PGS.TS. Nguyễn Hữu Đức
Đái tháo đường là rối loạn chuyển hóa do nhiều
nguyên nhân, với đặc trưng là tình trạng tăng đường huyết mạn tính đưa đến rối
loạn chuyển hóa đường, đạm, mỡ và hậu quả là do từ sự thiếu hụt insulin.
Tùy theo tình
trạng thiếu hụt insulin, người ta phân biệt có 2 loại đái tháo đường: đái tháo
đường týp 1 và đái tháo đường týp 2. Trong đái tháo đường týp 1 có sự thiếu
insulin tuyệt đối do tế bào bêta (tế bào tiết ra insulin) của tuyến tụy bị quá
trình tự miễn gây hủy hoại hoàn toàn. Đái tháo đườngtýp 1 thường xảy ra ở người
trẻ tuổi, và trong điều trị, bắt buộc phải dùng thuốc là insulin (vì
vậy, đái tháo đường týp 1 còn gọi là đái tháo đường phụ thuộc insulin).
Trong đái tháo đường týp 2, có sự thiếu insulin tương đối do chỉ giảm sự tiết
insulin hoặc có sự đề kháng insulin, tức là sự tiết insulin không thiếu nhưng
insulin không nhạy cảm, không cho tác dụng trên các cơ quan đích (như mô cơ, mô
gan.) Đái tháo đường týp 2 thường xảy ra ở người trên 40 tuổi và có thể bị béo
phì. Trong điều trị đái tháo đường týp 2, thông thường không dùng đến insulin
mà dùng thuốc hạ đường huyết loại uống (vì vậy, đái tháo đường týp 2 còn được gọi là
đái tháo đường không phụ thuộc insulin).
Thuốc trị đái tháo đường týp 2 gồm những
thuốc gì ?
Trong đái tháo
đường týp 2, có sự thiếu insulin do 3 bất thường: giảm tiết insulin, đề kháng
insulin (do giảm tác dụng của insulin trên tế bào mô đích, đặc biệt là tế bào
cơ) và tăng sản xuất glucose từ gan. Vì vậy, để điều trị đái tháo đường týp 2,
dùng thuốc hạ đường huyết loại uống tác động theo các cơ chế khác nhau như sau:
§ Nhóm
sulfonylure: Thuốc nhóm này có tác dụng kích thích tế bào bêta tuyến tụy tiết
ra insulin bằng cách gây khử cực màng tế bào làm cho ion calci di chuyển vào
bên trong tế bào gây phóng thích các hạt chứa insulin ra ngoài. Nhóm có 2 thế
hệ: thế hệ 1 gồm clorpropamid, tolbutamid, thế hệ 2 gồm glibenclamid, glipizid,
glicazid, glimepirid. Ưu điểm: giảm nguy cơ biến chứng vi mạch. Nhược điểm vì
gây tác dụng phụ: tăng cân, tụt đường huyết.
§ Nhóm biguanid: Nhóm
này hiện nay chỉ có một thuốc được sử dụng là metformin. Tác dụng của thuốc là
làm giảm sản xuất glucose ở gan. Ưu điểm: Không gây tăng cân, không gây hạ
đường huyết, giảm nguy cơ biến chứng mạch máu lớn, kèm theo tác dụng giảm
triglycerid huyết, giảm LDL-cholesterol. Nhược điểm: Gây rối loạn tiêu hóa, gây
nhiễm toan acid (lactic acidosis là tác dụng phụ thuộc loại hiếm).
§ Nhóm ức chế men
alpha-glucosidase: Có 3 thuốc thuộc nhóm này là acarbose, voglibose và
miglitol. Tác dụng của thuốc là ức chế alpha-glucosidase, một enzym nằm ở tế
bào biểu mô niêm mạc ruột non đảm nhận việc phân giải các đường disaccharid và
carbohydrat, vì vậy sẽ làm giảm sự hấp thu đường tại ruột. Ưu điểm: Dùng một
mình, thuốc nhóm này không làm tụt đường huyết, cải thiện đường huyết sau ăn.
Nhược điểm: Phải dùng theo bữa ăn 3 lần/ngày, gây tác dụng phụ tiêu hóa (đầy
bụng, tiêu chảy), thường phải phối hợp với thuốc khác.
§ Nhóm metiglinid
(hay glitinid): gồm 2 thuốc repaglinid và nateglinid. Tác dụng của thuốc là
kích thích tế bào bêta tuyến tụy tiết ra insulin giống như nhóm sulfonylure. Ưu
điểm: Cải thiện đường huyết sau ăn. Nhược điểm: Cách dùng phức tạp, phải uống
vào ba bữa ăn (tuy nhiên tác dụng hạ đường huyết lệ thuộc lượng glucose hấp thu
nên “có ăn, có uống thuốc, không ăn không uống thuốc”), gây tăng cân và tụt
đường huyết (tần suất và mức độ thấp hơn so với nhóm sulfonylure).
§ Nhóm
thiazolidinedion (TZD): Gồm 2 thuốc rosiglitazon và pioglitazon. Tác dụng của
thuốc là làm tăng sự sử dụng glucose ở mô ngoại biên (mô mỡ, mô cơ) dưới tác
dụng của insulin (tức là làm tăng độ nhạy của mô với insulin hay làm giảm sự đề
kháng insulin). Ưu điểm: Bảo tồn, kéo dài tuổi thọ của tế bào bêta, làm tăng
HDL-cholesterol và giảm triglycerid, không tụt đường huyết. Nhược điểm: tăng
cân gây phù (do giữ nước muối), cần theo dõi chức năng gan do thuốc có thể làm
hại gan.
Ngoài các thuốc kể
trên hiện nay còn có các thuốc mới như: Thuốc tăng cường hoặc bắt chước
incretin (exenatid), Thuốc ức chế enzym DPP-4 (sitagliptin, vildagliptin).
Dùng thuốc trị đái tháo đường týp 2 lưu ý những gì ?
Nên:
- Hợp tác tốt với
bác sĩ trong điều trị và thực hiện chế độ dinh dưỡng và luyện tập thể lực
- Dùng thuốc theo
đúng chỉ định đều đặn, liên tục.
- Biết cách tự sử
dụng insulin để chủ động dùng thuốc nếu được bác sĩ chỉ định dùng insulin.
- Biết tự theo dõi
đường huyết và phát hiện các biến chứng (như biết triệu chứng của hạ đường
huyết: Đói, mệt, đổ mồ hôi, bủn rủn tay chân…để xử lý bằng cách uống nước
đường, ngậm kẹo) và báo ngay cho bác sĩ khi dùng thuốc có những bất thường.
- Nên hỏi để dùng
thuốc đúng cách đối với thuốc hạ đường huyết uống. Vì tăng đường huyết liên
quan đến bữa ăn nên cách dùng sẽ tùy theo thuốc, uống trước, ngay hay sau bữa
ăn.
Một số cách uống thuốc trị đái tháo đường týp 2:
· Nên uống thuốc
nhóm sulfonylure (glibenclamid, glicazid, glimepirid…) ngay trước bữa ăn sáng
hoặc bữa ăn chính đầu tiên trong ngày (có tài liệu ghi uống vào bữa ăn thì cũng
tương tự). Uống ngay trước bữa ăn để thuốc có thời gian cho tác dụng đúng lúc
đường huyết bắt đầu tăng do bữa ăn.
· Nên uống thuốc
nhóm glitinid (repaglinid, nateglinid) 30 phút trước khi ăn và không uống nếu
không ăn vì tác dụng của thuốc loại này là kích thích tiết insulin khi có
glucose của bữa ăn hấp thu vào máu.
· Nên uống
metformin và pioglitazon cùng với bữa ăn hay ngay sau bữa ăn, acarbose nên uống
ngay khi bắt đầu ăn. Riêng metformin uống sau bữa ăn vì thuốc này có tác dụng
phụ gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy), nếu uống lúc
bụng trống dễ bị rối loạn tiêu hóa hơn.
Không nên:
- Không nên tự
chẩn đoán bệnh (như đi tiểu xem có kiến bu) và tự ý dùng thuốc theo kiểu nghe
lời mách bảo hoặc theo thông tin đọc trong sách báo. Chỉ đi khám bệnh và làm
xét nghiệm máu mới chẩn đoán đúng bệnh và phải dùng đúng thuốc mà bác sĩ chuyên
khoa chỉ định.
- Không tự ý dùng
thuốc theo kiểu mới chớm nghi ngờ mình bị bệnh là vội tự mua thuốc trị ĐTĐ để
tự chữa. Dùng thuốc không đúng còn nguy hại hơn không dùng thuốc. Hoặc đang
dùng thuốc tự ý bỏ thuốc để dùng dược thảo, thuốc Đông y hay phương thức trị
liệu nào đó đã được thổi phồng do lời đồn đại, chứ chưa được chứng thực bằng
thử nghiệm lâm sàng đúng quy cách khoa học.
- Không nên bắt
chước uống loại thuốc của người khác, ngưng thuốc vì thấy đường huyết về bình
thường, tự ý tăng liều thuốc cho mau khỏi bệnh mà không có ý kiến của bác sĩ
điều trị.
- Không tự ý dùng
các thuốc gây tăng đường huyết như glucocorticoid (gọi tắt corticoid), lợi tiểu
(furosemid, indapamid)… Nói chung, bệnh nhân ĐTĐ muốn dùng thêm thuốc nên hỏi ý
kiến của bác sĩ điều trị, chứ không nên tùy tiện dùng.
- Hiện nay, có
nhiều thuốc trị đái tháo đường bị cấm hoặc được khuyến cáo cảnh giác cao độ vì
gây tác dụng có hại ở mức quá trầm trọng. Như rosigitazon đã bị cấm vì gây hại
cho tim mạch. Còn pioglitazon đang bị cảnh giác do làm tăng nguy cơ gây ung thư
bàng quang. Tuy nhiên, người đang dùng thuốc trị đái tháo đường nên yên tâm dùng đúng thuốc đã được chỉ định.
Bác sĩ điều trị cho bạn luôn cập nhập thông tin về thuốc điều trị để điều
chỉnh, thay đổi khi có những sự cố bất thường về sử dụng thuốc. Bác sĩ trực
tiếp điều trị là người có thẩm quyến nhất về chế độ dùng thuốc, vì vậy hãy
thông báo và hỏi ý kiến bác sĩ khi bạn có thắc mắc về thuốc đang dùng. Chứ không
nên bỏ ngang việc dùng thuốc. Đối với bệnh ĐTĐ phải kiên trì dùng thuốc lâu dài
để kiểm soát tốt đường huyết, ngưng ngang việc dùng thuốc có khi là nguy hiểm.
Dược & Mỹ phẩm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét