BRUCE A.ELLEM
*Đây là
bản dịch Chương 3: “Maritime territorial disputes and their impact on
maritime strategy: A historical perspective” trong cuốn Security
and International Politics in the South China Sea(An ninh và chính trị
quốc tế ở biển Đông) do Sam Bateman và Ralf Emmers chủ biên, NXB Routledge,
New York, 2009, tr. 42-57. Tạp chí Thời Đại Mới giữ bản quyền bản dịch
này.
Trung Quốc đã nhiều lần đơn phương tuyên bố chủ quyền tại các
đảo trên biển Đông từ hơn 100 năm nay. Đô đốc Tát Trấn Băng (Sa Zhenbing),
tổng tư lệnh Hải quân Thanh triều đã từng dẫn đầu một tầu viễn dương đến
những vùng biển đang trong vòng tranh chấp này vào năm 1907 để khẳng định các
tuyên bố về chủ quyền của Thanh triều. Vào thập niên 1930, Nhật Bản đã cho
quân đồn trú tại nhiều đảo ở đó cho tới khi những hòn đảo này lọt vào vòng
kiểm soát của Trung Hoa Quốc Dân Đảng sau Thế Chiến Thứ Hai. Bất chấp các
cuộc phản đối của Trung Quốc, Đài Loan vẫn tiếp tục chiếm đóng một số đảo mang
tính chiến lược, bao gồm đảo Đông Sa (Pratas) và Ba Đình (Itu Aba -
Bù lại việc Trung Quốc đã
muộn màng trong việc hiện đại hóa quân đội và ngay cả chưa có hàng không mẫu
hạm cho đến tận bây giờ, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (People’s
Liberation Army ̶ PLA) vẫn phải bám quân ở nhiều đảo và vỉa san hô đang
trong vòng tranh chấp ở biển Đông. Để tăng cường khả năng chỉ huy quân báo,
Trung Quốc đang từng bước xây dựng các trạm vô tuyến trên các đồn trú quân
rải rác này với các thiết bị điện tử đa dạng, từ các máy chuyển tiếp tín hiệu
truyền thông hiện đại cho đến các radar sóng ngắn. Điều này không những cho
thấy sự gia tăng về tiềm năng quân sự của Trung Quốc trong khu vực, mà rõ
ràng còn là những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang chuẩn bị ráo riết cho
việc bành trướng thêm nữa đối với các vùng biển còn đang trong vòng tranh
chấp ở biển Đông.
Bằng việc phân tích các mâu
thuẫn trong quá khứ ở biển Đông, bài viết này sẽ cho thấy tác động của việc
tranh chấp chủ quyền lên việc tăng cường lực lượng hải quân Trung Quốc cũng
như tác động lên một chiến lược hiếu chiến hơn về quyền lợi biển nhằm khoanh
vùng và ngăn cản các nước khác xâm phạm các vùng lãnh hải mà Trung Quốc tuyên
bố là thuộc về họ. Rõ ràng, việc xây dựng dần dần các căn cứ trên các đảo sẽ
cho phép Bắc Kinh một ngày nào đó khẳng định nhiều hơn chủ quyền của họ ở
biển Đông. Điều suy đoán này đã được xác định vào ngày 4 tháng 12, 2007 khi
Trung Quốc đơn phương thông báo thành lập “một thành phố mới” thuộc tỉnh Hải
Nam để quản lý hành chánh quần đảo Hoàng Sa (Paracels), quần đảo Trung Sa
(Macclesfield Bank) và quần đảo Trường Sa (Spratlys) bất chấp rằng chủ quyền
của những quần đảo này vẫn còn đang trong vòng tranh chấp.
Các
tuyên bố lịch sử về chủ quyền tại biển Đông trước Thế chiến Thứ Hai
Có rất nhiều tranh chấp căng
thẳng và tiềm tàng giữa Bắc Kinh và các nước láng giềng Đông Nam Á tại vùng
biển phía nam Trung Quốc, bao gồm tranh chấp chủ quyền ở đảo Đông Sa (Pratas
- Dongsha), quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa, và quần đảo Trường Sa. Tranh chấp
công khai về những hòn đảo này đã nổ ra vào năm 1974, khi hải quân Trung Quốc
đánh bật hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi Hoàng Sa, và một lần nữa vào năm
1988 khi quân đội Trung Quốc đánh bật quân đội Việt Nam ra khỏi bãi đá Gạc Ma
(Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa. Bắc Kinh luôn lớn tiếng tuyên
bố rằng chỉ Trung Quốc mới có chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (theo cách gọi
của Trung Quốc, và là biển Đông theo cách gọi của Việt
Đơn phương tuyên bố chủ quyền
của Trung Quốc đối với biển Đông và các đảo phía nam đã được lặp đi lặp lại
nhiều lần qua việc Trung Quốc rêu rao rằng đã từng có giao thương hàng hải
rộng khắp trong vùng bắt đầu từ thời nhà Hán (206TCN - 220 SCN).[1] Thời nhà Minh
(1368-1644), các đoàn tàu viễn dương Trung Quốc thường đi ngang các vùng nước
này để đi đến eo biển Malacca, và các đoàn thuyền đầy chở đầy của cải của
Trịnh Hòa (Zheng He) có thể đã ghé lại một vài đảo lớn ở đây. Mặc dù nếu tính
tất cả diện tích, lãnh hải bao quanh quần đảo Trường Sa lên đến 180,000 km2,
nhưng chỉ khoảng một trên một chục các đảo ở đó là có thể ở được với tổng
cộng chưa đến 10 km2 đất liền.[2] Vào giữa thế
kỷ 19, nhà Mãn Thanh đã thiết lập được mối quan hệ thương mại “phồn vinh”
giữa Đông và Tây và do đó “các thương thuyền Trung Quốc và thương nhân phương
Tây đã có thế mạnh trong nền kinh tế khu vực."[3]
Mặc dù các ngư dân Trung Quốc
thường đến đánh bắt hải sản ở biển Đông trong hai thiên niên kỷ vừa qua,
nhưng chẳng có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc đã đánh dấu các lãnh hải
của họ ở biển Đông. Nước phương Tây đầu tiên tuyên bố chủ quyền chính thức
đối với Trường Sa là Vương Quốc Anh vào năm 1864, và sau đó Nhật cũng tuyên
bố chủ quyền ở đây vào năm 1877 và 1889. Thật ra những hòn đảo này chỉ là một
vài đảo trong số hơn 100 hòn đảo trên Thái Bình Dương mà Vương Quốc Anh đã
từng tuyên bố chủ quyền để sử dụng chúng như những trạm tiếp liệu. Rất nhiều
những hòn đảo như thế sau này đã được chuyển quyền cai quản sang Tân Tây Lan.[4]
Sau xung đột Trung-Pháp
1884-1885, Pháp biến An Nam (Việt Nam) thành một xứ bảo hộ và sau đó thành
thuộc địa, và trong chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894-1895, Nhật
chiếm cứ Đài Loan. Bắt đầu từ đấy, Trung Quốc đã phản đối các hoạt động khai
mỏ bất hợp pháp trên các đảo giàu phốt-pho và phân chim ở Đông Sa và Trường
Sa. Đó là lý do vào năm 1907 đô đốc Tát Trấn Băng đã dẫn đầu đội hải quân
viễn chinh đòi lại những đảo này cho nhà Thanh như đã nhắc ở trên. Sự xuất
hiện bất ngờ của đô đốc họ Tát đã buộc những phu mỏ đang làm việc ở đó phải
rút lui.
Lo sợ rằng các đảo mà họ
tuyên bố có chủ quyền sẽ dần rơi vào tay các nước khác, tháng 9 năm 1909
chính quyền nhà Thanh đổi tên Ủy ban Cải Tổ Hải Quân thành Bộ Hải Quân nhằm
chính thức hiện đại hóa hải quân Trung Quốc. Ngay sau khi được đổi tên, Bộ
Hải Quân Trung Quốc lập tức tiến hành một số hoạt động trên biển Đông, và vào
năm 1909 và 1910, họ đã chính thức tuyên bố sáp nhập những đảo đang còn trong
vòng tranh chấp này vào tỉnh Quảng Đông và đồng thời tuyên bố hàng năm sẽ
biệt phái một tàu đến biển Đông “để duy trì liên lạc với những người Trung
Quốc ở những đảo này.”[5]
Cùng với sự sụp đổ của Thanh
triều, Trung Quốc đã rơi vào tình trạng hỗn loạn trong nhiều năm. Vào năm
1926, hải quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng vừa mới thành lập đã xây dựng một trạm
vô tuyến ở Đông Sa. Nhân lúc Trung Quốc suy yếu, người Pháp ở Đông Dương đã
sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào thuộc địa Đông Dương vào năm 1932. Thấy thế,
sau khi chiếm được Trung Quốc vào năm 1937, Nhật cũng tuyên bố chủ quyền của
họ đối với quần đảo Đông Sa, Hoàng Sa, và Trường Sa. Cũng vào năm đó, Nhật
chiếm đảo Đông Sa, bắt giữ và thẩm vấn 29 lính Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Quan
ngại trước những đe dọa từ Nhật Bản, Pháp đã tức tốc gửi một đội tàu viễn
dương tới Hoàng Sa, và chính thức tuyên bố chủ quyền đảo này là thuộc Việt
Nam vào ngày 4 tháng 7 năm 1938. Ngay lập tức, chính phủ Quốc Dân Đảng ở
Trùng Khánh và chính phủ Nhật Bản đã phản đối hành động của Pháp; thậm chí
vào ngày 8 tháng 7 năm 1938 Nhật Bản còn ra tuyên bố phản đối Pháp đã vi phạm
chủ quyền của Trung Quốc khi Pháp chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Sau đó, Pháp lại tuyên bố chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa như là một phần của Liên Hiệp Pháp vào năm
1939. Đáp trả lại, vào ngày 31 tháng 3 năm 1939, Nhật Bản thay mặt Đài Loan,
lúc đó đang là một phần của đế quốc Nhật Bản, lên tiếng phản đối về việc
tuyên bố chủ quyền của Pháp. Tuy nhiên, khi Pháp rút quân một năm sau đó,
Nhật tái chiếm Hoàng Sa, nhưng lúc này không phải trên danh nghĩa cho Đài
Loan mà là cho chính chủ quyền của Nhật dựa trên tuyên bố chủ quyền từ năm
1917, mà theo đó chủ quyền của họ đối với quần đảo Trường Sa là từ 7 đến 12
vĩ độ Bắc và 111’30’’ đến 117 kinh độ Đông! Từ năm 1939 đến 1946, Nhật chiếm
đóng đảo Ba Đình, xây dựng các kho nhiên liệu, căn cứ tàu ngầm, và trạm vô
tuyến ở đây. Mãi đến gần cuối Thế Chiến Thứ Hai thì Nhật Bản bị buộc phải rút
lui.
Các
tuyên bố chủ quyền ở biển Đông sau Thế Chiến Thứ Hai
Trước Thế Chiến Thứ Hai,
Trung Quốc đã bỏ mặc Hải
Trong thời gian chiếm đóng
Hải Nam, người Nhật đã xây dựng nhiều khu công nghiệp và quân sự rộng lớn
song song với việc khai thác các mỏ sắt và than đá lớn, cũng như thiết lập
những đường xe lửa đầu tiên nối các khu công nghiệp đó với các căn cứ tàu
ngầm của Nhật ở Ngọc Lâm (Yulin). Sau khi Nhật rút quân khỏi Hải Nam vào năm
1945, một cơn bão lớn vào năm 1946 đã tàn phá nhiều khu mỏ, đường sắt và các
căn cứ hải quân ở đó. Quân đội Trung Quốc thuộc quân khu Bốn đã chiếm được
Hải Nam sau khi đè bẹp sự chống trả quyết liệt từ quân đội của Tưởng Giới
Thạch vào ngày 1 tháng 5 năm 1950.[6] Căn cứ không quân Hải Khẩu được chính thức được tái
khánh thành bởi tư lệnh quân đội Trung Quốc vào tháng 6 năm 1952. Vào thời
điểm đó, hệ thống liên lạc thông tin duy nhất của hạm đội Nam Hải Trung Quốc
là một trạm vô tuyến tần số thấp ở Trạm Giang. Mãi đến năm 1957 hải quân
Trung Quốc mới bắt đầu mở rộng các cở sở quân sự hạ tầng ở Hải
Sau Thế Chiến Thứ Hai, Trung
Hoa Quốc Dân Đảng lại chiếm lại đảo Đông Sa từ tay Nhật Bản và một lần nữa
xây dựng một trạm vô tuyến ở đó. Năm 1947, chính phủ Trung Hoa Quốc dân Đảng
tuyên bố chủ quyền của họ đối với gần như toàn bộ biển Đông với “đường yêu sách
chín đoạn” qua những bản đồ được in ở Trung Quốc vào thời đó. Năm 1949, khi
Trung Hoa Dân Quốc phải rút về cố thủ ở Đài Loan thì Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa đã tiếp nhận quan điểm chủ quyền “đường yêu sách chín đoạn” nói trên về
biển Đông mà còn tranh chấp cả với Đài Loan về chủ quyền quần đảo Đông Sa.
Khi Thế Chiến Thứ Hai kết
thúc, tranh chấp quốc tế về quần đảo Hoàng Sa lại tái diễn với việc Trung Hoa
Quốc Dân Đảng xây một căn cứ trên đảo Phú Lâm (Woody Island) tại phía Bắc
nhóm đảo An Vĩnh (hay Tuyên Đức - Amphitrite group), và tái khẳng định các tuyên
bố chủ quyền của họ đối với quần đảo Trường Sa bằng cách đóng quân ở đảo Ba
Đình từ năm 1948 đến 1950. Trong khi đó, Pháp cho đồn trú hải quân An Nam xa
hơn ở phía Tây trên đảo Hoàng Sa thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm (hay Trăng
Khuyết - Crescent group) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Quốc Dân Đảng
bị buộc phải rút lui khỏi đảo Hải
Đảo Phú Lâm gần như không có
người ở trong suốt những năm cuối của thập niên 1950. Vào năm 1974, lợi dụng
cuộc tổng tiến công của quân đội Bắc Việt xuống miền nam Việt Nam, hải quân
Trung Quốc đã đánh bật hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi Tây Hoàng Sa, và
một lần nữa tuyến bố chủ quyền với tất cả các đảo ở đây. Sau khi Việt
Năm 1979, e rằng hải quân
Trung quốc đang đồn trú ở Trường Sa có thể tham gia vào cuộc xâm lăng Việt
Năm 1988, Trung Quốc chính
thức sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào một tỉnh mới lấy tên là tỉnh
Hải
Trong năm 2002, Trung Quốc và
các nước thuộc khối ASEAN đã đồng ý giải quyết các tranh chấp còn tồn tại
trên nguyên tắc hòa bình. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố chủ
quyền của họ trên toàn bộ quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, vì không được
mời, nên trước ngày các hiệp định được ký kết, Đài Loan đã tuyên bố là họ sẽ
không tuân thủ bất kỳ một thỏa ước đa phương nào mà họ không được chấp nhận
là thành viên. Cần hiểu rằng Đài Loan vẫn đang thực sự kiểm soát một số hòn
đảo thuộc loại lớn nhất và sẵn sàng đáp trả với lực lượng hải quân đáng gờm
của họ, do đó bất cứ giải pháp lâu dài nào cũng phải tính đến Đài Loan.
Các tranh chấp lãnh thổ ở
biển Đông xem ra rất phức tạp. Trung Quốc, Đài Loan và Việt
Các
căn cứ quân sự của Trung Quốc ở biển Đông
Các căn cứ quân sự của Trung
Quốc ở biển Đông dần dần được củng cố và có khả năng tác chiến cao hơn. Điển
hình là đảo Hải Nam với hạ tầng cơ sở viễn thông được nối kết rất tinh vi và
được ngụy trang rất khó phát hiện từ khi Trung Quốc chủ động bành trướng
xuống phía nam đảo Hải Nam qua việc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam vào
năm 1974. Trong thập niên 1990 Trung Quốc tiếp tục xây dựng thêm các căn cứ
quân sự trên một số hòn đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa. Dựa trên các thiết
bị điện tử và cơ sở vật chất được quan sát qua vệ tinh, thì đảo Phú Lâm và
bãi đá Gạc Ma dường như là hai căn cứ chính cho các hoạt động bành trướng của
hải quân Trung Quốc kéo dài từ biển Đông đến tận eo biển Malacca. Các đảo và
các rặng đá ngầm khác có vũ trang của Trung Quốc được nối kết qua vệ tinh hay
trạm vô tuyến mặt đất, và thậm chí họ còn có mạng Internet để liên lạc giữa
các tướng lĩnh địa phương và các hạm đội. Đó là chưa kể đến các thiết bị điện
tử tinh vi trên các chiến đấu cơ, tàu chiến, và tàu ngầm, tất cả đều phục vụ
vào việc tăng cường tiềm năng quân sự sẵn có trên đất liền của Trung Quốc rất
nhiều.[8]
Các căn cứ quân sự trên đảo Hải Nam
Phần lớn các căn cứ quân sự ở
bờ biển phía nam Trung Quốc được kết nối vô tuyến với các hoạt động hải quân ở
ngoài khơi. Trung tâm đầu não của hệ thống viễn thông này dường như tập trung
ở đảo Hải
Để kiểm soát được một khu vực
rộng lớn như thế, một ra-đa lớn loại quét sóng quá chân trời (OverTheHorizon
Backscatter Radar- OTHB Radar) được
đặt gần bờ biển Hải
Từ năm 2000, Trung Quốc đã
phóng ba vệ tinh lên quỹ đạo không gian để thiết lập cho riêng họ hệ thống vệ
tinh định vị Beidou, còn gọi là “Big Dipper”. Khác với hệ thống GPS của Mỹ và
GLONASS của Nga, Beidou là hệ thống vệ tinh định vị khu vực. Từ khi được đưa
vào hoạt động vào năm 2008, hệ thống định vị Beidou đã giúp Trung Quốc ít lệ
thuộc hơn và đang dần dần “trở thành một đối thủ đáng gờm đối với vai trò
tiền phong của các vệ tinh định vị của Mỹ và châu Âu,”[11] đặc biệt là
một thách thức đối với vị trí dẫn đầu trong hai thập niên qua của hệ thống
định vị GPS của Mỹ. Mặc dù chỉ có khả năng giúp định vị một cách hạn chế, chủ
yếu là vùng bờ biển Trung Quốc, hệ thống Beidou có thể phủ sóng tới toàn bộ
phần lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền ở biển Đông.
Trong khi đó, dịch vụ kiểm
soát hàng hải (VTS) được đặt ở Trạm Giang với sự hỗ trợ của hệ thống vi tính
hiện đại và các radar được xây dựng dọc theo bờ biển phía Tây Hải
Để hỗ trợ cho các hoạt động
tàu ngầm ở khu vực này, một trạm vô tuyến tần số thấp công suất cao đã được
xây dựng ở Hải
Các căn cứ quân sự ở Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa là nơi
Trung Quốc có các căn cứ quân sự đứng thứ hai về tầm quan trọng chỉ sau Hải
Đầu tiên Trung Quốc đã xây
dựng một đường băng dài khoảng 360 mét ở đảo Phú Lâm.[16] Sau đó, đường
băng được mở kéo dài thành trên hai kí-lô-mét, và cuối cùng là hai kí-lô-mét
rưỡi. Đường băng bê-tông này có thể tiếp nhận các máy bay ném bom và các máy
bay vận tải lớn. Trong khi đó, một cầu tàu dài hơn được xây dựng để tăng
cường cho cầu tàu duy nhất trên đảo. Gần với đường băng là “một khu chứa máy
bay bao gồm bốn nhà khối bê tông có mái che, mỗi cái có thể chứa hai máy bay
chiến đấu, và một bãi đậu có thể chứa thêm 30 chiếc nữa. “Ngoài ra còn có
thêm một khu đặt súng cao xạ bắn máy bay ở đầu cuối phía Bắc đảo Phú Lâm. Từ
năm 1991, cả thảy đã có 67 chiến đấu cơ với tổng cộng 14 lần điều động đến
đảo này.”[17]
Đảo lớn nhất ở quần đảo Hoàng
Sa cũng có tên là Hoàng Sa (
Mặc dù Trung Quốc đã nhiều
lần tuyên bố là sẽ không can thiệp vào việc tự do đi lại của các tàu bè quốc
tế, nhưng họ từ chối minh bạch hóa những vùng nào mà họ tuyên bố là có chủ
quyền. Bằng cách vẽ “đường yêu sách chín đoạn” bao quanh quần đảo Hoàng Sa,
Bắc Kinh rõ ràng đã đơn phương sát nhập vào họ các vùng lãnh hải và không
phận thuộc vùng tự do đi lại quốc tế từ xưa đến nay. Theo Mark Valencia, rất
có thể Bắc Kinh sau này sẽ bắt buộc các tàu bè qua lại phải xin phép khi đi
qua các vùng đang được tự do di chuyển hiện nay. Dĩ nhiên là bây giờ Trung
Quốc chưa thể áp đặt một chính sách như thế nhưng khi họ đủ mạnh, họ có thể
sẽ thực hiện điều này.[19] Việc Trung
Quốc gia tăng sức mạnh quân sự và thám báo trên quần đảo Trường Sa khiến khả
năng có một chính sách kiểm soát qua lại trên biển Đông nghiêm ngặt như thế
ngày càng trở nên hiện thực hơn.
Các căn cứ trên quần đảo Trường Sa
Mặc dù phân tán trên một vùng
rộng lớn, một vài đảo thuộc quần đảo Trường Sa có thể trở thành căn cứ quân
sự của Trung Quốc. Trong quá khứ quần đảo Trường Sa gần như không có người ở
cho mãi đến Thế Chiến Thứ Hai khi Nhật Bản xây dựng các công sự ở đảo đá Danger
(Danger Reef- nay là đảo đá Kingman – người dịch), cồn Tizard (Tizard Bank) và đảo Nam Yết
(Namyit); rất nhiều khu vực đó hiện nay đang có quân đội Việt Nam và
Philippines trú đóng. Đảo Ba Đình là một trong những đảo nằm xa nhất về hướng
Bắc của quần đảo Trường Sa và là một trong số rất ít những đảo đủ lớn để xây
dựng một sân bay và một căn cứ tàu ngầm.[20] Đài Loan vẫn tiếp tục chiếm giữ đảo Ba Đình, và gần
đây đã kéo dài đường băng ở đấy để có thể tiếp nhận được những máy bay trọng
tải lớn hơn.
Trung Quốc đang tìm mọi cách
để nhanh chóng thay đổi cán cân quyền lực mỏng manh trong vùng bằng cách xây
dựng các căn cứ ở những đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa này. Vào thập niên
1980, các cuộc tuần tra trên biển bằng các tàu nghiên cứu đại dương đều được
các tàu chiến Trung Quốc hộ tống. Sau khi các tàu dân sự và tàu khoa học thăm
dò khu vực này vào tháng 10 năm 1987, Trung Quốc đánh chiếm bãi đá Chữ Thập (
Một ăng-ten Trung Quốc làm
nhái theo kiểu Bean Sticks của Mỹ có tần số từ 70 đến 73 MHz và phạm vi hoạt
động trong vòng bán kính 180 km. Hai vòm của hai ăng-ten phát sóng đặt trên
tòa nhà tương tự như là thiết bị RWS-1 đặt trên các khu trục hạm của Mỹ. Một
vài cáp của ăng-ten truyền thông và cột ăng-ten cao hơn cũng được đặt trên
nóc nhà.[21]
Vào năm 1988-1989, vài chục
tàu chiến Trung Quốc cũng tiến hành các cuộc tập trận lớn trùng với việc
chiếm đoạt thêm một số dải đá ngầm chiến lược ở quần đảo Trường Sa. Sau đó
vào tháng 11 năm 1990, Trung Quốc công bố một bản báo cáo về hải lưu rất dài
của các tàu “nghiên cứu”.[22] Tới thập niên
1990, Trung Quốc lại khởi công xây dựng các trạm đóng quân tạm thời và các
công trình bát giác bằng gỗ trên các cọc gỗ ở sáu rặng đá ngầm. Những công sự
này được chính quyền Bắc Kinh gọi là “những chòi trú bão”.[23]
Một căn cứ quân sự nhỏ khác
cũng được xây dựng ở bãi đá Gạc Ma. Theo các bức không ảnh, các nhà gỗ bát
giác tạm thời này ban đầu được xây trên những cọc gỗ nhưng đến năm 1989 thì
hai ăng-ten liên lạc vệ tinh đường kính 2,5m đặt cạnh một trụ ăng-ten cao
2,4m được lắp đặt trên hai tòa tháp tròn xi-măng nằm trên hai đầu của một tòa
nhà xi măng hai tầng. Trong khi đó ở rặng đá Su bi (Subi Reef), Trung Quốc
cho xây một trại lính và một tòa nhà hai tầng cùng với một ăng-ten liên lạc
vệ tinh. Trạm này cũng có “một sân đáp trực thăng và một cầu xi-măng kiên cố
với nhịp uốn xi măng nối liền với tòa nhà sở chỉ huy.”[24]
Năm 1995, Trung Quốc bắt đầu
xây dựng trên bãi đá Vành Khăn (Mischief Reef) và tháng 10 năm 1998 họ bắt
đầu mở rộng thêm với việc lắp đặt những chảo ăng-ten vệ tinh 2,5m. Theo một
nguồn tin, những tòa nhà xi-măng 2 tầng này giống với những công sự phòng thủ
được trang bị với những ăng-ten râu tần số cao liên lạc trực tiếp qua vệ tinh.[25] Hai năm sau
đó, các bệ súng và các thiết bị điện tử chính được lắp đặt thêm ở một tòa nhà
nhỏ hơn ở phía Bắc. Các cầu tàu, bãi đáp trực thăng, và một số súng phòng
không đã được dựng lên, cùng với một hệ thống tên lửa chưa xác định được là
loại gì. Có một vài báo cáo cho rằng đó là những tên lửa chống hạm Silkworm.[26]
Trong khi đảo Hải Nam là nơi
đồn trú tất cả các căn cứ hải quân và không quân chủ lực, thì các phương tiện
thiết bị nhỏ hơn nhiều ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giúp liên lạc và thám
báo cho các cuộc viễn chinh hàng hải trong tương lai và cho các tàu ngầm
Trung Quốc thường xuyên qua lại biển Đông. Để hỗ trợ cho các tàu trên mặt
biển, Trung Quốc đã dần dần tăng số lượng máy bay, tàu ngầm và hạm đội trong
vùng này. Vài năm gần đây, Hải quân Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động
tuần thám và tập trận ở rất xa vươn tới vịnh Bengal và biển Andaman, nơi mà
Trung Quốc bắt đầu xây dựng trạm tình báo điện tử (SIGINT) quan yếu đời mới
vào năm 1993, và “đang nắm quyền kiểm soát đảo Coco của Miến Điện với hệ
thống thám báo vô tuyến điện tử và ra-đa công suất cao của Nga cùng với các
trạm thám báo điện tử bổ sung ở Man-aung, Hainggyi và Zadetkyi Island.”[27]
Các
lực lượng hải quân, tàu ngầm và thủy lục không quân của Trung Quốc
Hạm đội Nam Hải cuả Trung
Quốc đóng ở Trạm Giang (
Thủy không quân
Để hỗ trợ cho các mục tiêu
hàng hải trên biển Đông, Trung Quốc phải gia tăng tối đa việc kiểm soát không
phận của họ. Hải quân và không quân hỗ trợ các hoạt động chiến đấu ở Hoàng Sa
vào thập niên 1970 và ở quần đảo Trường Sa vào thập niên 1980. Việc hỗ trợ
bằng không quân này đã tăng theo thời gian rất nhiều từ việc cung cấp các máy
bay trực thăng cho đến các máy bay ném bom hải quân. Trong suốt hai thập niên
vừa qua, quân số của hải quân và không quân Trung Quốc đã tăng gấp đôi, từ
15.000 lên hơn 30.000, và số lượng máy bay tăng từ 400 lên 700 chiếc. Việc
tăng cường khả năng tiếp nhận của thủy không quân vào biển Đông càng được đẩy
mạnh hơn nữa bằng việc hoàn thành đường băng trên đảo Phú Lâm. Một bức ảnh vệ
tinh vào tháng một năm 1999 đã cho thấy một cơ sở tiếp nhiên liệu cho các máy
bay hải quân đang được xây dựng.[29] Cùng với việc
có thể chứa một lúc đến 1000 binh sĩ ở Hoàng Sa, các quan sát không ảnh cũng
cho thấy: “các máy bay đặt căn cứ ở đảo Phú Lâm có thể vươn tới nhiều mục
tiêu dọc bờ biển Việt Nam và các đảo Trường Sa.”[30]
Trung Quốc cũng đang tiến
hành kết nối các hệ thống hướng dẫn hàng hải, bao gồm mạng lưới hỗ trợ hướng
dẫn bao quát tầm xa từ Hàn Quốc cho tới Hải Nam với tầm hoạt động vào ban
ngày là 1200-1700km, có thể vươn tới Đài Loan và Nhật Bản, và tầm hoạt động
ban đêm có thể đạt tới gần 3000km. Vào tháng 4 năm 1984, Trung Quốc đã phóng
thành công vệ tinh đầu tiên của họ dùng sức đẩy của tên lửa Trường Chinh-3.
Kể từ đó, đã có thêm hàng chục cuộc phóng vệ tinh khác trong đó ít nhất đã có
9 vệ tinh viễn thông thuộc 3 kiểu khác nhau được sử dụng để hỗ trợ các phương
tiện liên lạc quân đội của Trung Quốc.
Trung Quốc không thiết kế hay
là phóng các vệ tinh hải dương học cảm ứng từ xa, mà nâng cấp các trạm thu
tín hiệu trên mặt đất của Cục Hải dương học Trung Quốc để có thể thu thập các
thông tin dữ liệu giúp giám sát đại dương từ các vệ tinh nước ngoài như các
vệ tinh của Nhật Bản, GMS, Landsat, Nimbus-1, và NOAA của Mỹ
Trung Quốc cũng lắp đặt các
trang thiết bị đặc biệt cho nhiều tàu nghiên cứu hải dương học của họ. Mười
tàu nghiên cứu hải dương lớn Xiang Yang Hong (East
is Red) có trọng tải rất khác nhau từ 15.000 tấn đến chỉ có 1.000 tấn. Ngoài
ra cũng có khoảng mười hai tàu nghiên cứu hải dương học khác, mỗi chiếc
khoảng 3000 tấn, và nhiều tàu nhỏ được trang bị hiện đại để khảo sát đại dương.
Tất cả những con tàu này đều có thể được sử dụng để hỗ trợ cho việc phát
triển hạm đội tàu ngầm Trung Quốc
Các tàu ngầm của Trung Quốc.
Các điểm dễ xảy ra xung đột ở
biển Đông có thể cần đến tàu ngầm vì theo báo cáo trong trận hải chiến
Trung-Việt ở quần đảo Hoàng Sa năm 1974 có cả 2 tàu ngầm Trung Quốc tham gia.
Trong suốt thập niên 1970, Ngọc Lâm trở thành căn cứ của Hạm đội tàu ngầm Thứ
32. Cuối thập niên 1980, tàu ngầm tiếp nhiên liệu 10.000 tấn R-327 Yong Xing Dao đã hỗ trợ các tàu Yulin kiểu
033. Các hoạt động sửa chữa và bảo trì lớn cho các tàu ngầm ở Nam Hải được
thực hiện tại xưởng đóng tàu ngầm ở Quảng Châu phía nam Trung Quốc.
Ngoài 3 tàu ngầm loại Dajang dùng hỗ trợ các tàu mặt biển được đóng từ 1978 đến
1980, Trung Quốc còn có khoảng 10 tàu ngầm cứu hộ dùng hỗ trợ các tàu mặt
biển khác được phân bổ rải rác ở các căn cứ.
Đầu thập niên 1990, các tàu
ngầm Trung Quốc có thể đi đến bất cứ chỗ nào trong vùng biển Đông đang tranh
chấp để chứng tỏ các tuyên bố chủ quyền của mình. Các căn cứ tàu ngầm Trung
Quốc có thể sẵn sàng hoạt động không chỉ ở quần đảo Hoàng Sa, bao gồm cả đảo
Phú Lâm, mà còn có thể vươn xa tới Ấn Độ Dương. Ấn Độ đã từ lâu nghi ngờ căn
cứ hải quân mà Trung Quốc xây dựng ở Myanmar vào năm 1992 có thể một ngày nào
đó được sử dụng để hỗ trợ cho các tàu ngầm của hải quân Trung Quốc. Được đặt
ở đảo Hainggyi trên sông Irrawaddy, căn cứ này có thể mở rộng ra đến vịnh
Bengal và Ấn Độ Dương. Căn cứ này có vị trí chiến lược rất quan trọng vì
ngoài việc cung cấp thông tin tình báo cho các căn cứ và cho các tàu mặt biển
hay tàu ngầm, nó còn được nối trực tiếp với tỉnh Côn Minh Trung Quốc chỉ qua
một con sông và một hành lang đường bộ
Việc Trung Quốc mua các tàu
ngầm loại Kilo của Nga và việc Trung Quốc tiếp tục tự sản xuất các tàu ngầm
sơ khai chạy bằng diesel càng làm gia tăng mối đe doa đối với các nước đang
có tuyên bố chủ quyền một phần hay toàn bộ ở biển Đông. Các cở sở hạ tầng hỗ
trợ cho tàu ngầm của Trung Quốc đang được gấp rút triền khai. Trong
tháng 5, 2005, một tàu ngầm nguyên tử kiểu Hán đã bị phát hiện đang dừng lại
ở đảo hải
Lực lượng tàu ngầm ngày càng
đóng vài trò quan trọng hơn đối với hải quân Trung Quốc qua việc một số lớn
tàu đang được chuyển về phía
Trong suốt thập niên vừa qua,
việc Trung Quốc mua của Nga 4 khu trục hạm có trang bị tên lửa loại
Sovremenny và thêm 8 tàu ngầm diesel loại Kilo đã tăng cường một cách cực kỳ
nhanh chóng tiềm năng quân sự của Trung Quốc ở biển Đông. Mối đe dọa của các
tàu ngầm Trung Quốc thực nghiêm trọng vì trong khi tổng số tàu ngầm đang hoạt
động của Trung Quốc là 30 chiếc, so với 50 chiếc của hải quân Mỹ, nhưng số
tàu ngầm Trung Quốc đã đóng mới trong năm năm vừa qua nhiều hơn Mỹ gấp 8 lần!
Một chuyên gia quân sự cho rằng, “Mặc dù tính tổng quát họ vẫn chưa bắt kịp
Mỹ nhưng chỉ đến cuối thập niên này thôi, Trung Quốc sẽ có nhiều tàu ngầm hơn
Mỹ.”[34] Cứ với
đà này Trung Quốc sẽ đủ sức trong việc sử dụng sức mạnh tàu ngầm để cũng cố
quyền kiểm soát phần lãnh thổ đang trong vòng tranh chấp tại biển Đông.
Các đơn vị hải quân Trung Quốc.
Biết là có nhưng lực lượng
thủy quân lục chiến của Trung Quốc ít được biết đến trước đây. Lữ đoàn thủy
quân lục chiến đầu tiên của Trung Quốc gồm khoảng 4000 lính và thiết giáp lội
nước được thành lập ở Hải Nam vào thập niên 1980, trong khi một lữ đoàn thủy
quân lục chiến thứ hai gồm 5000 lính được thành lập ở Trạm Giang năm 1991.
Thay vì đặt căn cứ gần vùng tranh chấp Đài Loan, nơi đáng lẽ ra là địa điểm
hợp lý nhất, lữ đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên này lại được đặt căn cứ ở
Hải
Hải quân Trung Quốc đã
đóng vai trò quan trọng trong những xung đột ở biển Đông. Quần đảo Hoàng Sa
đã bị đánh chiếm từ tay Nam Việt
Vào thập niên 1980, có
một vài báo cáo cho rằng quân đoàn hải quân Trung Quốc đã lớn mạnh và chia
thành ba hạm đội, gồm tổng cộng 56000 quân. Đầu thập niên 1980, Trung Quốc cũng
thành lập các hạm đội nhỏ phản ứng nhanh, hầu hết là để bảo vệ trong nước và
biên giới, nhưng một hạm đội lớn hơn dành cho các hoạt động tấn công ven biển
được thành lập ở Vùng Quân Sự Quảng Châu vào năm 1990. Vào tháng 11 năm 1995,
một cuộc tập trận có đổ bộ lên đất liền lớn nhất đã diễn ra ở đây.
Để hỗ trợ cho hải quân, một
loạt thuyền đổ bộ đất liền được đóng ở Trung Quốc. Từ năm 1962 đến năm 1972,
Trung Quốc đã đóng tổng cộng 50 chiếc LCM lớp Yuqin (tàu đổ bộ hạng
trung). Vào năm 1968, Trung Quốc lại bắt đầu cho đóng hơn 30 chiếc LCM lớp
Yuchai và 235 chiếc LCM lớp Yunnan. Giữa năm 1972 và 1974 có đến 23 chiếc LCU
hạng Yuling (hệ thống phụ trợ tàu đổ bộ) được đóng. Còn tàu đổ bộ lớn nhất
đầu tiên được thiết kế và đóng tại Trung Quốc vào năm 1979 là chiếc LST (tàu
đổ bộ với xe tăng lội nước) loại Yukan 4100 tấn. Tổng cộng bảy chiếc
tàu thuộc loại này đã được hoàn thành từ năm 1980 đến năm 1995 bắt chước loại
tàu American World War II LSTs mà Trung Quốc đã tiếp thu được vào năm 1949,
loại LST lớp Yukan này có thể chở tới 5 xe tăng cùng với các loại xe cơ giới
và binh lính.
Vào năm 1980, Trung Quốc bắt
đầu xây dựng các xe chuyển lính lớp Qiongsha 2150 tấn mà mỗi lần có thể
chuyên chở 400 lính. Hai chiếc Qiongsha khác cũng được đóng để làm tàu bệnh
viện để cứu thương cả trên đất liền và trên biển.[35] Năm 1980 cũng
tiến hành đóng 4 chiếc LSM (landing ships medium – tàu đổ bộ cỡ trung- người dịch) lớp Yudao
trọng tải 1460 tấn, và trong suốt năm 1991 đến năm 1996 tiến hành đóng
6 chiếc cỡ lớn LST lớp Yuting. Những chiếc này có trọng tải lên đến 4800 tấn
gồm 10 xe tăng, 4 LCUs cho 250 lính , và 2 máy bay trục thăng cỡ trung. Chiếc
LST lớp Yuting này có trọng tải này gấp 2 lần so với LST của Mỹ hoặc loại LST
lớp Yukan của Trung Quốc được đóng trước đó. Vào năm 2000, Trung Quốc bắt đầu
cho đóng các LST hạng Yuting, được biết đến với tên gọi Yuting – III . Ít
nhất 4 chiếc loại này đã được hoàn thành.
Việc đóng quân của lực
lượng hải quân Trung Quốc và các tàu hỗ trợ ở đảo Hải
Nhờ vào các thủy không
quân,tàu ngầm, lực lượng hải quân của PLAN đóng tại đảo Hải Nam và một số đảo
xa bờ, Trung Quốc có thể tiến hành rất nhiều hoạt động quân sự ở biển Đông.
Từ các căn cứ kể trên, quân đội Trung Quốc có thể:
dùng tàu để ngăn chặn đối
phương đến từ rất xa - nếu tính từ Trung Hoa lục địa. Một lực lượng hải quân
như vậy có thể làm khó dễ cho việc vận chuyển hàng hóa bằng tàu, đặc biệt là
những con tàu chở dầu tới Nhật Bản và Hàn Quốc. Quan trọng là hạm đội
Nam Hải có một dải đất lớn nhất để tập trận, tổng cộng có 7 bãi tập trận.[37]
Hải lực hung hậu này một ngày
nào đó sẽ giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu chiến lược dài hạn là nắm quyền
kiểm soát hoàn toàn biển Đông.
Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc ở biển
Đông
Sau khi tuyên bố chủ quyền
trên toàn bộ biển Đông, Trung Quốc liên tục lập luận rằng họ cần khai thác
trữ lượngdầu khí để phát triển nền kinh tế. Trong suốt thập niên 1990, Việt
Ngoại giao có thể là con
đường mà Bắc Kinh sẽ chọn để giải quyết cuộc tranh chấp này, nhưng sự lớn
mạnh rất nhanh của hải quân Trung Quốc rõ ràng đóng một vai trò rất quan
trọng. Theo Giang Trạch Đông (Yuan Jing-dong), chiến lược của Trung Quốc gồm
hai bước: “Bước đầu là dùng ngoại giao là để duy trì tình hình hiện tại và
phát triển hợp tác; đồng thời với việc tăng cường sức mạnh hải quân để trong
trường hợp ngoại giao không được thì mới phải dùng đến vũ lực”.[38] Vào năm 1995,
Phillipines và Trung Quốc đã thông qua 8 “nguyên tắc ứng xử”. Tuy nhiên , Bắc
Kinh vẫn tiếp tục nâng cấp các công sự ở Trường Sa mặc dù đang có những tranh
chấp với Phillipines về chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough (Scarborough
Shoal-Huangyan Dao), bãi đá lộ Luzon. Theo một bản báo cáo từ trung tâm
nghiên cứu chiến lược
Chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc và những lợi ích kinh tế luôn đi đôi với nhau vì những hải lộ quan yếu,
các vùng đánh bắt thủy sản trù phú, và hàng loạt tiềm năng dầu khí ở biền
Đông. Đặc biệt là trữ lượng lớn dầu khí của Trung Quốc đều nằm ở ngoài khơi,
và vì những khu vực này đều nằm ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của quân
đội Bắc Kinh, những mối đe doạ này chỉ có thể giải quyết bởi lực lượng hải
quân và không quân. Rất nhiều nguồn năng lượng ngoài khơi vẫn chưa được khai
thác và những ước tính của Trung Quốc về trữ lượng dầu và khí đốt ở biển Đông
rất lớn, đạt đến 213 tỉ thùng dầu thô cho lần khai thác đầu tiên và 33 tỉ mét
khối cho lần khai thác thứ hai.[40]
Khi nhìn vào bối cảnh lịch sử
của Trung Quốc về việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, biến cố EP-3 vào
tháng tư năm 2001 khiến người Mỹ thấy rõ ràng rằng đây là “dấu hiệu gần đây
nhất cho thấy Bắc Kinh đang cố tìm mọi cách để thâu tóm chủ quyền trên toàn
bộ biển Đông”.[41] Vào ngày 1
tháng 4 năm 2001, hai chiếc máy bay chiến đấu F-8 được chế tạo ở Trung Quốc
đã tiếp cận máy bay trinh sát EP-3 của Mỹ trên vùng biển Đông khoảng 150km về
phía đông nam đảo Hải Nam, và một trong số 2 máy bay F-8 đã vô tình va chạm
với máy bay trinh sát EP-3. Trong khi EP-3 hạ cánh an toàn xuống Hải
Mặc dù rằng máy bay Mỹ đã ở
bên ngoài giới hạn địa phận Trung Quốc 22km và đang bay trên vùng biển quốc
tế, giới chức Trung Quốc vẫn khăng khăng cho rằng vụ va chạm đã xảy ra cách
đảo Hải Nam 150km, chính phủ Trung Quốc vẫn tuyên bố chủ quyền trên không
phận những vùng biển này bởi vì có một số đảo nhỏ thuộc vùng biển Đông và
chính những đảo này đã mở rộng lãnh hải của Trung Quốc. Một người dân Trung
Quốc đã tức giận nói: “Biển Đông là lãnh thổ của chúng ta. Chúng ta phải dạy
cho người Mỹ một bài học và cho họ thấy Trung Quốc không phải là
Trong suốt những cuộc đàm
phán nhằm thả tự do cho phi hành đoàn của Mỹ, Trung Quốc đã cố gắng lợi dụng
vụ xung đột EP-3 để làm giảm tầm ảnh hưởng của quân đội Mỹ ở châu Á. Richard
Solomon, Chủ Tịch Học viện Hoà Bình Hoa Kỳ (the US Institute of Peace) thậm
chí đã cảnh cáo rằng:
Bối cảnh [cho cuộc xung đột
máy bay này] đã khiến người ta nhớ lại hồi đầu thập niên 1990, khi mà người
Trung Quốc đã tìm mọi cách để gạt bỏ Hoa Kỳ ra khỏi vùng Châu Á Thái Bình
Dương nếu như họ muốn lấy lại những gì mà họ cho là của họ: Đài Loan và biển
Đông,
và nếu như Trung Quốc đã có
thể ngăn chặn máy bay của Mỹ bay gần đảo Hải Nam thì điều này vô hình chung
“làm giảm sự có mặt tổng quát của chúng ta [Hoa Kỳ] ở vùng này” [45]
Trung Quốc vẫn không ngừng
tìm cách thâu tóm toàn bộ biển Đông. Gần đây nhất, vào ngày 4 tháng 12 năm
2007, Trung Quốc thông báo rằng tất cả lãnh thổ ở biển Đông sẽ được đặt dưới
quyền quản lý như là một quận được chia trong phạm vi hành chánh của tỉnh Hải
Nam. Thành phố mới khổng lồ được gọi là Nam Sa, quản lý 3 quần đảo Hoàng Sa ,
Trường Sa và Trung Sa. Ngay sau thông cáo này của Trung Quốc, “làn sóng
phản đối nổi lên khắp nơi trong vùng: cả Việt
Kết luận
Sau khi xem xét những dẫn
chứng lịch sử về việc tranh chấp hải phận của Trung Quốc, bao gồm cả đảo Đông
Sa, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, cùng các tuyên bố chủ quyền đơn
phương của Trung Quốc song song với việc bắt đầu từ năm 2002 mà theo đó Trung
Quốc hứa sẽ làm việc cùng với các quốc gia ASEAN để hạn chế những xích mích
và giải quyết những mối bất đồng về chủ quyền các đảo này một cách hoà bình,
ở một chừng mực nào đó cần được theo dõi và xem xét một cách cẩn trọng. Đặc
biệt vì Đài Loan bị loại trừ ra khỏi hiệp định - mặc dù Đài Bắc vẫn là
bên đưa ra những tuyên bố chủ quyền đối với các lãnh thổ đang trong vòng
tranh chấp này và hiện đang chiếm hữu một số đảo lớn - thì lại càng
không thể hy vọng đạt được một giải pháp lâu dài qua đường lối ngoại giao.
Điều này rõ ràng đã mở rộng cửa để một ngày không xa Trung Quốc sẽ áp đặt và
sử dụng vũ lực ở biển Đông.
Nhìn vào việc phát triển
nhanh chóng tiềm năng liên lạc vô tuyến, vệ tinh thám báo, và các công trình
hỗ trợ của hải quân trên các đảo ở biển Đông, Trung Quốc rõ ràng đang tiến
hành một chiến lược hải quân nhằm gia tăng việc kiểm soát hàng hải ở vùng
này. Thay vì đầu tư vào việc xây dựng một hàng không mẫu hạm đắt tiền và phải
mất thời gian khá lâu để có thể đưa vào sử dụng, Trung Quốc đã quyết định xây
dựng các căn cứ đa năng, đa dụng trên các đảo nằm ở các vị trí chiến lược
ngoài khơi và đã liên kết các căn cứ này bằng một mạng thông tin điện tử vô
tuyến hiện đại. Hầu hết những căn cứ này đều có những bãi đáp trực thăng và
những bến tàu từ nhỏ đến trung bình để có thể tiếp nhận thêm nhân sự cũng như
tiếp tế hậu cần bằng đường biển.
Nếu xung đột quân sự nổ ra,
hoặc nếu như Bắc Kinh có những chính sách hiếu chiến hơn, thì những con tàu
trên mặt biển của Trung Quốc, hải lục không quân, tàu ngầm, và những lực
lượng hải quân khác có thể sử dụng những căn cứ này một cách dễ dàng để hỗ
trợ cho việc bành trướng xa hơn nữa. Từ những bài học trong quá khứ, Bắc Kinh
sẽ không do dự để có những hành động chống lại những gì mà họ cho là một “sự
thách đố” đối với “thanh thế đang lên của Trung Quốc như là một siêu cường.” Mi Chấn Ngọc (Mi Zhenyu), nguyên sĩ quan chỉ huy của Học
viện Khoa học Quân sự của quân đội Trung Quốc, đã phát biểu rằng: “Trung Quốc
phải phát triển sức mạnh hải quân đề bảo vệ và nhất định không nhân nhượng dù
chỉ một inch trong tổng số ba triệu km đường lãnh hải. Trung Quốc phải xây
dựng cho được một Vạn Lý Trường Thành trên biển.”[48]
Tuy nhiên, để bảo đảm cho các
tuyên bố mở rộng chủ quyền ở biển Đông, Bắc Kinh trước hết sẽ phải vượt qua
rất nhiều những nhược điểm và thiếu sót nghiêm trọng trong lực lượng hải quân
của họ. Không thể chỉ với một quan điểm quân sự đơn thuần, hải quân Trung
Quốc lại có thể thách thức cùng một lúc với tất cả các nước láng giềng Đông
Nam Á. Rất có thể Trung Quốc sẽ tìm cách triển khai những chiến lược về hàng
hải dài hạn hơn để họ có đủ thời gian vượt qua các nhược điểm về học thuyết,
về trang thiết bị, và về huấn luyện. Cũng như Michael McDevitt đã từng cảnh
báo một cách khéo léo rằng:
Việc tranh giành diễn ra liên
tục trong vùng ở biển Đông về chủ quyền của quần đảo Trường Sa….và hồi ức
lịch sử còn đó về một “thế kỷ nhục nhã” của Trung Quốc… gây ra bởi các nước
phương Tây “đến từ biển” tất cả đã kết hợp lại thành vấn đề trọng tâm của
việc cần thiết phải có một chiến lược đối với biên giới biển đảo của Trung
Quốc. [49]
Chú thích
[1] Rafe de Crespigny, Generals of the South: The
Foundation and Early History of the Three Kingdoms State of Wu, originally published in Asian Studies Monographs, New Series No. 16
(Canberra: The Australian National University, Faculty of Asian Studies,
1990), chapter 1.
[3] Robert J.
[4] James Truslow Adams, Empire on the Seven Seas:
The
[5] Bruce Swanson, Eighth Voyage of the
Dragon: A History of
[6] He Di, "The Last Campaign to
Unify
[7] John Blodgett, "
[8] Information for the following
sections references James Bussert and Bruce Elleman, "People's
Liberation Army Navy (PLAN) Combat Systems Technology: 1949-2007"
(currently being reviewed for publication).
[9] "Anti-smuggling Drill in
Haikou," People's Daily Online, July
28, 2006;http://english.peopledaily.com.cn/200607/28/eng20060728_287664.
html.
[10] Le-wei Li, "High-frequency
Over-the-horizon Radar and Ionospheric Backscatter Studies in China," Radio Science, 33, 5 (1998), pp.
1445-1458.
[12] James Bussert, "China Expands
Influence Through Electronics," Signal (October
2003), p. 61.
[13] Bradley Hahn, "Maritime Dangers
in the South China Sea," Pacific Defence Reporter 11,11(May 1985), pp.
13-16 at p. 15.
[14] James Doman, Chinese War Machine (New York: Crescent Books,
1974), p. 158.
[15] Bill Gertz, "Woody Island
Missiles," Washington Times, June 15, 2001.
[16] Keith Jacobs, "China's Military
Modernization and the South China Sea," Jane's Intelligence Review 4, 6 (June 1992), pp.
278-281 at p. 280.
[17] “China Unlikely to Launch War in
S. China Sea," Asian Political News, September
27, 1999.
[19] Mark J. Valencia,
"Tension Increasing in South China Sea," Honolulu Advertiser, April 5, 2001.
[20] Wolfgang Schippke, DC3MF, "Itu
Aba Island," www.425dxn.org/dc3mf/ituaba.
html.
[21] Bussert, "China Expands
Influence Through Electronics," p. 62.
[22] Jacobs, "China's Military
Modernization," p. 280.
[23] Frederic Lasserre, "Once
Forgotten Reefs . . . Historical Images in the Scramble for the South
China Sea," www.cybergeo.presse.fr/ehgo/lasserre.
htm.
[24] Bussert, "China Expands
Influence Through Electronics," p. 62.
[25] Ian Storey, "Manila Looks to
USA for Help over Spratlys," Jane's Intelligence Review 11, 8 (August 1999), pp. 46-50
at pp. 46-47.
[26] Sujit Dutta, "Securing the Sea
Frontier: China's Pursuit of Sovereignty Claims in the South China Sea," Strategic Analysis 29, 2 (April—June 2005),
p. 288.
[27] A. B. Mahapatra,
"Commanding the Ocean," Newslnsight, May
16, 2001.
[28] This term is not Chinese, but was
coined in a study entitled "Energy Futures in Asia," commissioned
from consulting firm Booz Allen Hamilton in 2005 by the US Department of
Defense's Office of Net Assessment.
[29] Bill Gertz, "Beijing Readies
China Sea Exercises," Washington Times, May 17, 2001.
[32] "Underground Facilities of
Chinese Nuclear Submarine," Kanwa Intelligence Review (Internet), March 30, 2006 at www. kanwa. com.
[34] David Lague, "US Military
Officials Wary of China's Expanding Fleet of Submarines,"International Herald Tribune, February 7, 2008.
[36] Lieutenant Michael Studeman, US
Navy, "Calculating China's Advances in the South China Sea: Identifying
the Triggers of 'Expansionism,'" Naval War College Review (Spring
1998), pp. 68-90.
[38] Yuan Jing-dong, Asia-Pacific Security:
China's Conditional Multilateralism and Great Power Entente (Carlisle, PA: Strategic Studies
Institute, US Army War College, 2000), pp. 18-19.
[39] Zalmay M. Khalilzad, Abram
N. Shulsky, Daniel L. Byman, Roger Cliff, David T.
Orletsky, David Shlapak, and Ashley J. Tellis, The United States and a
Rising China: Strategic and Military Implications (Santa Monica, CA: Rand, 1999),
p. 30.
[41] Bruce Elleman and S. C. M.
Paine, "A Spy Plane Caught in a Chinese Web of Reviving Grandeur," International Herald
Tribune, April 9, 2001.
[42] John Pomfret, "Chinese Driven
by Anger, Pride,"
[43] Calum MacLeod, "
[44] Christopher Drew, "Old Hijinks
May Pull the Rug from the
[45] Jim Mann, "Crisis Forces Bush
Team to Speed up Decisions on China Policy," Los Angeles Times, April 3, 2001
[46] Vu Duc Vuong, "Between a Sea
and a Hard Rock," Asian Week, January
8, 2008.
[47] Brian McCartan, "Roiling the
Waters in the Spratlys,"
[48] Yuan Jing-dong, Asia-Pacific Security:
China's Conditional Multilateralisni and Great Power Entente (
[49] Michael McDevitt, The PLA Navy: Past,
Present and Future Prospects (
|
[19] Mark J. Valencia, "Tension Increasing in South China Sea," Honolulu Advertiser, April 5, 2001.
[20] Wolfgang Schippke, DC3MF, "Itu Aba Island," www.425dxn.org/dc3mf/ituaba. html.
[21] Bussert, "China Expands Influence Through Electronics," p. 62.
[22] Jacobs, "China's Military Modernization," p. 280.
[23] Frederic Lasserre, "Once Forgotten Reefs . . . Historical Images in the Scramble for the South China Sea," www.cybergeo.presse.fr/ehgo/lasserre. htm.
[24] Bussert, "China Expands Influence Through Electronics," p. 62.
[25] Ian Storey, "Manila Looks to USA for Help over Spratlys," Jane's Intelligence Review 11, 8 (August 1999), pp. 46-50 at pp. 46-47.
[26] Sujit Dutta, "Securing the Sea Frontier: China's Pursuit of Sovereignty Claims in the South China Sea," Strategic Analysis 29, 2 (April—June 2005), p. 288.
[27] A. B. Mahapatra, "Commanding the Ocean," Newslnsight, May 16, 2001.
[28] This term is not Chinese, but was coined in a study entitled "Energy Futures in Asia," commissioned from consulting firm Booz Allen Hamilton in 2005 by the US Department of Defense's Office of Net Assessment.
[29] Bill Gertz, "Beijing Readies China Sea Exercises," Washington Times, May 17, 2001.
[32] "Underground Facilities of Chinese Nuclear Submarine," Kanwa Intelligence Review (Internet), March 30, 2006 at www. kanwa. com.
[33] Kanwa Defence Review, May 2006, p. 56, at www.kanwa.com.
[34] David Lague, "US Military Officials Wary of China's Expanding Fleet of Submarines,"International Herald Tribune, February 7, 2008.
[36] Lieutenant Michael Studeman, US Navy, "Calculating China's Advances in the South China Sea: Identifying the Triggers of 'Expansionism,'" Naval War College Review (Spring 1998), pp. 68-90.
[37] "Was America Hunting for a New, Killer Submarine?" www.stratfor.com, April 4, 2001.
[38] Yuan Jing-dong, Asia-Pacific Security: China's Conditional Multilateralism and Great Power Entente (Carlisle, PA: Strategic Studies Institute, US Army War College, 2000), pp. 18-19.
[39] Zalmay M. Khalilzad, Abram N. Shulsky, Daniel L. Byman, Roger Cliff, David T. Orletsky, David Shlapak, and Ashley J. Tellis, The United States and a Rising China: Strategic and Military Implications (Santa Monica, CA: Rand, 1999), p. 30.
[41] Bruce Elleman and S. C. M. Paine, "A Spy Plane Caught in a Chinese Web of Reviving Grandeur," International Herald Tribune, April 9, 2001.
[42] John Pomfret, "Chinese Driven by Anger, Pride," Washington Post, April 4, 2001.
[43] Calum MacLeod, "Beijing Blames US for Plane Collision," Washington Times, April 3, 2001.
[44] Christopher Drew, "Old Hijinks May Pull the Rug from the US Claim to Plane," New York Times, April 4, 2001.
[45] Jim Mann, "Crisis Forces Bush Team to Speed up Decisions on China Policy," Los Angeles Times, April 3, 2001
[46] Vu Duc Vuong, "Between a Sea and a Hard Rock," Asian Week, January 8, 2008.
[47] Brian McCartan, "Roiling the Waters in the Spratlys,"Asia Sentinel, February 4, 2008.
[48] Yuan Jing-dong, Asia-Pacific Security: China's Conditional Multilateralisni and Great Power Entente (Carlisle, PA: Strategic Studies Institute, US Army War College, January 2000), pp. 18-19.
[49] Michael McDevitt, The PLA Navy: Past, Present and Future Prospects (Alexandria, VA: The CNA Corporation, May 2000), pp. 1-2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét