam chính thức
gia nhập WTO, có những kinh nghiệm và những bài học đáng kể mà chúng ta cần rút
ra.
Thứ nhất là bài học về tính chuyên
nghiệp. Điều quan trọng nhất mà các doanh nghiệp nhận được là những bài học về
tính chuyên nghiệp, về sự khắt khe của các quan hệ thương mại quốc tế, sự khắt
khe về chất lượng hàng hoá, sự khắt khe của luật pháp quốc tế. Chúng ta chưa
chuẩn bị đầy đủ để tiếp cận với tất cả những đòi hỏi chất lượng của các thị
trường hàng hoá quốc tế, nên chúng ta học được rất nhiều bài, chúng ta thức
tỉnh được rất nhiều chuyện.
Những bài học từ các doanh nghiệp giúp
chúng ta hiểu rằng, nếu không có một bộ máy nhà nước đủ chuyên nghiệp, không có
một tổ hợp kiến thức và một sự chuyển động linh hoạt đủ chuyên nghiệp thì không
ứng phó được, không thể thành công được khi tham gia vào quá trình toàn cầu với
tư cách là thành viên của WTO.
Thứ hai là bài học về sự cân bằng của
nền kinh tế. Tôi cho rằng, một nền kinh tế quốc dân của bất kỳ quốc gia nào
cũng chia ra làm hai khu vực hoặc hai nền kinh tế: nền kinh tế để phục vụ tại
chỗ, tạm gọi là nền kinh tế bản thể (đại diện là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp tư nhân) và nền kinh tế tạo ra sự phát triển, tạo ra năng lực cạnh
tranh quốc tế (đại diện là các tập đoàn lớn). Tập trung tất cả năng lực kinh tế
vào khu vực các tập đoàn lớn để cạnh tranh quốc tế là chúng ta sai.
Khu vực kinh tế nhà nước và các tập đoàn
kinh tế lớn có thể tạo ra một sự đột phá trong quá trình cạnh tranh toàn cầu,
kể cả cạnh tranh quốc tế, nhưng khu vực vừa và nhỏ nói chung và khu vực tư nhân
nói riêng là bộ phận cấu thành nền kinh tế bản thể, nó giải quyết tốt vấn đề
công ăn việc làm, vấn đề thu nhập xã hội ở mức trung bình trở xuống, nó đảm bảo
sản xuất những hàng hoá phù hợp với tiêu chuẩn tiêu dùng nội địa, tức là nó đảm
bảo những nền tảng để ổn định xã hội. Cho nên nhiệm vụ của nhà nước bây giờ là
cân đối lại sự phân bố năng lượng phát triển của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam và đấy
chính là cải cách cơ cấu nền kinh tế.
Thứ ba là chúng ta cần nhận thức rằng
hội nhập quốc tế là một năng lực chứ không phải chỉ là một ý chí. Tất cả những
sự dịch chuyển của các dòng lao động, sự dịch chuyển của các dòng tiền vốn, của
các dòng công nghệ, các dòng hàng hoá là tự do. Tự do trong khuôn khổ WTO là tự
do trong khuôn khổ của những điều chúng ta cam kết. Vì thế, bây giờ chúng ta
hội nhập thực sự hay không và hội nhập đem lại lợi ích gì là kết quả của năng
lực chứ không phải là kết quả của ý chí nữa. Ý chí của nhà nước, của chính phủ
cùng với sự phê chuẩn của Quốc hội về mặt hình thức là có rồi, nhưng cần phải
phổ biến nó đến mọi thành viên của xã hội và biến nó trở thành trí tuệ, trở
thành hiểu biết, trở thành khát vọng, trở thành nguyện vọng của các lực lượng
kinh doanh trong xã hội.
Chúng ta được vào sân chơi, nhưng trở
thành kẻ thắng hay kẻ thua là do kết quả của sự cố gắng của chính chúng ta.
Bằng việc tham gia tổ chức này, chúng ta đã bắt buộc xã hội phải đi vào cái
vùng mà ở đó con người không thể trì hoãn sự cải cách, sự tiến bộ và ỷ lại vào
cái vốn cũ được. Chúng ta buộc phải phấn đấu vươn lên và phải thỏa mãn chất
lượng của tổ chức này cùng với các vòng đàm phán của nó. Liên tục hoàn thiện là
đòi hỏi của tổ chức này, nhưng đòi hỏi ấy không xa rời cuộc sống. Đòi hỏi ấy
gắn liền với chất lượng của cuộc sống thương mại tòan cầu. Chất lượng của vòng
đàm phán phản ánh cái chất lượng dâng lên của đời sống thương mại toàn cầu.
Chúng ta muốn phát triển, muốn thành kẻ sống được trong môi trường toàn cầu thì
chúng ta buộc phải liên tục phấn đấu .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét