Theo Văn hóa Nghệ An, Chủ nhật, 22 tháng 12 2013 14:11
LA THÀNH dịch và chú thích
Thư gửi ban biên tập, “Novyĭ mir”, 1993, №2,
trang 3-9
1.
Tình hình hiện nay thôi thúc tôi gửi tới ban biên tập bức thư này,
bày tỏ ý kiến của mình (không phải lần đầu tiên) về những chủ đề liên quan tới
địa vị, vai trò và tầm quan trọng của giới trí thức trong xã hội chúng ta.
Đây không phải một bài báo, mà là một bức
thư. Thôi thì tôi cứ nói không theo một trình tự chặt chẽ, mà theo cách tôi
mường tượng hiện nay về thực tại, theo cách mà kinh nghiệm sống của bản thân
đang thúc bách tôi lên tiếng.
Vậy, thế nào là giới trí thức? Tôi nhìn
nhận và hiểu về họ như thế nào? Trong nhiều ngôn ngữ nước ngoài và trong các từ
điển, từ ‘интеллигенция’ thông thường không được dịch một mình, mà đi kèm với
một tính từ tương đương với “của Nga” / “thuộc về Nga” / “kiểu Nga”.[1] Đây là một khái niệm thuần Nga và nội
dung của nó chủ yếu khơi gợi một cảm xúc xã hội. Nói cho rõ hơn, do những đặc
điểm của quá khứ lịch sử Nga, chúng ta, những người Nga, thường ưa những ý niệm
duy cảm hơn các định nghĩa lô-gích.
Tôi đã sống qua nhiều biến cố lịch sử, đã
nhìn mãn nhãn quá nhiều điều khác thường và vì thế, tôi có thể nói về giới trí
thức Nga theo cách không đưa ra cho nó một định nghĩa chân xác, mà chỉ bằng suy
ngẫm về những đại diện xứng đáng nhất của nó - những người mà theo quan điểm
của tôi, có thể liệt vào đội ngũ các nhà trí thức.
Hiển nhiên A. I. Solzhenitsyn[2] đã có lý: người trí thức không đơn thuần
là người có học vấn, càng không phải là kiểu người mà ông kêu bằng thuật ngữ
“kỹ giả”[3] - một thứ gì đó gần giống như “kẻ mạo
xưng” hoặc “ma cà bông”. Có thể hơi cay nghiệt một chút, nhưng Aleksandr
Isaevich (tức A. I. Solzhenitsyn - ND) muốn bao hàm trong thuật ngữ này lớp
người có giáo dục nhưng vụ lợi, dễ bị mua chuộc, tóm lại là xoàng xĩnh về tinh
thần.
Người trí thức: đó là đại diện của một
nghề nghiệp gắn với lao động trí óc - kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, họa sĩ, nhà
văn -, và phải là con người có sự đoan chính về nhận thức. Cá nhân tôi rất bối
rối bởi cụm từ được dùng phổ biến (để phiếm chỉ giới trí thức - người dịch) là
“giới sáng tạo”: nói cho đúng thì một bộ phận nào đó của giới này có thể hoàn
toàn không sáng tạo. Mọi trí thức ít nhiều đều làm công việc sáng tạo; nhưng
mặt khác, khi một con người viết, giảng dạy, tạo ra tác phẩm nghệ thuật theo
đơn đặt hàng, theo nhiệm vụ được giao trên tinh thần các yêu cầu của đảng, của
nhà nước hay của bất cứ “người đặt hàng có khuynh hướng tư tưởng” nào, thì theo
tôi, anh ta chẳng có gì là trí thức cả, mà là kẻ làm thuê.
Theo kinh nghiệm sống của tôi, chỉ những
con người tự do trong đức tin của mình, những con người không bị lệ thuộc bởi
các ràng buộc kinh tế, đảng phái, quyền chính, không phải tuân phục các khế ước
tư tưởng, mới thuộc về giới trí thức.
Nguyên tắc cơ bản của phẩm tính trí thức
là tự do trí tuệ - tự do trong tư cách một phạm trù đạo đức. Con người trí thức
chỉ không tự do với lương tâm và với tư duy của mình. Tuy nhiên, tôi cho rằng
người ta cũng có thể mất tự do bởi những nguyên tắc được tin là bất di bất
dịch. Điều này liên quan đến những người mắc phải hội chứng tiền thùy[4], luôn luôn
bênh vực những tư duy cũ của mình, những tư duy mà họ đã từng phát biểu hoặc
thậm chí đã thực hành theo trong cuộc sống, song bản thân chúng lại làm tê liệt
tự do của chính họ. Dostoievski đã gọi những niềm tin như vậy là những bộ “đồng
phục”, còn những con người có “niềm tin theo chức trách” là những người mặc
đồng phục.
Con người phải có quyền thay đổi đức tin
của mình vì những lý do nghiêm cẩn. Nếu như anh ta thay đổi đức tin do những
suy tính lợi ích, đó sẽ là một khiếm khuyết đạo đức trầm trọng. Nếu một người
trí thức, khi cảm thấy mình sai trái - nhất là trong những vấn đề can hệ đến
đạo đức - suy xét đi đến những quan niệm khác, anh ta không thể bị đánh giá
thấp.
Lương tri không chỉ là vị thần hộ mệnh của
nhân phẩm, nó còn là người cầm lái của tự do. Lương tri sẽ trông coi để tự do
không bị biến thành sự tuỳ tiện, mà trỏ cho con người đường đi nước bước đích
xác của anh ta trong những tình thế hỗn tạp của cuộc sống, nhất là cuộc sống
hiện đại.
Vấn đề nền tảng đạo đức của phẩm tính trí
thức quan trọng đến đỗi tôi muốn dừng lại đây thêm chút nữa. Trước hết, tôi
muốn nói rằng bác học không phải lúc nào cũng là trí thức (trong ý nghĩa cao quý
nhất, dĩ nhiên). Nhà học thuật sẽ không là trí thức khi anh ta quá khép kín
trong chuyên môn của mình mà quên đi câu hỏi: những thành quả công việc của anh
ta sẽ được ai sử dụng và sử dụng như thế nào? Khi đó, bằng cách đặt mọi thứ
xuống dưới các lợi ích chuyên môn của mình, anh ta đang hy sinh những lợi ích
của nhân quần hoặc của các giá trị văn hóa. Trường hợp ít phức tạp nhất là khi
người ta (tức các nhà chuyên môn - người dịch) làm việc phục vụ chiến tranh hoặc tiến
hành những thực nghiệm gây nguy hại cho con người hoặc gây đau đớn cho các động
vật.
Nói chung, sự chăm lo và đào sâu chuyên
môn là một nguyên tắc sống hoàn toàn không tồi. Hơn nữa, nước Nga đang có quá
nhiều nhà nghiệp dư đảm trách những việc không thuộc chuyên môn của mình. Điều
này không chỉ dính dáng đến khoa học, mà còn đến cả nghệ thuật và chính trị, là
những lĩnh vực cũng rất cần đến tính chuyên nghiệp. Tôi đánh giá rất cao các
nhà chuyên nghiệp và tính chuyên nghiệp, nhưng điều này không luôn luôn đồng
nghĩa với việc tôi gọi các chuyên viên là những trí thức và coi tinh thần
chuyên nghiệp của họ là phẩm tính trí thức.
Tôi xin nói thêm thế này: ở Nga, phẩm tính
trí thức trước hết là tính độc lập của tư duy trên nền học vấn Âu châu. (Vì sao
lại “Âu châu”, tôi sẽ giải thích ở dưới.) Sự độc lập này là nhất thiết đối với
tất thảy những gì đang hạn chế nó, tỷ như (tôi nhắc lại) tính đảng - thứ đang
ngự trị một cách chuyên quyền bên trên hành trạng và lương tri của con người -
những lo toan mưu sinh và sự nghiệp, và ngay cả những lợi ích chuyên môn - nếu
chúng vượt ra ngoài giới hạn cho phép của lương tri.
2.
Tôi nhớ lại nhóm trí thức Nga quy tụ ở
Petrograd vào những năm 1920 xung quanh nhà triết học Nga xuất chúng Aleksandr
Aleksandrovich Meĭer - nhóm “Thứ Hai”, sau đổi tên thành nhóm “Chủ Nhật” do các
thành viên của nhóm chuyển ngày nhóm họp từ Thứ Hai sang Chủ Nhật. Điều quan
yếu đối với các meĭerovets[5]là sự tự do
trí thức - tự do trước những đòi hỏi của giới cầm quyền, của thời cuộc, của
những mối lợi vật chất, tự do trước những ý kiến của người khác. Tinh thần tự
do trí thức đã xác lập hành vi thế giới quan của bản thân A. A. Meĭer, của
những người xung quanh ông như K. A. Polovtsev, S. A. Askolvdov-Alekseev, G. P.
Fedotov, N. P. Antsiferov, M. B. Ĭudina, N. I. Konrad, K. S. Petrov-Vodkin, L.
A. Orbeli, N. V. Pigulevskaĭa và của nhiều người như họ.
Trí thức Nga nhìn chung đã đứng vững qua
những thử thách của thời ly loạn, và bổn phận của tôi - một chứng nhân của thế
kỷ - là tái lập một thái độ công bằng đối với họ. Chúng ta đã sử dụng quá
thường xuyên cụm từ “đám thức giả thối nát”, hình dung rằng trí thức là những
kẻ yếu đuối và thiếu kiên định, bởi vì chúng ta đã quen tin vào những lý giải
trong các hồ sơ dự thẩm (của các vụ án truy bức trí thức thời Xô-viết - người dịch), tin
vào những xuất bản phẩm theo ý thức hệ mác-xít vốn chỉ coi công nhân là “giai
cấp bá quyền”. Thế nhưng, trong các vụ án đã điều tra chỉ còn lưu lại những tài
liệu phù hợp với các giả thiết dự thẩm - những giả thiết được xây dựng nhờ khai
thác các nghi can không hiếm khi bằng nhục hình mà không chỉ bằng vào vật
chứng. Tệ hại nhất là tình cảnh của những người đã có gia đình. Sự tuỳ tiện vô
giới hạn của các điều tra viên đã thường xuyên đe dọa những thành viên gia đình
(của các nghi can - người dịch) bằng nhục hình, và chúng ta thì không đủ
thẩm quyền lên án những người đã ký xác nhận các hồ sơ thẩm vấn mà không đi sâu
cứu xét bản chất của sự việc. (Để thí dụ, điều tương tự đã từng xảy ra trong
“vụ Hàn lâm viện” nổi tiếng thời những năm 1929-1930.[6] )
Những trí thức xuất thân là quý tộc thế
truyền đã tỏ ra anh dũng siêu quần biết nhường nào! Tôi thường xuyên hồi tưởng
đến Georgiĭ Mikhaĭlovich Osorgin, bị bắn ngày 28 tháng Mười năm 1929 trên đảo
Solovki[7]. Ngày vợ ông
(nhũ tính Golitsyna) đến thăm - điều mà đám chúa ngục ở Solovki không mong đợi
-, Osorgin đã nằm buồng tử tội. Điều không mong đợi đã xảy ra do sự lạm quyền
hoàn toàn phi pháp trong các trại giam ngày ấy: nhà đương cục trong đất liền
không hề hay biết về quyết định tự tiện (tử hình Osorgin - người dịch) của các
cai tù trên đảo. Xoay xở mọi cách, các chúa đảo đã thả Georgiĭ Mikhaĭlovich
khỏi xà lim biệt giam để ông được gặp vợ với điều kiện nhà quý tộc phải hứa
không nói gì với phu nhân về cuộc hành hình đang chờ đợi ông. Osorgin đã giữ
lời với bầy đao phủ. Một năm sau cuộc gặp ngắn ngủi ấy, Golitsyna khởi hành đi Paris mà không ngờ rằng
ngay ngày hôm sau, Georgiĭ Mikhaĭlovich sẽ bị giết một cách man rợ.
Hay như Pokrovskiĭ, vị giáo sư xạ kích học
bị cụt chân, người đã kháng cự lại toán lính áp giải ông ở Thần Môn (di tích
này giờ đã bị các “nhà phục chế” dỡ bỏ), đánh chúng bằng chính cây nạng gỗ của
mình, chỉ để chứng tỏ rằng mình không phải là một con vật dễ bảo.
Hay G. G. Taĭbalin[8]: người đã
liều mạng sống khi cho ẩn náu trong phòng mạch của mình một lão tín đồ Islam -
từng là ca sĩ hay nhất của Staraĭa Bukhara[9] - hoàn toàn tứ cố vô thân, không biết
lấy một từ tiếng Nga mà chỉ riêng điều này thôi cũng đã không tránh khỏi tội
chết.
Sự phản kháng của giới trí thức càng mạnh
mẽ bao nhiêu, những hành động (của chính quyền - người dịch) chống
lại họ càng tàn khốc bấy nhiêu. Chúng ta có thể xét đoán về sự phản kháng của
giới trí thức thông qua mức độ của sự nghiệt ngã đã chống lại họ: Đại học
Petrograd bị đóng cửa, những cuộc thanh trừng bạo liệt trong giới sinh viên
được tiến hành, biết bao học giả đã bị phế truất khỏi bục giảng, chương trình
đào tạo ở các trường phổ thông và trường cao đẳng bị cải cách với sự nhồi nhét
của những giáo trình chính trị nhập môn, các khó khăn mà những ứng sinh muốn
học lên cao phải chịu đựng. Con cái của trí thức tuyệt nhiên không được nhận
vào đại học, trong khi các “lao hiệu”[10] dành cho công nhân được thiết lập. Mặc
dầu vậy, trong các khu ký túc đã xuất hiện những nhóm tự đào tạo dành cho những
ai đang học dở dang đại học; các giáo sư Đại học Peterburg A. I. Vvedenskiĭ và
S. I. Povarnin đọc giáo án tại nhà riêng, lên lớp những bài giảng về lô-gích
học, còn A. F. Losev thì bỏ tiền túi ra để xuất bản các công trình triết học
của mình.
Trí thức Nga bước vào thời đại Tháng Mười
Đỏ sau khi đã được tôi luyện trong những phản kháng trước đây đối với chính phủ
sa hoàng. Đã không chỉ có một A. A. Meĭer quy tụ được quanh mình nhiều nhà trí
thức bằng những kinh nghiệm liên kết tích luỹ được ngay từ chốn lưu đày lao lý
dưới chế độ tsarist.
Mùa thu năm 1922, người ta đã phải cần đến
hai chiếc tàu thủy Preußen và Oberbürgermeister Hagen[11]để chở khỏi
nước Nga một bộ phận của giới trí thức mà việc áp dụng những biện pháp quen
thuộc để chống lại những người này là bất khả do tiếng tăm đã cồn khắp châu Âu
của họ.
Tôi có thể nêu thí dụ về hàng trăm, hàng
nghìn nhà khoa học, họa sĩ, nhạc công, những người đã luôn luôn gìn giữ sự độc
lập tinh thần của mình, thậm chí còn hăng hái chống cự lại sự khủng bố ý thức
hệ trong khoa học lịch sử, nghiên cứu - phê bình văn học, sinh học, triết học,
ngôn ngữ học, v.v... Đứng sau lưng những kẻ chủ mưu đủ loại của các chiến dịch
đấu tố là hàng đám các nửa-chuyên-gia, nửa-trí-thức - những kẻ thực hiện sự
khủng bố và giành giật lấy cho mình các học vị, các hàm cấp học thuật trong
những công việc béo bở. Tôi dám khẳng định rằng họ không phải là trí thức trong
ý nghĩa lâu nay của từ này. Không có gì nguy hiểm hơn giới nửa-chuyên-gia. Các
chuyên gia nửa mùa này vững tin rằng họ biết tất cả, hay chí ít cũng biết cái
tối trọng yếu, còn hành động của họ thì vừa đểu cáng vừa không khoan nhượng.
Biết bao số phận đã bị ném ra đường vì những nửa-chuyên-gia như vậy! Những
người còn lại từng được (chẳng đặng đừng) nuôi vỗ, ngoài A. A. Akhmatova, có B.
M. Ėĭkhenbaum, D. E. Maksimov, V. L. Komarovich và cả viện sĩ L. A. Orbeli
(trong khi ông không được cấp lấy một phòng thí nghiệm riêng). Viện sĩ
I. Ĭu. Krachkovskiĭ thì đã phải trả
lương cho các cộng sự bằng tiền riêng của mình sau khi những bài giảng về ngôn
ngữ cổ phương Đông của ông bị tuyên bố là phản động.
3.
Vậy, những trí thức Nga đầu tiên là ai?
Giá như Vladimir Monomakh[12] không
viết Huấn ca chủ
yếu dành cho các quân vương, thì sự liêm chính của ông và việc ông biết đến năm
thứ tiếng có thể đã là căn cứ để xếp ông vào hàng những trí thức đầu tiên.
Nhưng phẩm hạnh của ông đã không luôn luôn phù hợp với những quy tắc phổ quát
và vĩnh cửu của đạo đức. Lương tâm của ông chỉ giới hạn trong việc phụng sự
vương quyền.
Nói cho xác đáng thì nhà trí thức đầu tiên
ở Nga La Tư[13] -
vào cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI - là Maksim Grek[14], tục xưng trước khi xuất gia là Mikhail
Trivolis, người được thụ giáo hai nền học vấn Ý, Hy Lạp và ở trong nhóm học giả
của Aldo Manuzio[15]. Ở Nga ông từng bị truy nã, bị giam cầm và rồi
chỉ được phong thánh chí tôn sau khi chết. Bằng cuộc đời mình, ông có lẽ đã
vạch đường cho nhiều, rất nhều trí thức của nước Nga.
Hoàng thân Andreĭ Kurbskiĭ[16] cũng
có thể đã là một trí thức nếu như ông - nguyên là một vị tướng - không trốn
chạy khỏi Ivan Groznyĭ[17]. Là một vương công ông có quyền lựa chọn tôn
chủ của mình, nhưng là một chiến binh chỉ huy quân đội, ông đã đào tẩu như một
kẻ bất lương.
Cho đến cuối thế kỷ XV, trên đất Nga La Tư
chưa có trí thức thực thụ. Những người được đào tạo theo khuôn thước Âu châu
thì có, nhưng những nhà trí thức khả kính của một thời đại mới trong khung cảnh
một nước Nga trung cổ thì chưa.
Sẽ vô nghĩa nếu đặt ra câu hỏi: nền văn
hóa của Nga La Tư trước Pëtr[18]là lạc hậu hay không lạc hậu, cao hay chưa cao?
Việc so sánh các nền văn hóa theo “độ cao” là điều lố bịch. Nga La Tư - với tư
cách là xứ sở đã sản sinh ra một nghệ thuật kiến trúc tuyệt diệu, cực kỳ phong
phú về những đặc trưng phong cách, đã tạo lập nên một nền âm nhạc hợp xướng
đáng nể, những nghi lễ thờ cúng tráng lệ, những bức bích họa và i-côn (icône) trứ danh nhưng lại chưa biết đến khoa học hàn
lâm - thực ra đã thể hiện mình như một kiểu hình văn hóa đặc biệt với một thực
tiễn nghệ thuật và tôn giáo thịnh đạt.
Cũng không đúng nếu cho rằng tầng lớp trí
thức đã xuất hiện ngay sau khi nước Nga chuyển trí sang địa vị một nền văn hóa
Tây Âu. (Nó vốn dĩ luôn luôn là một nền văn hóa Âu châu rồi).
Thời Pëtr chưa có giới trí thức. Để tạo ra
nó, cần có sự liên kết giữa các tri thức hàn lâm với nếp tư duy tự do và một
phẩm chất thế giới quan tự do. Pëtr e ngại sự xuất hiện của những con người tự
do. Ông dường như tiên liệu được sự nguy hiểm của họ đối với nhà nước. Trong
thời gian những cuộc lữ hành và lưu trú tại Tây Âu[19], Pëtr luôn tránh những cuộc gặp gỡ với các nhà
tư tưởng Tây Âu mà chỉ quan tâm trước hết tới giới chức nghiệp: những nhà hoạt
động nhà nước, các quân nhân, những nhà thầu khoán, các thợ mộc lành nghề, dân
đi biển - bao gồm giới chủ tàu buôn, các thủy thủ và thợ đóng tàu -, nghĩa là
tất cả những ai có thể giúp thực hiện các ý tưởng của ông mà không làm ra ý
tưởng! Vì vậy, có lẽ đối với Pëtr, việc kết tình thâm giao với các kiến trúc sư
có năng lực tầm tầm thì hay hơn nhiều so với làm bạn cùng J.-B. A. Le Blond[20], người đã đệ trình đồ án xây dựng Peterburg.
Có thể Pëtr đã có lý. Nghiên cứu lại những sắc chỉ của ông, đôi khi kèm theo
những phác thảo vặt vãnh, người ta không khỏi sửng sốt vì tính độc lập của ông
trong quan niệm về kiến thiết đô thị: ở giữa những chuyên gia thực hành năng
nổ, Pëtr cảm thấy mình thoải mái hơn là ở giữa các nhà lý luận và nhà tư tưởng.
Châu Âu hoan hỷ thời Pëtr trị vì nước Nga
bởi lẽ, ở một mức độ nhất định, Pëtr đã thành công trong việc khôi phục tuyến
đường “từ xứ Varangia[21] tới
Hy Lạp”[22] và
xây Peterburg ở đầu tuyến đường này, tuyến thông thương mậu dịch vốn bị đình
đoạn bởi ách đô hộ Mông-Thát[23]. Chính ách đô hộ này đã dựng nên một bức tường
không thể vượt qua, ngăn cách Nga La Tư với Phương Tây, nhưng lại chưa thiết
đặt được những gắn kết văn hóa chắc chắn với Phương Đông - mặc dù quốc vương
Nga đã thâu nạp vào quyền cai trị của mình hai hãn quốc Kazan và Astrakhan[24] sau
khi thừa nhận các tiểu vương và quý tộc cận thần của họ.[25]
Pëtr đã phục hồi các liên hệ với châu Âu,
nhưng cũng đồng thời bãi bỏ luôn các nghị hội toàn vương quốc[26], thủ tiêu tước hiệu đại giáo chủ[27] và
tăng cường nô dịch nông dân.
Không phải Đông hay Tây, mà Bắc hay Nam mới luôn luôn là vấn đề cốt yếu đối với nước
Nga, ngay cả trong các cuộc chiến tranh Balkan, Caucasian và Turkestan [28] mà
Nga can dự hoặc tiến hành. Việc bảo vệ Ki-tô giáo đối với nước Nga cũng tức là
bảo vệ những nguyên tắc Âu châu của văn hóa: cá nhân, nhân tính và tự do trí
thức. Chính vì vậy mà giới trí thức Nga đã lãnh nhận việc giải phóng các dân
tộc Ki-tô giáo ở Balkan với một niềm hân hoan vô bờ bến, còn bản thân họ lại
hứng chịu sự tầm nã bởi ngay những nguyên tắc Âu châu ấy.
Những trí thức thực thụ đầu tiên, mang
chất Nga điển hình, đã xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX:
Sumarokov, Novikov, Radishchev, Karamzin. Không nên xếp Derzhavin vào với họ -
ông quá lệ thuộc vào chính quyền. Pushkin thì hiển nhiên là trí thức. Ông không
nhận các hộp thuốc lá vàng[29], và mặc dù sống chủ yếu bằng những khoản
tiền thù lao, trong các sáng tác của mình ông không tỏ ra bị hệ luỵ bởi chúng.
Ông đi một con đường tự do và sống bằng bản thân mình.
Giới trí thức đã tuyên cáo về mình như một
cộng đồng tinh thần vào ngày 14 tháng Mười Hai năm 1825, trên quảng trường
Petrova. Cuộc nổi dậy này của những-người-tháng-Mười-Hai[30] đã
minh chứng sự xuất hiện của một số lượng lớn những con người tự do về tinh
thần. Các dekabrist đã
ra quân chống lại chính những quyền lợi đẳng cấp và quyền lợi nghề nghiệp của
bản thân mình (trong số họ có các quân nhân). Họ đã hành động chỉ theo mệnh
lệnh của lương tri, còn những liên minh bí mật của họ thì không hề ép buộc họ
phải đi theo một “đường lối đảng tính” nào.
Trong cùng thời gian đó, chủ nghĩa khủng
bố cũng đã làm nảy sinh ở nước Nga những “nhà cách mạng chuyên nghiệp”; tất cả
những Tkachëv[31] và
Nechaev[32] này
(và, có lẽ, cả những Chernyshevskiĭ[33] nữa
chăng?) đều đã là những nhân cách phản trí thức một cách thậm tệ. Không phải là
trí thức cả những người đã uốn gối trước “nhân dân” và “giai cấp công nhân”,
trong khi họ chẳng hề thuộc về bên nào trong đó cả. Ngược lại, chính người lao
động, một khi có tầm nhìn nghiệp vụ và phi nghiệp vụ đủ xa rộng cùng với sự
liêm chính thiên bẩm đã có thể rất gần gũi với cái mà chúng ta gọi là phẩm tính
chung của trí thức.
4.
Song le, hãy quay trở lại với thời đại
chúng ta.
Hoạt tính ngoan cường của giới trí thức đã
được phát huy vào ngay thập niên đầu tiên của nền cai trị Xô-viết, và sự trấn
áp cũng đã được nhằm trước tiên vào trí thức trong thập niên này. Sang đến
những năm 1930 thì sự đàn áp không chỉ còn chống lại riêng trí thức (nó vẫn
luôn luôn chống lại trí thức), mà đã nhắm tới nông dân, bởi chưng nông dân -
những người lúc này bị coi là “mù chữ” - đã có một nền văn hóa cả ngàn năm của
mình. Giới tu hành ở cả thành thị và nông thôn, mà những đại diện cá biệt của
nó ngay từ trước cách mạng đã tỏ rõ mình như những trí thức (để thí dụ, cha
Pavel Florenskiĭ), đã một lần nữa sản sinh ra một loạt trí thức kiệt xuất
(Sergiĭ Bulgakov, Viktorin Dobronravov, Aleksandr El’chaninov và nhiều người
khác).
Như vậy, đa số trí thức Nga đã không để sự
bội tín làm hoen ố mình. Tôi có thể nêu ra hàng chục cái tên của những con
người đã sống trọn đời mình một cách trung chính mà không cần phải tự biện hộ
bằng những lý lẽ kiểu như “chúng ta đã từng tin như thế”, “thời thế lúc đó phải
như vậy”, “mọi người chúng ta ai cũng đã làm thế cả”, “hồi đó chúng ta còn chưa
hiểu biết”, “chúng ta đã từng bị mê hoặc” và tương tự. Những lập ngôn này đã tự
động loại những ai viện đến chúng ra khỏi giới trí thức - bổn phận các thành
viên của giới này đã và luôn luôn vẫn là: biết, hiểu, phản kháng, giữ gìn sự
độc lập tinh thần của mình và không can dự vào những điều dối trá. Tôi sẽ không
dẫn ra tính danh của tất cả các trí thức mạo xưng, mà sự tham gia của những kẻ
này vào các chiến dịch “chấn chỉnh” đủ kiểu ngay từ đầu đã không hề là ngẫu
hứng. Bọn họ đã từng rất đông đảo, song nếu chỉ vì bọn người này mà buộc tội
toàn bộ giới trí thức Nga - một giới xã hội đã bị trấn áp suốt bảy mươi năm -
là điều hoàn toàn không nên. Đấy là chưa kể nếu không có thế hệ trí thức già
kia thì có lẽ đã không có những nhà bất đồng chính kiến trẻ hơn sau này. Sự bất
phục tùng của giới trí thức đã khiến nó trở thành kẻ thù chính thường xuyên của
chính quyền Xô-viết.
Những năm tháng đối đầu giữa chế độ và
giới trí thức cũng đồng thời là khoảng thời gian mà trong ngôn ngữ chính thức
đã biến mất những khái niệm danh dự, lương tâm, nhân phẩm, trung thành với
nguyên tắc, chính trực, vô tư, lương thiện, nghĩa hiệp. Giá trị chân chính của con người đã bị
đánh tráo bằng những ý niệm hoàn toàn trống rỗng, còn phẩm tính trí thức thì bị tụt cấp thành khái niệm về một
nghề nghiệp lao động bằng trí óc.
Sự coi thường trí thức hiện nay cũng là sự
bất kính đối với ký ức về hàng nghìn con người đã hành xử một cách dũng cảm
trong các cuộc thẩm vấn và dưới các đòn tra tấn, đã giữ trọn đức chính trực
trong cảnh tù đày, trong thời gian bị truy bức trên những nẻo đường khoa học.
Trong tương lai, khi mà từng vụ án riêng
biệt của Che-Ka, OGPU hay KGB[34] đã
được công khai hóa, một lần nữa cần phải lưu ý rằng trong các biên bản điều tra
chỉ ghi chép những dữ kiện tương thích với hồ sơ đã được điều tra viên soạn
sẵn. Những người “trợ giúp điều tra” hoặc cung cấp dữ liệu mật thám cho việc
bắt giữ thì đã biến mất khỏi các vụ án, không mảy may dấu vết. Mọi bằng chứng
về sự can trường của các nghi can khi thẩm vấn cũng đã bị xóa sạch. Người ta
không bao giờ thả những người đã bắt: “Nhà đương cục không bắt người vô cớ!” Tư
tưởng mạnh mẽ này ngày càng được củng cố cùng năm tháng.
Vì vậy mà ngay cả ngày nay, việc đưa các
vụ án ra công khai phải được kèm theo những diễn giải có căn cứ khoa học.
Thú vị nhất là khi các tù nhân trí thức
được nghe người ta tuyên những bản án của mình. Tôi xin được kể thêm một mẩu
hồi ức. Đó là vào năm 1928, khoảng đầu tháng Mười. Tất cả chúng tôi - can án vụ
nhóm sinh viên “Học viện Hoàn vũ” và “Nghĩa hội Serafim Sarovskiĭ” - bị giải
đến gặp cai trại DPZ (dom predvaritel’nogo
zaklĭucheniĭa = “nhà tạm giam”, nằm trên phố Shpalernaĭa
ở Leningrad). Viên cai ngồi với một vẻ mặt nghiêm trọng và cực kỳ ảm đạm, còn
tất cả chúng tôi đều đứng. Đứng trên cùng là Igor’ Evgen’evich Anichkov, một
trí thức cũ điển hình, thụ giáo ở nước ngoài. Bằng một giọng rùng rợn chết
chóc, viên cai thông báo: “Các anh hãy nghe bản án!” Tôi nhớ rất rõ, từ “bản
án” (prigovór) được y phát âm với trọng âm được nhấn chuẩn
xác ở âm tiết cuối cùng. Rồi y bắt đầu đọc một cách chậm rãi và trịnh trọng
chính cái “bản án” đó, không rõ do ai quyết định, bởi làm gì có tòa án. Trong
suốt thời gian đó Igor’ Evgen’evich đứng với một vẻ mặt chán nản. Ngay khi viên
cai kết thúc xướng ngôn, Anichkov hỏi một cách ngạo mạn: “Xong rồi hả? Chúng
tôi đi được chưa?” Và không đợi trả lời, ông bước luôn ra cửa. Chúng tôi nhấc
gót theo Anichkov, ngang qua mặt toán lính áp giải đang cuống lên vì bất ngờ.
Thật là hùng tráng!
Tư chất xác định phẩm tính trí thức là
thái độ ghê tởm chủ nghĩa chuyên chế. Ý chí bất khuất và lòng tự tôn sẽ được
nuôi dưỡng cùng với nó.
5.
Thế còn điều này thì sao: trí thức là hiện
tượng thuộc về phương Tây hay phương Đông? Đáp án của câu hỏi này nằm ở chỗ
chúng ta nhìn nhận nước Nga là một quốc gia phương Đông hay phương Tây. Một
trong những rường cột chính yếu của phẩm tính trí thức là tính chất của học
vấn. Đối với trí thức Nga, học vấn đã và bao giờ cũng là thuần túy phương Tây.
Nếu như Nga là một quốc gia phương Đông,
hay cứ cho là Á-Âu (Eurasian) đi nữa,
thì tính chất Tây Âu của nền học vấn của nó cho phép dễ dàng tách giới trí thức
khỏi dân chúng; điều này sẽ biện hộ một cách xác đáng cho thái độ tiêu cực đối
với giới trí thức của tầng lớp nửa-trí-thức, nửa-học-giả và “kỹ giả” đã thắng
thế lâu nay ở nước Nga. Còn nếu không vì thế, hoặc giả nếu không xuất phát từ
mong muốn ly gián cái này khỏi cái kia, thì phải chăng chủ nghĩa Á-Âu[35] ở
chúng ta trong những năm qua đã thủ đắc tính chất đầy dã tâm của một chính sách
ngu dân?
Thực ra thì nước Nga chẳng có gì là Á-Âu
cả. Nếu nhìn nước Nga từ phía Tây thì dĩ nhiên nó nằm ở giữa Tây và Đông. Nhưng
đấy là quan điểm thuần túy địa lý, thậm chí tôi còn muốn nói: quan điểm thuần
túy địa đồ. Bởi chưng việc phân chia Đông, Tây là do sự khác biệt của các nền
văn hóa, chứ không do những đường biên giới quy ước được vạch trên bản đồ. Nga
hiển nhiên là Âu châu về tôn giáo và văn hóa. Đồng thời, trong văn hóa Nga
người ta không thấy có sự khác nhau rõ nét nào giữa Peterburg ở phía Tây và Vladivostok ở phía Đông.
Về văn hóa, Nga khác với các nước phương
Tây không nhiều hơn sự khác biệt giữa các nước này với nhau: Anh khác Pháp hay
Hà Lan khác Thụy Sĩ. Ở châu Âu có nhiều nền văn hóa. Đương nhiên, trung gian
liên kết nước Nga với phương Tây chủ yếu là giới trí thức, mặc dù nó không giữ
vai trò đó một mình.
Đối với nước Nga, vấn đề “Đông-Tây” đóng
vai trò nhỏ hơn so với mối liên hệ “Bắc-Nam”. Có vẻ như không mấy ai đặc biệt
chú ý đến điều này, nhưng sự tình đúng là như vậy. Hãy nhìn vào một tấm bản đồ
châu Âu, cụ thể hơn - vào bản đồ Đông Âu. Hãy nhận ra: trong một thời gian dài,
những tuyến đường giao thông cơ bản từng là các dòng sông, chủ yếu chảy theo
hướng kinh tuyến - từ Bắc xuống Nam hoặc từ Nam lên Bắc. Chúng nối liền các bồn
nước của biển Baltic và biển Đen (mà chung quy là Địa Trung hải) với nhau. Con
đường “từ Varangia tới Hy Lạp” đã từng là một tuyến giao thương mậu dịch chính
yếu, đồng thời là con đường của chiến tranh và của sự khuếch tán văn hóa. Tác
giả của Chuyện kể thời quá vãng (Povest’ vremennykh let,
thế kỷ XI)[36] đã
miêu tả bờ cõi địa lý của Nga La Tư đúng theo cách ấy, bắt đầu từ một đường
phân thủy - “rừng Okovskiĭ” - rồi theo hướng các dòng sông mà xác lập chủ
quyền: những con sông nào chảy vào biển nào. Các đường biên giới chưa có, chỉ
có lưu vực của các dòng sông.
Trên những ngả đường ấy, Nga La Tư đã từng
có hai trung tâm đẳng quyền - Novgorod và Kiev . Từ phương Bắc,
những người Varangia đã đi đến Nga La Tư theo lộ trình này do được mời hoặc
được thuê mướn. Triều đình Rĭurikovich[37] định
đô ở phía Bắc, sau khi đã bành trướng xuống phương Nam
nhằm hướng Kiev
và sinh cơ lập nghiệp như một sức mạnh nhà nước trên toàn bộ tuyến đường từ
Ladoga tới Khersones. Xuất phát từ Byzantium ở phương Nam, thông qua trung gian
người Bulgaria, một nền văn hóa tâm linh - Ki-tô giáo Âu châu - đã đến với Nga
La Tư, thắt những nút chặt chẽ giằng kết nước Nga trung cổ với Tây Âu. Nếu xác
định rằng văn hóa Nga La Tư tương đồng với những nền văn hóa chính hợp nhất của
châu Âu trong các thế kỷ X-XII, thì cần phải định danh nó như là Scandinavian-Byzantine,
chứ không phải Eurasian (“Á-Âu”).
Những sắc dân du mục phương Đông và các thảo nguyên phương Nam chỉ dự phần
rất nhỏ bé trong việc tạo thành Nga La Tư, ngay cả khi các bộ tộc Á Đông này đã
định cư bên trong cương giới của các công quốc[38] Nga
với tư cách là những lực lượng đánh thuê.
Người Nga La Tư đã pha trộn trước tiên với
các sắc dân Finno-Ugric[39], và theo truyền thuyết, đã cùng với các
bộ tộc ấy mời gọi anh em Rĭurik, Sineus và Truvor[40]. Hãy xem trong Chuyện kể thời quá vãng,
vào năm 862:
Người Rusi (tức người Nga La Tư - người dịch), người
Chiud’ (tổ tiên của người Estonia
sau này - D. Likhachëv), người Sloveni và người Krivichi và
người Ves’ (tức Vepsy, một bộ lạc Finno-Ugric - D. Likhachëv) cùng
nói: “Đất đai chúng ta to rộng và hào phóng, mà trong nó narĭad (tức tổ chức nhà nước - D. Likhachëv) không
có. Vậy các người hãy làm vua và cai quản chúng ta đi.”
Rồi sau đó:
Trong thành này các lai nhân Varĭagi (tức
người Varangia đến từ Scandinavia - người dịch) thì ở, còn các cư dân đầu tiên ở Novegotod
là người Sloveni, ở Polot’ski người Koivichi (một bộ lạc Slav - D. Likhachëv), ở
Rostov người Merĭa (một bộ lạc Finno-Ugric - D. Likhachëv), ở Beloozer người Ves’, ở Murom người
Muroma (một bộ lạc Finno-Ugric - D. Likhachëv); và Rĭurik (đã) thống lĩnh tất cả.[41]
Điều đáng nói là tất cả các xuy-giê (sujet) Đông phương có trong văn học cổ Nga đều đã đến
với chúng ta từ phương Nam
(qua trung gian Hy Lạp) hoặc từ phương Tây. Những liên hệ văn hóa với phương
Đông là vô cùng hạn chế, chỉ từ thế kỷ XVI mới thấy xuất hiện những mô-típ Đông
phương trong các hoa văn trang trí của chúng ta.
Polotsk, trung tâm sau này của Belarus , cũng
đã ra đời trên những tuyến giao thương đường sông. Cả ba kinh đô - Novgorod , Kiev
và Polotsk - đều đã xây dựng cho mình những đại giáo đường Sophia, “Thánh Trí”
của Thiên Chúa[42]. Ơn trời, những kiến trúc này đã chứng
thực cho sự thống nhất về văn hóa của ba dân tộc Đông Slav. Chỉ có cuộc xâm
lăng hung bạo của Mông-Thát mới từng có khả năng phá hủy sự thống nhất ấy của
Nga La Tư, một sự thống nhất đã được cố kết bởi các giáo đường Sophia - biểu
tượng cho sự anh minh của Tạo hóa; và chính mong muốn gò bó chúng ta với phương
Đông bất chấp mọi lẽ lại có thể làm giảm đi hậu quả tàn phá của cuộc xâm lăng
đó. Toàn bộ những gì vừa nêu tuyệt nhiên không có nghĩa là dường như nước Nga
đã thường xuyên có các đồng minh ở phương Tây cũng như các địch thủ ở phương
Đông: lịch sử không có cách nào xác nhận điều này; chúng ta đang nói hoàn toàn
không phải về các đồng minh chiến tranh, mà về những cội nguồn của nền văn hóa
dân tộc Nga.
Những cội nguồn ấy ở Nga và phương Đông là
khác nhau, sự thể là như vậy. Nhưng điều này tuyệt nhiên không phủ định, mà
đúng hơn là đang ước định sự cần thiết hiện nay của việc hiểu biết và giúp đỡ
lẫn nhau. Chính trong ý nghĩa này, chứ không phải trong bất kỳ ý nghĩa nào
khác, mà ngày hôm nay những ý tưởng của chủ nghĩa Á-Âu cũng cần được thấu hiểu.
Mỗi xứ sở đều có phía Đông và phía Tây, phía Nam và phía Bắc của mình; cái đối
với đất nước này là Đông thì đối với lân bang của nó có thể lại là Tây. Một
quan hệ láng giềng hòa hiếu chính là để cho các đường biên sắc tộc không bị trở
thành những biên giới chính trị khóa kín, và để cho sự đa dạng không làm tổn
thương ai thay vì làm phong phú hơn lên.
“Khi kẻ thù không quy hàng, nó sẽ bị tiêu
diệt!” - ấy là lời Gor’kiĭ[43]. Phát biểu này đã một lần trở thành tiên
tri: đó là sự thật, nhưng có lẽ nào nó vẫn còn hiệu lực cho đến cả ngày nay?
Quả là vào thời chúng tôi, một giới trí thức nhà nước đã tiêu diệt một giới trí
thức khác, nhiều khi bằng vũ khí trong tay. Và vào thời chúng tôi, giới trí
thức đã phải hứng chịu sự nhạo báng và thủ tiêu: Từ phía ai? - Từ phía một bộ
phận khác của giới trí thức. Mà nếu vậy, điều đó có nghĩa là cái bộ phận “khác”
kia đã vơ lấy về mình một cách bất chính khái niệm “trí thức”.
Những cuộc tranh cãi, sự nhìn nhận khác
nhau về thế giới và tương lai của nó đương nhiên là bản tính cố hữu của giới
trí thức, nhưng sự thanh toán lẫn nhau cũng đã được cả Gor’kiĭ, cả các nửa-chuyên-gia
và “kỹ giả” đưa vào môi trường này, chưa nói đến Che-Ka, OGPU, NKVD[44] và
KGB. Vậy có lẽ nào cho đến tận hôm nay, giới trí thức có thể giải quyết mọi
nhiệm vụ lịch sử mà nó được giao phó chỉ bằng vào lòng thù ghét lẫn nhau và
những mối tị hiềm bất tận, trong khi mà toàn bộ lịch sử của nền văn hóa cũng
như kinh nghiệm thực tiễn chưa hề xa của chúng ta đang gợi mở cho chúng ta một
con đường hoàn toàn khác và ngược hẳn lại?
Và có lẽ nào chúng ta, giống như trước kia
- theo “phép tắc bol’shevik” -, sẽ bất công trở lại đối với giới trí thức và
đối với vai trò của nó trong đời sống các dân tộc của chúng ta?
Tôi đã viết những ý kiến nhận xét thuận
lợi trong bản thảo của nhà sử học tài giỏi và giàu óc tưởng tượng L. N. Gumilëv[45], một người theo chủ nghĩa Á-Âu, đã viết
các lời nói đầu cho những cuốn sách của ông ấy, đã giúp đỡ ông ấy trong việc
bảo vệ luận án. Nhưng tất cả những điều đó không phải bởi vì tôi đã tán thành
Gumilëv, mà là để ông ấy được xuất bản. Gumilëv - và cả tôi nữa - đã chẳng vì
danh vọng, nhưng với tôi, ít nhất, coi như tôi đã giúp để ông ấy có cơ hội phát
biểu lên quan điểm của mình, một quan điểm đang cố kết các dân tộc khác nhau về
văn hóa trên đất nước chúng ta.
PHẨM TÍNH TRÍ THỨC
(Phụ lục)
Aleksandr Solzhenitsyn - nhà văn GULAGer thành
danh
Aleksandr Isaevich Solzhenitsyn(1918-2008) là nhà văn Nga - đoạt giải
Nobel văn chương năm 1970 -, nhà bình luận chính trị và hoạt động xã hội, nhà
bất đồng chính kiến đối với chế độ Xô-viết.
A. I. Solzhenitsyn sinh trưởng trong một
gia đình nông dân tại thành phố Kislovodsk, thuộc địa hạt hành chính Stavropol ’skiĭ Kraĭ ở khu
vực Bắc Kavkaz, nam phần lãnh thổ Đông Âu của nước Nga. Say mê văn chương, lịch
sử và hoạt động xã hội từ thời học sinh phổ thông, nhưng Solzhenitsyn lại chọn
học khoa toán-lý Đại học Quốc gia Rostov
(RGU). Tuy nhiên, trong thời gian học chính thức ở RGU (1936-1941),
Solzhenitsyn cũng tự nghiên cứu sử học và chủ nghĩa Marx-Lenin, rồi theo học
hàm thụ (từ 1939) tại Viện Triết học, Văn chương và Lịch sử Moskva (MIFLI). Sau
khi tốt nghiệp RGU, Solzhenitsyn bị gọi nhập ngũ tháng 10 năm 1941, được cử đi
học Trường Sĩ quan Pháo binh Kostroma, một năm sau ra trường với cấp bậc trung
uý, ra mặt trận tháng 2 năm 1943 với cương vị khẩu đội trưởng trinh sát pháo
binh, được đề bạt quân hàm đại uý tháng 6.1944, được tưởng thưởng Huân chương
Chiến tranh Vệ quốc và Huân chương Sao Đỏ.
Tháng 2 năm 1945, khi đang phụng sự ở mặt
trận Đông Phổ, Solzhenitsyn bị bắt vì bộc lộ thái độ phê phán và chửi rủa
Stalin trong thư từ trao đổi với một người bạn đồng ngũ, bị “Hội đồng Đặc biệt”
(Osoboe soveshchanie) kết án tám năm lao động cải tạo
và vĩnh viễn lưu đày biệt xứ. Từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 2 năm1953,
Solzhenitsyn trải qua một loạt nhà tù / trại giam GULAG, trong đó có một giai
đoạn (9 năm 1946-5 năm 1950) ông làm việc trong các sharashka - những “phòng thí nghiệm R&D” sử
dụng nhân lực là tù nhân có trình độ chuyên môn. Mãn hạn tù (1953),
Solzhenitsyn tiếp tục bị phát vãng đến Kok-Terek (Kazakhstan ) theo bản án lưu đày
suốt đời. Năm 1956, sau khi được “phục hồi” theo quyết định của Tòa án Tối cao
Liên Xô (lúc này Nikita Khrushchëv mới lên nắm quyền), Solzhenitsyn chuyển đến
định cư ở làng Torfoprodukt thuộc hạt Vladimirskaĭa Oblast’.
Được khuyến khích bởi bầu không khí bài
Stalin vào đầu thập niên 1960, Solzhenitsyn tiếp cận nhà thơ Aleksandr
Tvardovskiĭ (1910-1971), tổng biên tập tạp chí văn chương Xô-viết hàng đầu Thế giới mới (Novyĭ mir), với bản thảo truyện vừa Một ngày của Ivan Denisovich (Odin den’ Ivana Denisovicha,
viết từ 1959). Sau khi được sửa chữa và được đích thân Nikita Khrushchëv phê
chuẩn, thiên truyện xuất hiện trên các trang của Novyĭ mir vào 1962, đem lại cho tác giả của nó
sự nổi tiếng tức thì. Một ngày... mô
tả trải nghiệm của chính Solzhenitsyn về cuộc sống của tù nhân trong một trại
cưỡng bức lao động thời Stalin. Là một trong số những tác phẩm văn học đầu tiên
của thời kỳ hậu-Stalin trực tiếp viết về đề tài này, thiên truyện đã gây xúc
động mạnh mẽ cả ở trong và ngoài Liên Xô, truyền cảm hứng cho một số nhà văn
Xô-viết khác tiếp tục khai thác những kinh nghiệm lao tù của họ dưới chế độstalinist. Tuy nhiên, giai đoạn ân sủng ngắn ngủi này
sớm kết thúc cùng với sự “ngã ngựa” của Nikita Khrushchëv (1964): sau lần một
tuyển tập truyện ngắn của Solzhenitsyn được ấn hành vào năm 1963, tác phẩm của
ông bắt đầu hứng chịu sự chỉ trích và phiền nhiễu của chính quyền.
Sự chấp chính của Leonid Brezhnev đã lấy
đi của Solzhenitsyn cơ hội được hợp pháp xuất bản tác phẩm và phát biểu trước
công chúng. Tháng 9 năm 1965, KGB đã ra lệnh tịch thu những trước tác “chống
Xô-viết nghiêm trọng nhất” của ông. Solzhe quay lại việc phổ biến văn học của
mình dưới hình thức samizdat, đồng thời gửi ra nước ngoài để xuất bản.
Những năm cuối thập niên 1960 của Solzhe được đánh dấu bởi việc công bố bên
ngoài lãnh thổ Liên Xô một số tiểu thuyết đầy tham vọng - Vòng tròn đầu tiên (V kruge pervom,
1968), Khu nhà ung thư(Rakovyĭ korpus,
1968), v.v... -, những tác phẩm đã đảm bảo cho ông một uy tín văn chương quốc
tế, song cũng khởi động một chiến dịch chống lại ông của truyền thông đại chúng
Xô-viết. Cũng trong thời kỳ này, Solzhe đã bí mật hoàn thành bản thảo thiên
phóng sự điều tra Quần đảo GULAG (Arkhipelag GULAG), một hồ sơ văn học đồ sộ, người thật
việc thật về sự đàn áp Xô-viết đối với quyền con người, được bắt đầu viết từ
1958. (GULAG là viết tắt theo tiếng Nga của “Tổng cục các trại lao động cải
tạo”, chính thức tồn tại ở Liên Xô trong khoảng thời gian 1930-1960.) Thỉnh
thoảng, lợi dụng những khoảnh khắc lơi lỏng của nhà đương cục, Solzhe cũng tích
cực gặp gỡ và trả lời phỏng vấn các ký giả nước ngoài.
Năm 1969, Solzhenitsyn được đề cử lần đầu
cho giải Nobel văn chương, và mặc dù năm đó giải này không được trao cho ông,
Solzhe đã bị khai trừ khỏi Liên đoàn Nhà văn Liên Xô. Năm 1970, Solzhe tiếp tục
được đề cử cho giải Nobel và lần này thì ông trúng cử, “vì sức mạnh đạo đức mà
với nó, ông đã theo đuổi những truyền thống không thể bị lãng quên của văn
chương Nga” (trích Thông cáo của Giải Nobel Văn chương 1970). Chính quyền Liên
Xô đã mô tả quyết định của Ủy ban Giải Nobel là “thù địch về chính trị”, truyền
thông Xô-viết một lần nữa lại om sòm phỉ nhổ Solzhe; chính quyền yêu cầu Solzhe
dời Liên Xô, nhưng ông đã cự tuyệt. Năm đó, Solzhenitsyn đã không đến Stockholm dự lễ trao giải
Nobel của mình, vì ông đoan chắc một khi ông ra khỏi đất nước, ông sẽ bị tước
quyền hồi hương. Phía Thụy Điển cũng từ chối đề nghị của Solzhe về một lễ trao
giải riêng được tổ chức tại tòa đại sứ Thụy Điển ở Moskva vì e ngại việc này sẽ
chọc giận Liên Xô, gây tổn hại đến quan hệ của vương quốc với siêu cường. Chỉ
đến tháng 12 năm 1974, sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô, Solzhe mới sở hữu
giải Nobel của mình.
Cuối năm 1973, quan hệ giữa chính quyền
Liên Xô và giới bất đồng chính kiến gia tăng căng thẳng. Tháng 8 năm 1973, vào
ngày mà Solzhenitsyn cho báo giới nước ngoài một cuộc phỏng vấn dài, KGB đã bắt
giữ một trong những nữ trợ lý của nhà văn, Elizaveta Voronĭanskaĭa. Bị tra
khảo, Voronĭanskaĭa đã khai ra nơi cất giấu một bản sao của bản thảo Arkhipelag GULAG,
rồi treo cổ tự vẫn sau khi được thả. Đầu tháng 9, được tin bản thảoArkhipelag GULAG đã
đến tay một nhà xuất bản Nga di cư ở Tây Âu (YMCA-Press, Paris) và chuẩn bị được in, Solzhe bèn gửi
tới các nhà lãnh đạo Liên Xô một bức thư (Pis’mo vozhdĭam Sovetskogo
Soĭuza), kêu gọi từ bỏ ý thức hệ cộng sản, chuyển đổi Liên bang
Xô-viết thành một quốc gia - dân tộc của người Nga.
Một chiến dịch chống dissidentsiĭa (giới bất đồng chính kiến) lại rộ lên
trên báo chí Xô-viết, trong cùng một lúc với chiến dịch báo chí bênh vực họ và
cá nhân Solzhenitsyn ở phía tây “bức màn sắt”. Qua trung gian người vợ đầu của
Solzhenitsyn thu xếp, ngày 24 tháng 9 năm 1973, KGB đã tiến hành một cuộc đàm
phán với nhà văn nhưng không đạt được một thỏa thuận nào. Vào những ngày cuối
cùng tháng 12 năm 1973, volume đầu tiên củaArkhipelag GULAG được chính thức phát hành ở Paris và,
cùng với sự ra mắt của cuốn sách, từ “gulag” đã đi vào từ vựng chính trị phương
Tây, phiếm chỉ một hệ thống đàn áp chính trị nội bộ vô nhân đạo nhất trong lịch
sử hiện đại, xuất hiện ngay sau cuộc cách mạng bol’shevik tháng 11 năm 1917.
Chính quyền Liên Xô đã phản ứng mau lẹ.
Trong phiên họp ngày 7 tháng 1 năm 1974, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đã
thảo luận về “những biện pháp ngăn chặn hoạt động chống Xô-viết của
Solzhenitsyn”. Ngày 7 tháng 2 năm 1974, thủ lĩnh KGB Ĭuriĭ Andropov gửi thư cho
tổng bí thư Leonid Brezhnev, chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của Arkhipelag GULAG đối với giới trí thức và đề xuất đuổi
nhà văn ra khỏi đất nước. Ngày 12 tháng 2, Solzhenitsyn bị bắt với tội danh
“phản bội tổ quốc”. Ngày 13 tháng 2, ông bị tước quyền công dân Liên Xô và bị
trục xuất khỏi lãnh thổ Liên Xô bằng một chuyến bay tới Cộng hòa Liên bang Đức.
Những người còn lại trong gia đình Solzhenitsyn dời Liên Xô ngày 29 tháng 3
tháng 1974.
Thời gian từ sau đó cho đến trước năm
1990, gia đình Solzhenitsyn sinh sống chủ yếu ở Hoa Kỳ. Trong hơn 17 năm sống
lưu vong, Solzhe đầu tư công sức cho bộ truyện lịch sử về cuộc Cách mạng Nga
1917 - Bánh xe đỏ(Krasnoe koleso),
gồm bốn phần, hoàn thành vào năm 1992 -, và một số công trình ngắn hơn.
Quá trình perestroĭka đã làm thay đổi thái độ của xã hội
Xô-viết đối với sáng tác và hoạt động của Solzhenitsyn. Năm 1990, Solzhenitsyn
được khôi phục quyền công dân Liên Xô. Cùng năm đó, bộ sách Arkhipelag GULAGđược
chính phủ Liên Xô trao tặng Giải thưởng Nhà nước. (Cho đến lúc đó, ở Liên Xô bộ
sách này cũng như hầu hết các sáng tác của Solzhenitsyn chỉ được lưu hành dưới
dạng samizdat.) Ngày 27 tháng 5 năm 1994, gia đình
Solzhenitsyn đã trở về nước Nga sau hơn 20 năm sống lưu vong. Trừ Solzhe, vợ và
các con ông đều đã vào quốc tịch Hoa Kỳ.
Ngày 11 tháng 12 năm 1998, tổng thống Liên
bang Nga Boris El’tsin đã ký sắc lệnh số 1562, trao tặng nhà văn Aleksandr Isaevich
Solzhenitsyn Huân chương Thánh Andreĭ Pervozvannyĭ, huân chương cao nhất vừa
được khôi phục của Liên bang Nga, có truyền thống từ thời đế quốc Nga. Tuy
nhiên, nhà văn đã từ chối vinh dự, với lý do “quyền lực tối cao đã đưa nước Nga
đến thảm trạng ngày nay, (khiến) tôi không thể nhận sự tưởng thưởng này”. Cũng
trong năm 1998, Solzhenitsyn đã được Đoàn chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Nga
(RAN) trao tặng Đại Huy chương Vàng M. V. Lomonosov, “vì những đóng góp xuất
sắc trong sự phát triển nền văn chương Nga, ngôn ngữ Nga và lịch sử nước Nga.”
Trước đó, từ năm 1994, Solzhenitsyn đã được bầu làm thành viên quốc ngoại của
Viện Ngôn ngữ và Văn chương - Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia , cơ quan học thuật hàn lâm uy tín nhất
của Cộng hòa Serbia
và cả Liên bang Nam Tư cũ.
Trong “những năm ở phương Tây”,
Solzhenitsyn đã rất tích cực tham gia vào những cuộc tranh luận về lịch sử nước
Nga, về Liên Xô và về chủ nghĩa cộng sản, với một nỗ lực nhằm hiệu chính những
điều mà ông cho là “những nhầm lẫn Tây phương” (Western misconceptions) trong các chủ đề nói trên. Về
một quan niệm phổ biến ở phương Tây - xuất phát từ luận điểm của nhà sử học Mỹ
gốc Ba Lan Richard Pipes - cho rằng cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và thể chế
toàn trị hung bạo mà nó sản sinh ra là sự tiếp nối lịch sử của chế độ tsarist - điển hình là các triều đại Ivan
Groznyĭ và Pëtr Velikiĭ - và nền văn hóa Nga, Solzhenitsyn quả quyết rằng đây
là một ý niệm sai về cơ bản, công trình của Pipes chỉ là “phiên bản Ba Lan của
lịch sử Nga”. Solzhe biện luận rằng nước Nga tsarist chưa
bao giờ có khuynh hướng bạo lực như Liên Xô. Để thí dụ, thời đế quốc nước Nga
chưa từng thực hành chế độ kiểm duyệt truyền thông, tù nhân chính trị chưa từng
bị cưỡng bức lao động kiểu nô lệ trong các trại tập trung, và số lượng tù nhân
chính trị chỉ bằng một phần vạn so với số lượng này ở Liên Xô; cảnh sát mật vụ
của chế độ tsarist chỉ
tồn tại ở ba thành phố lớn của đế quốc là Peterburg, Moskva và Kiev, và tuyệt
nhiên không có hệ thống mật thám trong quân đội như Liên Xô. Việc sử dụng bạo
lực dưới thời sa hoàng hoàn toàn không so sánh được với quy mô của bạo lực thời
Xô-viết. Solzhe khẳng định rằng sự lạm dụng bạo lực của chủ nghĩa bol’shevik
trong thế kỷ XX không phải là sự kế thừa các sự kiện lịch sử Nga thế kỷ XVI
(thời Ivan Groznyĭ) và thế kỷ XVIII (thời Pëtr Velikiĭ), mà chính là đã được
truyền cảm hứng từ giai đoạn khủng bố Gia-cô-banh (Jacobin) của Cách mạng Pháp (1789-1799).
Solzhenitsyn cũng chỉ trích ý kiến cho
rằng “Liên Xô về mọi phương diện chính là nước Nga”. Theo Solzhe, nền văn hóa
Nga chưa bao giờ là nền văn hóa thống trị ở Liên Xô cả. Trên thực tế, ở Liên Xô
không có nền văn hóa dân tộc nào có được địa vị thống trị: nền văn hóa của tất
cả các dân tộc đều bị đàn áp vì lợi ích của văn hóa vô thần Xô-viết. Hơn thế, Solzhe
còn cho rằng nền văn hóa của dân tộc Nga còn bị áp bức nhiều hơn các nền văn
hóa thiểu số, vì lẽ chế độ ít lo sợ sự nổi dậy của các sắc tộc thiểu số hơn sự
phản kháng của chính người Nga.
Về cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai,
Solzhenitsyn đã lên án Đồng Minh về động thái trì hoãn mở mặt trận thứ hai
chống nước Đức quốc xã. Ông buộc tội các quốc gia dân chủ phương Tây, trong khi
chỉ chăm lo chấm dứt chiến tranh một cách nhanh chóng và ít đổ máu nhất cho
phía mình, đã phớt lờ những tổn thất của mặt trận phía đông, và chính điều này
cũng đã giúp áp đặt sự thống trị Xô-viết lên các dân tộc Đông Âu.
Về cuộc Chiến tranh Kosovo (1996-1999),
Solzhenitsyn đã lên án mạnh mẽ cuộc ném bom Nam Tư năm 1999 của các đồng minh
NATO. Ông nói: “Chẳng có gì khác nhau giữa NATO và Hitler.”
Về thế giới phương Tây, trong lời phát
biểu qua radio BBC ngày 26 tháng 3 năm 1979, Solzhenitsyn nói: “Trước khi tôi
đích thân đi đến phương Tây và bỏ ra hai năm quan sát xung quanh, tôi chưa bao
giờ hình dung nổi cái mức độ cực đoan mà phương Tây đã thực sự trở nên một thế
giới không có ý chí, một thế giới đang từ từ tê liệt trước mối hiểm nguy mà nó
đương đầu như thế này... Tất cả chúng ta đang đứng bên bờ của một trận đại hồng
thủy lịch sử, một trận lụt sẽ nuốt chửng nền văn minh và làm thay đổi toàn bộ
các thời đại.”
Về tư tưởng chính trị, Aleksandr
Solzhenitsyn không phải là người theo chủ nghĩa tự do (liberalism) trong cách hiểu khoa học chính trị của
thuật ngữ này. Từ nhiều năm qua, ông là một trong những lãnh tụ tinh thần của
Phong trào Yêu nước Chính thống giáo (tiếng Nga Pravoslavno-patrioticheskoe
dvizhenie), chủ trương xây dựng một quốc gia Slav thống nhất trên
lãnh thổ Nga, Belarus và một phần Ukraina, thiết lập trên quốc gia mới một
thiết chế nhà nước mạnh, từng bước chuyển dịch về dân chủ, hướng những tài
nguyên của quốc gia tương lai vào sự phát triển tinh thần, đạo đức và tôn giáo
của nhân dân, trước hết là của người Nga. Quan điểm Ki-tô giáo và bảo thủ (conservative) của Solzhenitsyn, thể hiện trong một số
tiểu luận và trước tác, đã từng bị một số nhà bất đồng chính kiến Xô-viết nổi
tiếng - trong đó có Andreĭ Sakharov và Vladimir Voĭnovich - phản bác.
Solzhenitsyn cũng nổi tiếng với những công
trình về vấn đề người Do Thái ở Nga và Liên Xô cũ.
Maksim Gor’kiĭ - “con chim sơn ca của cách
mạng”
Ở Việt Nam, nhiều người biết về Maksim Gor’kiĭ (tên khai sinh Alekseĭ Maksimovich Peshkov,
1868-1936) như một trong những nhà văn Nga / Liên Xô lớn nhất, người đã sáng
lập “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” - phương pháp sáng tác chính của văn
học - nghệ thuật trong thế giới Xô-viết và pro-Soviet trước đây. Đại toàn thư
Liên Xô ‘БСЭ’ gọi Gor’kiĭ là “tổ phụ của nền văn chương Xô-viết” (rodonachal’nik sovetskoĭ literatury).
Ở Liên Xô cũ, trước và sau khi ông chết,
Gor’kiĭ được tôn vinh như một con người vĩ đại mẫu mực, hoàn toàn xuất lộ từ
giai cấp vô sản: những tượng đài và họa phẩm về Gor’kiĭ, trong đó ông đang ở
những tư thế kiêu hùng, được dựng / trưng bày rải rác khắp đất nước. Một trong
những đường phố chính của Moskva - con phố Tverskaĭa dẫn đến quảng trường Đỏ,
đồng thời đi qua tòa biệt thự mà Stalin ra lệnh cấp cho ông -, cùng với thành
phố quê hương ông - Hạ Novgorod -, đã được gọi bằng tên (đúng hơn là pseudonym)
Gor’kiĭ trong suốt thời Xô-viết: ulitsa Gor’kogo và gorod Gor’kiĭ.
Thật ra, cùng với sự nghiệp văn chương,
Gor’kiĭ còn có một cuộc đời hoạt động chính trị bắt đầu khi ông còn rất trẻ.
Công khai chống đối chế độ tsarist và
bị bắt nhiều lần, ông kết bạn với nhiều nhà cách mạng có tư tưởng marxist và
trở thành bạn thân của Lenin từ 1902. Là một tác giả, nhà biên tập và biên kịch
thành công về tài chính, ông hỗ trợ tiền bạc cho Đảng Lao động Dân chủ - Xã hội
Nga (RSDRP), một nửa tiền thân của Đảng bol’shevik. Cuộc cách mạng Nga lần thứ
nhất (1905) đã đẩy ông liên kết dứt khoát với cánh Bol’shevik của Lenin trong
RSDRP.
Mặc dầu vậy, quan hệ giữa Gorkiĭ với Lenin
và các lãnh tụ bol’shevik ngày càng nhiều gai góc. Mùa xuân năm 1917, khi RSDRP
phân ly thành hai đảng - đảng của những người bol’shevik RSDRP(b) và đảng của
những người men’shevik (vẫn giữ tên RSDRP) -, do bất đồng với những người
bol’shevik trong vấn đề tính hợp thời của một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước Nga, Gor’kiĭ đã từ chối tái đăng ký tư cách đảng viên của RSDRP(b), chính
thức ra khỏi đảng này.
Hai tuần sau khi Cách mạng tháng Mười nổ
ra, Gor’kiĭ viết: “Lenin và Trotskiĭ không có bất cứ ý niệm nào về tự do và
quyền con người. Họ đã bị nọc độc nhơ nhuốc của quyền lực mua chuộc, thứ quyền
lực rõ ràng đã có được bằng sự khinh thị đáng hổ thẹn của họ đối với tự do ngôn
luận và mọi quyền tự do dân sự khác mà nền dân chủ đã đấu tranh vì chúng.” Lập
tức, tờ báo do Gor’kiĭ chủ nhiệm - Đời mới (Novaĭa zhizn’), nguyên là cơ quan ngôn luận của RSDRP
- đã làm mồi cho kiểm duyệt bol’shevik. Gor’kiĭ cho xuất bản (1918) tập tiểu
luận Những tư tưởng không hợp thời (Nesvoevremennye mysli). Khi kịch liệt lên án thái độ
của những người bol’shevik đối với giới trí thức từ chế độ cũ, trong các năm
1917-1919 Gor’kiĭ đã rất tích cực sử dụng ảnh hưởng của mình để cứu nhiều đại
biểu của giới này khỏi nanh vuốt của bạo lực đỏ. Lenin đã viết (1919) trong thư
gửi Gor’kiĭ: “Lời khuyên của tôi cho anh: hãy thay đổi những người xung quanh
anh, quan điểm và hành vi của anh, nếu không, cuộc sống có thể quay lưng lại
với anh.”
Tháng 8 năm 1921, nhà thơ Nikolaĭ Gumilëv
- bạn của Gor’kiĭ và chồng cũ của nữ sĩ Anna Akhmatova (đồng thời là thân sinh
của nhà sử học Xô-viết nổi tiếng Lev Gumilëv sau này) - bị Che-Ka Petrograd bắt. Gor’kiĭ vội vã đi Moskva và đòi được một
lệnh thả Gumilëv từ đích thân Lenin, nhưng khi Gor’kiĭ còn đang trên đường trở
lại Petrograd , Gumilëv đã bị bắn. Tháng Mười
cùng năm, Lenin yêu cầu Gor’kiĭ quay trở lại Italy , nơi ông từng cư ngụ những
năm 1906-1913, để chữa trị bệnh lao tái phát.
Từ năm 1928, theo lời mời của chính phủ
Liên Xô và đích thân Stalin (lúc này Lenin đã chết), Gor’kiĭ về thăm cố quốc.
Ông đi khắp đất nước và cho ra đời series phóng sự Trên Liên bang Xô-viết (Po Sovetskomu Soĭuzu), ngợi ca những thành tựu của
Liên Xô. Đặc biệt, Gor’kiĭ đã đến thăm Solovki vào tháng 6 năm 1929, với sứ
mạng giải độc dư luận phương Tây về hạnh kiểm nhân quyền ở đây. Đương nhiên,
chính quyền cai ngục ở Solovki đã cho “làm vệ sinh” quần đảo để đón Gor’kiĭ,
trong khi các tù nhân thì hy vọng “Gor’kiĭ sẽ nhìn thấy, sẽ nhận ra tất cả. Ông
ấy rất từng trải, đừng hòng lừa ông ấy.” (D. S. Likhachëv, “Vospominaniĭa”, Priezd Maksima Gor’kogo i massovye
rasstrely 1929 goda.) Không ai rõ Gor’kiĭ đã nhìn thấy gì và đã
nghĩ gì, nhưng trong phóng sự Solovki,
Gor’kiĭ đã viết những dòng này: “Tôi cho rằng kết luận đã rõ ràng: những trại
như Solovki là cần thiết... Chính bằng cách này, chính phủ sẽ nhanh chóng đạt
được một trong những mục tiêu của mình: xóa bỏ hết các nhà tù.” Sau chuyến
viếng thăm của Gor’kiĭ, khoảng 3-4 trăm tù nhân đã bị bắn không xét xử trong
một cuộc thảm sát. (D. S. Likhachëv, tài liệu đã dẫn.)
Trên tờ Sự thật (Pravda), cơ quan
ngôn luận trung ương của Đảng bol’shevik, số 314, ra ngày 15 tháng 11 năm 1930,
dưới tiêu đề Khi kẻ thù không quy hàng, - nó sẽ bị tiêu diệt,
Maksim Gor’kiĭ đã viết: “... Chống lại chúng ta là tất cả những gì đã quá hạn,
một thời hạn mà lịch sử đã ấn định cho chúng. Điều này khiến chúng ta có quyền
coi mình vẫn đang ở trong tình trạng nội chiến. Từ đó rút ra một kết luận hiển
nhiên: nếu kẻ thù không quy hàng, - nó tất bị bắn bỏ.”
(La Thành nhấn mạnh). Châm ngôn nổi tiếng, sực mùi “bạo lực cách mạng” này của
Gor’kiĭ được Stalin rất ưa thích và đã từng trích dẫn lại trong một chỉ lệnh
của mình.
Từ năm 1931, Gor’kiĭ vĩnh viễn tái định cư
tại Liên Xô theo thỉnh cầu của Stalin. [A. I. Solzhenitsyn thì cho rằng cuộc
hồi hương lần này của Gor’kiĭ đã được thúc bách bởi những nhu cầu vật chất:
sống ở Sorrento (Italy ) những năm 1922-1928, Gor’kiĭ
đã thấy mình thiếu thốn cả tiền bạc và tiếng tăm.] Cuộc trở về của Gor’kiĭ từ
nước Italy
phát-xít đã được cỗ máy tuyên truyền Xô-viết tận dụng hết công suất. Ông được
tặng thưởng Huân chương Lenin - huân chương cao nhất của Liên Xô -, được cấp
tòa biệt thự của nhà tài phiệt đã bỏ chạy Rĭabushinskiĭ trên đường Tverskaĭa,
nay là Bảo tàng Gor’kiĭ, cùng với một dacha ở
ngoại ô Moskva. Tên “Maksim Gor’kiĭ” còn được đặt cho kiểu máy bay Tupolev ANT-20,
niềm hãnh diện của công nghệ Xô-viết những năm 1930. Vào những ngày lễ trọng
của chế độ Xô-viết, người ta thường nhìn thấy Gor’kiĭ có mặt trên kỳ đài Lăng
Lenin, bên cạnh lãnh tụ Stalin và các đại thần như Mikhail Kalinin, Vĭacheslav
Molotov, Lazar’ Kaganovich và Kliment Voroshilov.
Gor’kiĭ đã được Stalin giao cho một “đơn
đặt hàng xã hội”: tổ chức đại hội đầu tiên của các nhà văn Liên Xô. Để chuẩn bị
cho sự kiện này, trong giai đoạn 1931-1934 rất nhiều tờ báo và tạp chí Xô-viết
đã được Gor’kiĭ thành lập. Năm 1934, Đại hội lần thứ nhất của Liên đoàn các nhà
văn Liên Xô (Soĭuz pisateleĭ SSSR,
viết tắt là SP SSSR, thành lập từ tháng 4 năm 1932 sau một nghị
quyết của Ủy ban Trung ương Đảng bol’shevik) đã được Gor’kiĭ dẫn dắt với báo
cáo chính do ông trình bày. Trong suốt lịch sử tồn tại của mình (1932-1991), SP
SSSR có nhiệm vụ thật sự là thực hiện sự kiểm soát của ‘nhà nước - đảng’ trong
văn học. Tư cách hội viên SP là tối thiết thân đối với người làm văn chuyên
nghiệp ở Liên Xô: không được kết nạp vào SP, nhà văn sẽ có vô cùng ít cơ hội
được in tác phẩm; còn việc bị khai trừ khỏi SP thì hoàn toàn đồng nghĩa với bị
cấm xuất bản. Được cử làm chủ tịch đầu tiên của SP SSSR, Maksim Gor’kiĭ đã lên
đến đỉnh điểm của danh vọng.
Trong “giai đoạn hồi chánh” này, Gor’kiĭ
còn tham gia biên tập (1933) cuốn sách về con kênh đào Belomoro-Baltiĭskiĭ nối biển Trắng với vịnh Phần Lan, mô
tả công trình này như một thí dụ về “sự tu phục thành công những kẻ thù trước
đây của giai cấp vô sản”, bất chấp một sự thật: giá của con kênh đào dài 227
ki-lô-mét này là một trăm nghìn sinh mạng tù nhân GULAG.
Giữa thập niên 1930, những chiến dịch của
“Ðại thanh trừng” (Great Purge) mở
màn, điển hình là vụ ám sát Sergeĭ Kirov tháng 12 năm 1934. Bản thân Gor’kiĭ bị
quản thúc tại nhà: giống như trường hợp của Kirov , sự nổi tiếng của Gor’kiĭ bắt đầu phát
huy tác hại. Tháng 5 năm 1935, con trai Gor’kiĭ - Maksim Peshkov - đột ngột tử
vong trong một hoàn cảnh đầy bí hiểm. Hơn một năm sau (18 tháng 6 năm 1936) thì
đến lượt Gorkiĭ. Như nhiều danh nhân khác của thời đại Xô-viết, ông được chôn ở
nghĩa trang Bên tường Kreml’, trên quảng trường Đỏ, cách không xa lăng tẩm của
người bạn thân và đối tượng của những phê phán chính trị gay gắt một thuở của
ông: Vladimir Lenin. Trong số những người khiêng linh cữu Gor’kiĭ, người ta
thấy có đích thân Iosif Stalin và Vĭacheslav Molotov.
Điều thú vị là trong quá trình xét xử “các
vụ án Moskva” (1938), một trong những cáo buộc được đưa ra để chống lại Genrikh
Ĭagoda - nguyên ‘tổng ủy công an Liên Xô’ (cấp hàm công an tương đương nguyên
soái Liên Xô), dân ủy (tức bộ trưởng) NKVD (Bộ Nội vụ) trước khi bị bắt - là
cha con Gor’kiĭ đã bị hạ độc bởi chính các nhân viên NKVD! Sinh thời Gor’kiĭ,
Ĭagoda từng ở trong số các thân hữu của nhà văn. Sau này, một số xuất bản phẩm
thời kỳ perestroĭka đã
cáo giác rằng chủ mưu thực sự trong cái chết bất thường của Gor’kiĭ là không ai
khác ngoài Stalin.
Nhiều trí thức bất đồng chính kiến thời
Xô-viết coi Gor’kiĭ là nhà văn thiên vị ý thức hệ, trong khi giới nghiên cứu
phương Tây lại chú ý nhiều hơn đến những nghi ngờ / phê phán của Gor’kiĭ, cũng
như những cảnh báo sáng suốt của ông về viễn tượng nguy hiểm trên bình diện đạo
đức của cuộc Cách mạng bol’shevik 1917.
Maksim Gor’kiĭ đã sống một cuộc đời sóng
gió và trải qua những diễn biến thế giới quan phức tạp, có cả thanh danh và tai
tiếng, cả hiển vinh và hoạn nạn.
Lev Gumilëv - “người Á-Âu cuối cùng”
Lev Nikolaevich Gumilëv(1912-1992) là nhà sử học nhân chủng
(tiếng Nga историк-этнолог, tiếng Anh historian-ethnologist), người sáng lập “lý thuyết độ
đam mê” (теория пассионарности, passionarity theory) trong tộc nguyên học (этногенез, ethnogeny - bộ môn khoa học về nguồn gốc các
chủng tộc), đồng thời là nhà triết học, nhà thơ, dịch giả từ tiếng Fârsi (tên
gọi ngôn ngữ của người Iran).
Lev Gumilëv là con trai của cặp vợ chồng
thi sĩ xuất chúng Anna Akhmatova (1889-1966) và Nikolaĭ Gumilëv (1886-1921),
hai trong số những nhà thơ có ảnh hưởng nhất của Acmeism (tiếng Nga Акмеизм, tạm dịch: “trào
lưu Tuyệt đỉnh”) trong thơ ca Nga đầu thế kỷ XX. Năm Lev Gumilëv lên sáu tuổi
(1918), cha mẹ ông ly dị. Chín tuổi, Lev mồ côi cha: cha ông bị chính quyền
bol’shevik bắt tháng 8.1921 với cáo buộc đã được mưu dựng và bị bắn ngay sau
đó. Những sáng tác của mẹ ông cũng bị đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao từ 1922.
Năm 1934, Gumilëv vào học khoa sử Đại học Quốc gia Leningrad (LGU), sau một năm
học (1935) thì bị đuổi khỏi trường vì lý lịch xấu - “là con trai kẻ thù của
nhân dân”, “không xứng đáng được học đại học” -, bị bắt một thời gian rồi lại
được thả và được học tiếp LGU. Năm 1938, Lev Gumilëv lại bị bắt khi đang học dở
LGU, lần này bị kết án 5 năm “lao động cải tạo” tại một hầm mỏ GULAG ở
Noril’sk, tây-bắc Sibir’. Năm 1943, từ trại cải tạo, Gumilëv tình nguyện nhập
ngũ giữa lúc chiến tranh ác liệt nhất, trở thành binh sĩ sư đoàn phòng không 31
thuộc phương diện quân Belorusskiĭ thứ Nhất, và đã tham gia trận đánh chiếm
Berlin vào cuối cuộc chiến tranh thế giới. Năm 1945, sau khi giải ngũ, Gumilëv
được khôi phục việc học tập ở LGU.
Tốt nghiệp đại học năm 1946, ông trở thành
nghiên cứu sinh (aspirant) ở Phân
viện Leningrad - Viện Đông phương học của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, nhưng
không lâu sau thì bị loại khóa, vẫn vì lý lịch. Gumilëv xin vào làm thủ thư
trong một nhà dưỡng trí và tiếp tục theo đuổi luận án. Năm 1948, ông bảo vệ
luận án kandidat(“tiến sĩ” theo cách dịch hiện nay ở Việt Nam ) về khoa
học lịch sử tại LGU, rồi trở thành cán bộ của Bảo tàng Nhân-chủng-chí các Dân
tộc Liên Xô (Muzeĭ ėtnografii narodov SSSR).
Tháng 11.1949, Gumilëv bị bắt (lần thứ ba) và bị kết án 10 năm tù GULAG. Sau
khi Stalin chết (1953) và Nikita Khrushchëv chấp chính (1955), năm 1956,
Gumilëv được “hồi phục danh dự đầy đủ” cùng với hàng trăm nghìn nạn nhân khác
từ thời Stalin: lúc này Gumilëv đã 44 tuổi, và đã sống tổng cộng 12 năm trong
các trại giam GULAG (1938-1943 và 1949-1956). Ra tù, Gumilëv được nhận vào làm
việc tại Bảo tàng Quốc gia Hermitage ở
Leningrad . Năm
1961, ông bảo vệ luận án doktor nauk(“tiến sĩ khoa học”, học vị cao nhất ở Liên
Xô cũ / Liên bang Nga hiện nay) ngành sử học, với đề tài cổ sử người Turkic,
sau đó được mời làm việc tại Viện Nghiên cứu Ðịa lý của LGU; trước đó (từ 1960)
ông đã tham gia giảng dạy ở LGU. Tại cơ quan làm việc cuối cùng này của đời
mình, vào năm 1974 Gumilëv còn bảo vệ một luận ándoktor nauk thứ
hai, lần này là về ngành địa lý.
Lev Gumilëv là tác giả nguyên thủy của một
phức hợp phương pháp trong tộc nguyên học, bao gồm việc khảo sát các sử liệu
song song với những thông tin về khí hậu, địa chất, địa lý của Landschaft (tạm dịch: “bối cảnh”) được phản ánh
thông qua các chứng tích khảo cổ và văn hóa. Sử dụng phức hợp phương pháp này,
kết hợp với các phương pháp truyền thống, ông đã khảo sát lịch sử hình thành,
phát triển, biến đổi / biến mất của nhiều dân tộc trên lục địa Á-Âu, trong đó
có dân tộc Nga La Tư. Đặc biệt, Gumilëv là người khởi xướng học thuyết “độ đam mê”,
cho một khả năng giải thích tính quy luật của nhiều quá trình nhân chủng sử.
Theo thuyết này, các “hệ thống nhân chủng” (ethnic system) được
phân cấp thành các super-ethnos (siêu
chủng) > ethnos (chủng)
> sub-ethnos(phân chủng) > convixion (quần xã) > consortion (minh hội) > individ (cá nhân). (Trong đa số ngữ cảnh, đơn
vị nhân chủng cơ bản ethnos tương
đồng với khái niệm “dân tộc” / “sắc tộc” quen thuộc.) Mỗi hệ nhân chủng là kết
quả tiến hóa của một đơn vị nhân chủng cấp thấp hơn, hoặc là hệ quả thoái hóa
của một hệ nhân chủng cấp cao hơn. Cấp càng cao, hệ nhân chủng càng có nhiều
khả năng trường tồn. Sự phát triển của mỗi hệ nhân chủng được thực hiện nhờ
tích luỹ “năng lượng sinh tồn” bên trong hệ. Tiêu biểu cho năng lượng sinh tồn
của một hệ nhân chủng là những cá nhân (individ) giàu “độ
đam mê” (пассионарность, passionarity) - tức là cái khát vọng bất khả cưỡng nội
tại muốn hành động để đạt tới một mục tiêu nào đó (không hiếm khi chỉ là ảo
tưởng). Nhữngindivid như thế được Gumilëv gọi là những
“người đam mê” (пассионарий, passionary): đối với những người này, mục tiêu cao hơn
cuộc sống, ngay cả cuộc sống của bản thân chứ chưa nói đến cuộc sống của những
người cùng thời đại hoặc cùng chủng tộc. Sự tích luỹ liên tục năng lượng sinh
tồn của một hệ nhân chủng sớm muộn cũng sẽ dẫn tới những biến chuyển bùng phát
- những “cú hích về độ đam mê” (пассионарный толчок, passionary impulse)
-, mà kết quả là sự ra đời của một hệ nhân chủng mới, thường có cấp bậc cao hơn
hệ xuất phát. Ngược lại, nếu một đơn vị nhân chủng nào đấy tự tiêu hao năng
lượng sinh tồn của mình bằng nội chiến, bằng những chính sách sai lầm, bằng sự
đàn áp và bức hại các passionary thì
nó sẽ tất yếu thoái hóa, tan rã thành những đơn vị nhân chủng nhỏ hơn hoặc thậm
chí biến mất.
Bằng hệ thống phương pháp và khái niệm của
mình, Gumilëv đã đi đến nhiều kết luận khác biệt với những mô tả truyền thống
về lịch sử. Đánh giá của Gumilëv về “ách đô hộ Mông-Thát” (монголо-татарское
иго, Mongol-Tatar yoke) là một thí dụ. Trong khi phần lớn
giới sử học Xô-viết đều nhất trí nhận định rằng nền đô hộ Mông-Thát (1241-1480)
trên các miền đất Nga La Tư đã chỉ gây ra sự phá hủy và thoái bộ, tạo ra lực
hãm đối với sự tăng trưởng sức sản xuất của các công quốc Đông Slav - bấy giờ
vốn đã ở trình độ kinh tế - xã hội cao hơn so với xã hội Mông Cổ - Tatar còn
đang ở giai đoạn tự nhiên -, và là nguyên nhân chính dẫn đến sự tụt hậu của
nước Nga so với phương Tây; thì Gumilëv thuyết phục rằng khái niệm “ách đô hộ
Mông-Thát” chỉ là một tưởng tượng, mức độ tác hại của nó đã được cường điệu:
hãn quốc Kim Trướng (ханство Золотой Орды, Khanate of the Golden Horde) - vốn là một thiết chế
lỏng lẻo và yếu ớt, lại ở khoảng cách tương đối xa so với các lãnh địa Nga La
Tư lúc đó đang ở tình trạng bị chia cắt và tự xâu xé lẫn nhau - chưa bao giờ là
một kẻ áp bức thực sự và trực tiếp đối với các công quốc Đông Slav. Theo
Gumilëv, cuộc va chạm nhân chủng Nga La Tư - Mông Cổ trong các thế kỷ XIII-XV
là một sự “cộng sinh” (simbioz, trong hệ
thuật ngữ của Gumilëv), trong đó các đơn vị nhân chủng Đông Slav và Mông Cổ -
Tatar không tranh giành, mà đã chia sẻ những nhân tố địa lý - khí hậu khác nhau
củaLandschaft: người Đông Slav khai thác châu thổ của các
dòng sông, trong khi người Mông Cổ - Tatar khai thác những thảo nguyên steppe.
Một hệ luận quan trọng khác của học thuyết
Gumilëv là vấn đề về nguồn gốc và tính chất của nền văn hóa Nga. Trong khi các
học giả theo ‘chủ nghĩa hướng Âu’ (евро[по]центризм, eurocentrism),
trong đó có Dmitriĭ Likhachëv, tìm kiếm luận cứ để kéo văn hóa Nga vào bản đồ
văn hóa châu Âu (chính xác hơn: văn hóa Tây Âu) với cội nguồn Hy Lạp - La Mã và
Ki-tô giáo, thì Lev Gumilëv và những người cùng quan điểm với ông đã biện luận
rằng: sự khác biệt về những điều kiện địa lý - tự nhiên, ổn định trong suốt
chiều dài lịch sử, giữa Nga và Tây Âu (Nga: lục địa <--> Tây Âu: đại
dương) đã hình thành nên ở Tây Âu và Nga hai super-ethnos riêng
biệt, chia sẻ những đặc điểm tâm lý khác nhau và những giá trị văn hóa khác
nhau. Nói riêng, Gumilëv khẳng định rằng người Rusy (Русы) hayRusiny (Русины)
- thành phần cư dân chính của nhà nước Nga La Tư - Kiev trung đại (Киевская
Русь, Kievan Rus) - và dân tộc Nga hiện đại (Русские, Russkie hay Russians) là hai ethnos khác
nhau: trên bình diện văn hóa, trong khi người Nga La Tư trung đại là một sắc
tộc Đông Slav đã hấp thụ văn hóa Âu châu qua ngả Byzantium, người Nga hiện đại
thuộc về “nền văn minh Á-Âu” (евразийская цивилизация, Eurasian civilization)
- hợp nhất sự đóng góp lịch sử của các yếu tố Slavic-Hellenic của châu Âu và
Mongolic-Turkic của châu Á -, có đầy đủ tư cách của một nền văn hóa riêng biệt,
khả dĩ so sánh với văn hóa Tây Âu. Các dân tộc Eurasian - bao gồm người Nga và các sắc tộc nói
ngôn ngữTurkic (Kazakh,
Uzbek, Tatar, Uyghur, Azerbaijani, Kyrgyz...) -, nói theo thuật ngữ của L.
Gumilëv, đã tạo thành “siêu chủng Á-Âu” (суперэтнос Евразии, Eurasian superethnos).
Tin tưởng vào hạt nhân chân lý trong học thuyết nhân chủng sử của mình và tư
tưởng Á-Âu chủ nghĩa, Gumilëv đã tuyên bố câu nói nổi tiếng “Tôi là người Á-Âu
cuối cùng!” (“Я последний евразиец!”)
Những phương pháp và khái niệm phi chính
kinh của Gumilëv đã hứng nhận những phản ứng dị hóa dữ dội từ giới sử học
Nga-Slav truyền thống. Hệ thống lý luận của ông bị phê phán là thiếu chặt chẽ,
vi phạm phương pháp luận khoa học (kinh điển). Những chỉ trích gay gắt nhất thì
kết án lý thuyết passionarity là
“giả khoa học”. Nhà sử học trung đại người Ba Lan Andrzej Poppe thậm chí còn
gọi công trình của Gumilëv là “một cuốn tiểu thuyết về quá khứ”, không đáng để
quan tâm một cách nghiêm túc (từ khía cạnh khoa học lịch sử). Đa số bản thảo
công trình của Gumilëv bị cấm xuất bản trong gần suốt thời Xô-viết, cho đến
trước những năm perestroĭka (một
phần có thể do lý lịch của ông).
Hiện nay, sau hơn hai thập kỷ được biết
đến, học thuyết Gumilëv đã giành được một mức độ đại chúng đáng kể, thậm chí đã
trở thành cơ sở lý luận của “chủ nghĩa Á-Âu mới” (ново- hoặc нео-евразийство, neo-eurasianism),
trào lưu tư tưởng - chính trị Nga xuất hiện trong giai đoạn cuối của Liên bang
Xô-viết và trở nên thịnh hành sau khi thiết chế này tan rã, đối thủ cạnh tranh
chủ yếu của chủ nghĩa hướng Âu. Ở Liên bang Nga, trong phạm trù học thuật, vào
năm 2001 Hiệp hội Xã hội học Á-Âu (EASA) đã được thành lập; chủ tịch hiệp hội
là Viện sĩ Gennadiĭ Osipov, giám đốc đương nhiệm của Viện Nghiên cứu Chính trị
- Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Nga. Trên chính trường Nga, một đảng chính trị mang
tên ‘Á-Âu’ (‘Евразия’) đã đăng ký hoạt động từ tháng 6 năm 2002, do Aleksandr
Dugin làm chủ tịch. Một số nhà quan sát còn cho biết đảng này đã nhận được sự
hậu thuẫn về tài chính và tổ chức từ Văn phòng Tổng thống Vladimir Putin.
Cũng không đáng ngạc nhiên khi lý thuyết
của Lev Gumilëv được nhiều quốc gia / dân tộc Turkic trong không gian địa chính
trị Xô-viết trước đây nồng nhiệt đón nhận. Tổng thống Kazakhstan Nursultan
Nazarbaev, trong khi kiến thiết thủ đô mới Astana (1994-1997), đã ra lệnh xây
dựng “Đại học Quốc gia Á-Âu Lev Gumilëv” (Lev Gumilev Eurasian National
University) ở vị trí đối diện với phủ tổng thống qua quảng trường
trung tâm của thành phố. Chính quyền Cộng hòa Tatarstan (một chủ thể thành phần
của Liên bang Nga) cũng đã quyết định đặt tượng đài cho Lev Gumilëv tại thủ phủ
Kazan ’ nhân kỷ
niệm 1000 năm thành phố này (tháng 8 năm 2005). Bản thân Dmitriĭ Likhachëv,
trong bức thư gửi tạp chí Novyĭ mir, một mặt buộc tội chủ nghĩa Á-Âu đã “thủ đắc
tính chất đầy dã tâm của một chính sách ngu dân”, mặt khác cũng phải thừa nhận
rằng quan điểm của Gumilëv “đang cố kết các dân tộc khác nhau về văn hóa trên
đất nước chúng ta”.
Mặc dầu vậy, trên bình diện chính trị,
phong trào Á-Âu mới cũng đối mặt với không ít chỉ trích. Những người phản đối
phong trào bình luận rằng: trong khi tự mô tả mình như một ý thức hệ quốc gia
canh tân khả dĩ thay thế cho cả chủ nghĩa bol’shevik (bolshevism) lẫn chủ nghĩa tự do (liberalism), lập trường Á-Âu đã tỏ ra mang màu sắc của
một chủ nghĩa biệt lập địa chính trị (a geopolitical isolationism)
trong bối cảnh toàn cầu hóa, mà một hệ luỵ của nó là cản trở quá trình dân chủ
hóa xã hội Nga theo hình mẫu Tây Âu, một quá trình những người ủng hộ chủ nghĩa
hướng Âu hy vọng là sẽ nhanh chóng khép kín “vành đai dân chủ Bắc bán cầu”: Bắc
Mỹ - Liên Âu (EU) - Liên bang Nga - Nhật Bản.
Để kết thúc thiên tiểu sử này về Lev
Gumilëv, có thể nói mặc dù còn có những khiếm khuyết, không thể phủ nhận rằng lý
thuyết nhân chủng sử của ông đã cung cấp một công cụ khả dĩ cho phép nhận thức
đầy đủ về lịch sử nước Nga trên nhiều phương diện của sự chuyển biến lịch sử:
dân tộc học, văn hóa, kinh tế, chính trị, v.v... Để thí dụ, từ lý thuyết của
Gumilëv, người ta dễ dàng thấu hiểu vì sao Liên bang Xô-viết đã sụp đổ vào
tháng Mười Hai năm 1991, điều mà nếu áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử marxist,
người ta phải nhận được một hệ quả ngược lại.
Lev Gumilëv được nhận định là “một trong
những sử gia Nga có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX.”
Tài liệu tham khảo chính:
·
Большая Советская
Энциклопедия, «БСЭ» (Đạitoànthư LiênXô).
·
Encyclopedia
Britannica 2005 Deluxe Edition CD.
·
Encarta Premium
Library 2005 DVD.
·
Энциклопедия
«Кругосвет» (Toàn thư trực tuyến Krugosvet).
·
Wikipedia - The Free
Encyclopedia, các nhánh tiếng Anh và tiếng Nga.
·
Lib.Ru/Современники: Солженицын Александр (tài
nguyên trực tuyến về A. I. Solzhenitsyn).
·
Lib.Ru/Классика: Горький Максим (tài nguyên trực tuyến về M. Gor’kii).
·
Gumilevica - гипотезы, теории, мировоззрение (tài nguyên trực tuyến về L. N.
Gumilev).
·
С. В. Кортунов,
«Евразийство: национальная идея или химера?», журнал «Золотой лев», № 77-78
(bài viết phê phán tư tưởng Á-Âu, đăng trên tạp chí Sư tử vàng).
_____________________
Chú thích:
[1] Về mặt lịch sử, trong tiếng Nga từ
‘интеллигенция’ (đọc [in-tel-ly-ghen-tsi-ĭa], hãy cứ tạm coi là tương đương với
“giới trí thức” của tiếng Việt) được cho là có các xuất xứ Latin ‘intelligentia’
(“sự thấu hiểu”, “năng lực nhận thức”, “tri thức”) và ‘intelligens’ (“thông
minh”, “duy lý”, “uyên thâm”). Ở Nga, nhiều tài liệu ghi nhận rằng
‘интеллигенция’ bắt đầu xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX. (Chẳng hạn, nó được
bắt gặp trong những cuốn nhật ký của nhà thơ Nga Vasiliĭ Zhukovskiĭ,
đề ngày tháng cho đến 1836.) Tuy nhiên, nó chỉ được đưa vào ngôn ngữ truyền
thông đại chúng từ thập niên 1860 bởi nhà văn và nhà báo Nga Pëtr Boborykin (1836-1921). Ở Ba Lan, version Ba Lan
của ‘интеллигенция’ là ‘inteligencja’ đã được triết gia Karol Libelt (1807-1875) phổ cập với ý nghĩa gần
gũi với ngày nay từ năm 1844. Từ Nga hoặc Ba Lan, khái niệm ‘интеллигенция’ /
‘inteligencja’ đã đi vào gần như tất cả các thứ tiếng châu Âu thuộc ngữ tộc
Ấn-Âu và nhiều ngôn ngữ khác, với vỏ ngữ âm tương đồng. (Để thí dụ, tiếng Đức
‘Intelligenzija’, tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha ‘intelligentsia’, tiếng Italia
‘intellighentsia’, tiếng Thụy Điển ‘intelligentia’ hoặc ‘intelligentsia’, tiếng
Nhật インテリ[interi], v.v...) Là một
thuật ngữ nhân tạo (không phải một đơn vị từ vựng sẵn có của ngôn ngữ tự
nhiên), nội hàm của ‘интеллигенция’ và các version của nó trong những ngôn ngữ
khác - chẳng hạn, ‘intelligentsia’ trong tiếng Anh - không đơn thuần phiếm chỉ
một nhóm xã hội bận bịu lao động trí óc do chuyên môn nghiệp vụ, bận bịu phát
triển và truyền bá văn hóa, mà còn ám chỉ những nhân cách khả dĩ được coi là
chuẩn mực đạo đức của xã hội. Chính tầng ý nghĩa thứ hai này của khái niệm
‘интеллигенция’ / ‘intelligentsia’ mới phiên diễn dụng ý của những người đã
sáng tạo ra thuật ngữ. Bản thân Boborykin, cha đỡ đầu của thuật ngữ, đã định
nghĩa ‘интеллигенция’ là “những con người có văn hóa tinh thần và đạo đức ở mức
cao, chứ không phải những lao công làm việc bằng trí óc.”
Nhu cầu xây dựng khái niệm vừa được mô tả (tóm tắt) dưới vỏ
bọc ngôn ngữ ‘интеллигенция’ gắn liền với hiện thực xã hội ở Nga và Ba Lan - và
ở một số nước Trung/Đông Âu - trong các thế kỷ XIX và XX. Khác với Tây Âu và
Bắc Mỹ, cho đến thế kỷ XIX, ở những quốc gia này các chế độ chuyên chế đã tồn
tại quá lâu, gắn liền với chúng là sự chà đạp ở cấp nhà nước đối với các quyền
con người, tình trạng thấp kém về giáo dục phổ cập, sự lạc hậu về văn hóa và sự
suy đồi về đạo đức. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của một giới tinh hoa được
giáo dục tốt trở nên một hiện tượng. Trong nội bộ giới này hình thành một hệ
thống giá trị chung và ý thức cảm thông lẫn nhau. Một bộ phận trong số họ bị
thôi thúc bởi tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia / dân tộc, trong đó có
niềm tin rằng sự tiến bộ của đất nước phụ thuộc chủ yếu vào tầm cấp văn hóa của
bản thân tập hợp ‘интеллигенция’. Thường thì lý tưởng này sẽ đẩy những đại biểu
ưu tú của tập hợp đến vị thế đối lập chính trị với giới cầm quyền. Trong khi
đó, ở những quốc gia phương Tây đã trải qua cách mạng công nghiệp, sự phát
triển của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, sự thừa nhận rộng rãi những
giá trị tiến bộ về văn hóa và đạo đức trong phạm vi toàn xã hội, thậm chí liên
xã hội, đã khiến cho những cá nhân theo đuổi những nghề nghiệp chuyên môn thuộc
về phạm trù “lao động lý trí” không trở thành một nhóm xã hội biệt lập như hiện
tượng đã được quan sát thấy ở Đông và Trung Âu. Để chỉ “những người làm việc
bằng trí óc” ở Tây Âu và Bắc Mỹ, người ta sử dụng những version bản địa của
thuật ngữ (tiếng Anh) ‘intellectuals’ (tiếng Nga ‘интеллектуалы’) mà không gắn
với bất cứ một giá trị văn hóa hay đạo đức riêng biệt nào ngoài những giá trị
đã được công nhận phổ quát. Đây là lý do chủ yếu khiến các từ điển và nguồn tra
cứu ở phương Tây thường phiên giải thuật ngữ ‘интеллигенция’ / ‘intelligentsia’
/... như là một khái niệm có đặc trưng Nga. Ở Việt Nam, cả ‘интеллигенция’
(tiếng Anh ‘intelligentsia’) lẫn ‘интеллектуалы’ (tiếng Anh ‘intellectuals’)
đều (thường) được đối dịch là “[giới] trí thức”.
[2] Aleksandr Isaevich Solzhenitsyn (sinh năm 1918): nhà văn Nga - đoạt
giải Nobel văn chương năm 1970 -, nhà bình luận chính trị và hoạt động xã hội,
nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng đối với chế độ Xô-viết. Xem tiểu sử chi tiết
về A. I. Solzhenitsyn trong “Phẩm tính trí thức (phụ lục)”.
[3] “Kỹ giả”: lựa chọn dịch thuật đối với
thuật ngữ tiếng Nga obrazovanets do
Solzhenitsyn sáng tạo, với căn tốobrazovan- (“được đào tạo”) và hậu tố -ets (“người”).
Trong các ngữ cảnh hiện nay có sử dụng từ này,obrazovanets mang
nghĩa xấu, phiếm chỉ người được đào tạo một cách ồ ạt từ các trường đại học -
nhất là đại học kỹ thuật - dưới chế độ Xô-viết, có kiến thức và kỹ năng chuyên
môn nhưng thiếu hụt nền tảng văn hóa.
[4] “Hội chứng tiền thuỳ”: tạm dịch thuật
ngữ tiếng Nga sindromy lobnoĭ psikhiki (tiếng Anh frontal lobe syndromes),
phiếm chỉ tập hợp các triệu chứng bệnh học tâm lý liên quan đến những tổn
thương ở thuỳ não trước (frontal lobe).
Những biểu hiện điển hình của hội chứng này là: suy giảm tâm lý chức năng (kém
trí nhớ, kém minh mẫn; xao lãng, mất tập trung; trùng lắp, rập khuôn trong phản
xạ; trì trệ, e dè, thậm chí mất khả năng chuyển hướng tư duy), rối loạn ngôn
ngữ (phát ngôn thiếu mạch lạc, vô nghĩa; ngôn ngữ không thích hợp về xã hội hoặc
mất phản xạ có điều kiện về ngôn ngữ; có thể thích tán phét, bông lơn nhạt
nhẽo), rối loạn hành vi (hành động bộp chộp thiếu kiểm soát, vô mục đích, thiếu
óc phê phán; thô lỗ, trơ trẽn, vô liêm sỉ; có thể hung bạo, dâm đãng, dơ dáy
bẩn thỉu). (Theo Psychopathology of Frontal Lobe Syndromes, www.ect.org)
[5] Meĭerovets: thuật ngữ trong nguyên bản, chỉ “người
theo [học phái] Meĭer”.
[6] “Vụ Hàn lâm viện” (tiếng Nga Akademicheskoe delo):
vụ án chính trị lớn ở Liên Xô cũ thời kỳ 1929-1931, được biết là do cơ quan an
ninh Liên Xô dàn dựng nhằm loại bỏ một loạt các trí thức đối lập với chính
quyền ra khỏi cơ cấu của Viện Hàn lâm Khoa học và một số cơ quan / tổ chức khoa
học và văn hóa trong giai đoạn đầu của chế độ Xô-viết. Trong vụ án này, từ
tháng 12 năm 1929 đến tháng 12 năm 1930, hơn 100 người đã bị bắt, phần lớn là
các chuyên gia trong lĩnh vực các khoa học nhân văn, đặc biệt là sử học; bao
gồm một số viện sĩ, các cán bộ của Viện Hàn lâm và một số cơ quan trực thuộc
Viện Hàn lâm như Nhà Pushkin, Bảo tàng Nga, Viện Lưu trữ Trung ương, Bảo tàng Á
châu; v.v... Những người can án đã bị buộc tội tham gia thành lập tổ chức phản
cách mạng có tên gọi “Liên minh toàn dân tộc đấu tranh khôi phục nước Nga tự
do”, bị kết án (vào tháng 8 năm 1931) tù và lưu đày với những thời hạn khác
nhau. Nhiều người trong số này sau đó đã bị bắn hoặc chết ở nơi lưu đày. (TheoĖntsiklopediĭa Sankt-Peterburga.)
[7] Solovki hay đầy đủ hơn, Solovetskie ostrova:
quần đảo nằm trong biển Trắng thông thủy với Bắc Băng dương. Về mặt địa - hành
chính, nhóm đảo này thuộc địa phận vùng Arkhangel’skaĭa ở tây-bắc lãnh thổ Liên
bang Nga. Trên hòn đảo lớn nhất của quần đảo này - đảo Solovetskiĭ -, có tu
viện Solovetskiĭ được thành lập từ năm 1436, một trong những tu viện Ki-tô giáo
lớn nhất thế giới. Ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga (1917), theo một sắc lệnh
của Lenin, tu viện Solovetskiĭ bị biến thành “Trại giam đặc biệt Solovki” (tiếng
Nga Solovetskiĭ lager’ osobogo naznacheniĭa - SLON), một nguyên mẫu của hệ thống nhà tù GULAG sau đó ở Liên Xô. Theo nhiều tài liệu,
trong vòng hơn hai mươi năm - từ 1917 cho đến trước Chiến tranh thế giới thứ
Hai -, tổng số người bị giam cầm và cưỡng bức lao động ở Solovki đã lên đến
hàng trăm nghìn, tuyệt đại đa số là tù nhân chính trị, bao gồm đủ các thành
phần: sĩ quan bạch vệ, quý tộc / quan lại của chế độ tsarist, người vô
chính phủ, đảng viên xã hội - cách mạng (esery), người men’shevik, người
tu hành, nông dân, đảng viên cộng sản, cán bộ của Quốc tế cộng sản, văn nghệ
sĩ, nhà khoa học, thậm chí cả nhân viên an ninh của chính quyền Xô-viết. Hàng
chục nghìn người trong số này đã chết trong thời gian thụ án bởi các nguyên
nhân: bị bắn không xét xử, bị trừng phạt bằng nhục hình, kiệt sức vì đói và lao
động quá sức, nhiễm bệnh không được cứu chữa, v.v... Bản thân tác giả Likhachëv
đã từng là một tù nhân Solovki. Sau khi Liên Xô tan rã, Giáo hội Chính thống
Nga đã cho tái lập tu viện Solovetskiĭ vào năm 1992. Cùng năm đó, quần thể di
tích ở đây được UNESCO đưa vào ‘Danh sách di sản thế giới’. (Theo Solovki ėntsiklopediĭa và nhiều tài liệu khác.)
[8] G. M. Osorgin, Pokrovskiĭ, G. G. Taĭbalin:
những tấm gương trí thức, là những bạn tù của tác giả ở Solovki(xem chú
thích [7]). Những nhân cách này cũng được D. S. Likhachëv mô tả trong tập Hồi ký (Vospominaniĭa) của
mình.
[9] Staraĭa Bukhara:
địa danh theo tiếng Nga của Buxoro (đọc
như [bu-kho-ro]), một trong những đô thị cổ nhất ở vùng Trung Á hiện thuộc chủ
quyền của Uzbekistan .
Những chứng tích khảo cổ cho thấy rằng ngay từ giữa thời kỳ đồ đồng (~3000
trước CN), Buxoro đã là một ốc đảo phồn thịnh. Tuy nhiên, thành phố được cho là
chính thức thành lập vào năm 500 trước CN, khi đã có vài khu định cư với tường
rào bao quanh được xây dựng. Thời kỳ cổ đại và trung đại, Buxoro là một trong
những trung tâm của nền văn minh Persia (Ba Tư), và là trung tâm khai sáng ở
phương Đông với nền giáo dục và khoa học hết sức phát triển. Từ 1500 đến 1920,
Bukhara/Buxoro từng là kinh đô của ‘hãn quốc Bukhara ’
(tiếng Nga Bukharskoe khanstvo, tiếng Anh Khanate of Bukhara ,
1500-1785), sau đó là kinh đô của ‘tiểu vương quốc Bukhara ’
(tiếng Nga Bukharskiĭ ėmirat, tiếng Anh Emirate of Bukhara , 1785-1920). Hãn quốc /
tiểu vương quốc Bukhara là những thiết chế địa
chính trị lịch sử, có lãnh thổ bao trùm lên một phần của Uzbekistan và hầu như toàn bộ Tajikistan ngày
nay. Vào năm 1868, tiểu vương quốc Bukhara bị
Nga thôn tính một phần (trong phần bị thôn tính có thành phố cổ Samarkand ), phần còn lại
chịu quy chế ‘lãnh thổ bảo hộ’ (protectorate) của đế
quốc Nga. Tháng 9-1920, sau khi tiểu vương Bukhara từ chối đáp ứng những đòi
hỏi xâm phạm chủ quyền tiểu vương quốc của phía Nga, Hồng quân Xô-viết đã tấn
công chiếm đóng Bukhara, phế truất tiểu vương và thành lập nhà nước ‘Cộng hòa
Xô-viết Nhân dân Bukhara’ (tiếng Nga Bukharskaĭa narodnaĭa sovetskaĭa respublika, - BNSR) do một người
bol’shevik gốc Uzbek (Faĭzulla Khodzhaev)
đứng đầu. Vào thời điểm này, BNSR có diện tích 182.193 km2 (bằng non hai
phần ba diện tích Việt Nam )
và dân số trên 2,2 triệu người - gồm đại đa số là người Tajik (sắc tộc nói
tiếng Iran
và thuộc về nền văn hóa Ba Tư). Tháng 9 năm 1924, BNSR đổi tên thành ‘Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Bukhara’ (Bukharskaĭa SSR) và
gia nhập Liên bang Xô-viết với quy chế ‘nước cộng hòa trực thuộc liên bang’ (soĭuznaĭa respublika). Tháng 2.1925, Bukharskaĭa SSR bị giải thể, lãnh thổ của nó bị chia
cắt và sáp nhập vào các lãnh thổ cộng hòa vùng Trung Á của Liên Xô (sredneaziatskie soĭuznye respubliki) - bao gồm (theo
tiếng Nga) Uzbekskaĭa SSR (Uzbekistan hiện nay), Tadzhikskaĭa SSR(Tajikistan hiện nay), Turkmenskaĭa SSR (Turkmenistan
hiện nay) và Kazakhskaĭa SSR (Kazakhstan hiện
nay). Bộ phận lớn nhất của sự chia cắt này, trong đó có hai thành phố
Bukhara/Buxoro và Samarkand/Samarqand của người Tajik, bị giao cho Uzbekskaĭa SSR - lãnh thổ do người Uzbek (có ngôn ngữ
và văn hóa Turkic) chiếm đa số. Như vậy, tiểu vương quốc Bukhara lịch sử, từng có
địa vị pháp lý của một quốc gia có chủ quyền trong hơn bốn thế kỷ, đã bị xóa
tên vĩnh viễn trên bản đồ chính trị thế giới. Vị tiểu vương (emir) cuối cùng của Bukhara ,Mohammed Alim Khan (1880-1944), được biết là hậu duệ trực
tiếp của Genghis Khan. Ngày nay, ‘Staraĭa Bukhara’ hay Buxoro
là thủ phủ của Buxoro viloyati (“tỉnh
Buxoro”), một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương của Uzbekistan - quốc gia
độc lập xuất hiện từ sau sự sụp đổ của Liên Xô tháng 12 năm 1991. Được coi là
một “bảo tàng sống” về nền văn minh Ba Tư cổ/trung đại, Buxoro có tên trong
‘Danh sách di sản thế giới’ (World Heritage List)
của UNESCO.
[10] “Lao hiệu”: lựa chọn dịch thuật đối
với từ ghép rabfak, nguyên là phương án rút gọn của từ tổ rabochiĭ fakul’tet,
chỉ phân hiệu dành cho người lao động được chính quyền Xô-viết thành lập trong
các trường đại học và cao đẳng tiếp quản từ chế độ cũ. Theo một sắc luật được
Hội đồng dân ủy (tức chính phủ) Cộng hòa Xô-viết Nga ban hành tháng 8.1918,
người lao động “có quyền vào học các trường đại học mà không cần có chứng chỉ
tốt nghiệp trung học phổ thông”. Các “lao hiệu” (tồn tại từ 1919 đến nửa cuối
thập niên 1930) có nhiệm vụ “đào tạo dự bị trong thời hạn ngắn nhất” để các học
viên công nông “chưa có cơ hội thụ hưởng giáo dục phổ thông đúng lúc” có thể
tiếp thu các giáo trình ở bậc đại học. Theo thống kê, vào năm học 1925/26 những
người tốt nghiệp các “lao hiệu” đã được nhận khoảng 40% chỗ nhập học ở các
trường đại học. Cho đến năm học 1932/33, đã có trên một nghìn “lao hiệu” hoạt
động, với khoảng 350 nghìn người theo học. (Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’.)
[11] “Hai chiếc tàu thủy Preußen và Oberbürgermeister Hagen”: nói về vụ trục xuất lần đầu
tiên những trí thức khác chính kiến ra khỏi lãnh thổ Liên Xô theo quyết định
của Lenin. Hai chuyến tàu Oberbürgermeister Hagen (“Thị trưởng Hagen”, cuối tháng 9 năm
1922) và Preußen (“Nước
Phổ”, giữa tháng 10.1922) đều xuất phát từ Petrograd và đi đến Stettin (cảng
biển Baltic, lúc đó thuộc đế quốc Đức-Phổ, nay là cảng Szczecin thuộc chủ quyền
Ba Lan), đã đem đi khoảng 160 nhà hoạt động khoa học và văn hóa. Đây là cũng là
đợt trục xuất có số lượng người phải ra đi lớn nhất, trong đó có nhiều nhà
triết học lỗi lạc, đến nỗi trong văn học sau này, hai chiếc tàu thủy nói trên
đã được gọi một cách bóng bảy là “những con tàu triết học”. Việc trục xuất như
một biện pháp trấn áp những trí thức khác chính kiến sau đó còn được chính
quyền Liên Xô sử dụng nhiều lần trong suốt lịch sử tồn tại của thiết chế này.
(Theo Ėntsiklopediĭa «Krugosvet» và một số tài liệu khác.)
[12] Vladimir Monomakh, tức Vladimir II Vsevolodovich
Monomakh (1053-1125):
nhà hoạt động nhà nước, nhà chỉ huy quân sự, nhà tư tưởng chính trị và nhà văn
Đông Slav thời trung đại, đại quận công (velikiĭ knĭaz’, xem
chú thích [38]) Kiev từ 1113 đến 1125, con trai của ‘quận công Kiev và toàn Nga
La Tư’ Vsevolod Ĭaroslavich và
cháu ngoại (với một chút nghi vấn về sử liệu) của hoàng đế Byzantium Kōnstantinos IX Monomakhos.
Trước năm 1113, khi còn chưa nắm vương quyền ở Kiev, Vladimir Monomakh đã lập
nhiều công trạng về chính trị và quân sự (bằng cả vũ lực lẫn thương thuyết)
trong việc chấm dứt cảnh huynh đệ tương tàn giữa các lãnh chúa phong kiến Đông
Slav, tập trung lực lượng đánh đuổi người Kypchak -
một sắc tộc du mục trung cổ nói tiếng Turkic, từng sinh sống trên những thảo nguyên steppe giữa Kazakhstan và Nam Sibir’ ngày nay
- nhằm giải phóng (hoặc mở rộng) đất đai ‘Nga La Tư’ (xem chú thích [13]). Sau
cái chết của quận công Kiev Svĭatopolk Izĭaslavich (1113), một cuộc nổi dậy của dân chúng
nổ ra, tầng lớp trên của xã hội Kiev đã yêu cầu Vladimir Monomakh lên nắm vương
quyền. Trở thành đại quận công Kiev ,
Vladimir Monomakh đã đàn áp cuộc nổi dậy, song cũng điều chỉnh một số luật lệ
để xoa dịu tầng lớp dưới. Ông được biết đến như một nhà văn chủ yếu nhờ tác
phẩm Pouchenie (Huấn
ca), được ca ngợi là “một tượng đài chói lọi của cổ văn Nga” (Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’), có nội dung kể lại những
chiến dịch quân sự mà ông cùng với các lãnh chúa lớn đã tiến hành nhằm khuất
phục các lãnh chúa nhỏ hơn, chỉ giáo các công tử vương tôn về nghệ thuật triều
chính, răn dạy các con em thứ dân về bổn phận công dân và bề tôi, v.v... Sau
khi Vladimir Monomakh qua đời (1125), Đông Slav đã rơi trở lại vào cảnh ly loạn.
[13] “Nga
La Tư”: lựa chọn dịch thuật đối với danh từ riêng Rus’ (Русь). Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’,
trong cách dùng phổ biến, danh xưng Rus’ tương
ứng với cộng đồng chủng tộc / ngôn ngữ / lãnh thổ của các cư dân Đông Slav cho
đến trước thế kỷ XVI. Từ giữa thế kỷ XVI, sau khi đại quận công Moskva Ivan IV Vasil’evich (tứcIvan “Groznyĭ”, xem chú
thích [17]) tự tấn phong ngôi tsar’ (‘quốc
vương’ hay ‘sa hoàng’, 1547), danh xưng Rossiĭa(Россия) bắt đầu được sử dụng thay cho Rus’ để gọi tập hợp các vùng đất nằm trong
thành phần của nhà nước trung ương tập quyền đóng đô ở Moskva hoặc (trong những
giai đoạn 1712-1728 và 1732-1918) Saint-Peterburg, tương ứng với các thuật ngữ
địa chính trị - pháp lý Russkoe (hay Rossiĭskoe)Tsarstvo (Vương
quốc Nga, 1547-1721), Rossiĭskaĭa Imperiĭa (Đế
quốc Nga, 1721-1917), Rossiĭskaĭa Sovetskaĭa Federativnaĭa Sotsialisticheskaĭa
Respublika (RSFSR -
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên hiệp Xô-viết Nga, 1917-1991), và Rossiĭskaĭa Federatsiĭa(RF -
Liên bang Nga, từ 1991). “Nga La Tư” là cách đọc Hán-Việt của phiên pháp quan
thoại É-luó-sī (Hán
tự “俄罗斯”), nguyên tương ứng với cả Rus’ và Rossiĭa. Tuy nhiên, trong bản dịch này, người dịch lựa
chọn cách dịch phân biệt:Rus’ --> “Nga La Tư” / “nước Nga trung
cổ (hoặc trung đại)” / “Đông Slav”; còn Rossiĭa -->
“nước Nga” hoặc “Nga”.
[14] Maksim Grek (tiếng
Nga ‘Максим Грек’, tiếng Hy Lạp ‘Μάξιμος ο Γραικός’ [Máximos o Graikós], tiếng
AnhMaximus the Greek hoặc Maksim Grek, vào
khoảng 1475-1556): học giả, nhà chính luận, nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học
và nhà hoạt động nhân văn người Đông Slav gốc Hy Lạp. Xuất thân quý tộc tại
thành phố cổ Arta ở
tây bắc Hy Lạp, một thời gian dài thời trẻ Maksim Grek được thụ huấn về ngôn
ngữ cổ, triết học và lễ nghi tôn giáo ở Italia. Tại đây, ông đã quen biết học
giả và nhà in sách Aldus Manutius (xem
chú thích [15]), nhà Hy Lạp học Constantine Lascaris (một
trong những thầy dạy sau này của ông) cùng nhiều nhân vật lỗi lạc của thời Phục
Hưng; ông cũng đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi những bài thuyết pháp của linh mục
dòng Dominic và nhà cải cáchGirolamo Savonarola.
Trở về Hy Lạp (1507), Maksim Grek đã tuyên thệ xuất gia tại tu viện Vatopedi trên núi Athos(đông bắc Hy
Lạp). Ông tu hành ở đây khoảng mười năm, cho đến khi đức cha tu viện trưởng
nhận được đề nghị (vào 1515 hoặc 1518) của đại quận công Moskva Vasiliĭ III Ivanovich về việc cử tới Moskva một thầy tu để
giúp biên dịch một số tài liệu tôn giáo sang ngôn ngữ điển lễ Slav. Vì lẽ vị tu
sĩ mà Vasiliĭ III mời đích danh đã quá già, cha tu viện
trưởng bèn quyết định cử Maksim Grek trẻ trung và năng nổ thay thế, kèm theo lời
bảo đảm về năng lực. Ở Moskva, ông đã tham gia nhóm dịch thuật cùng một số đồng
nghiệp Đông Slav, chỉnh lý những tài liệu tế lễ và thành lập thư viện của vương
gia. Trong thời gian ‘công khóa Moskva’ này, Maksim Grek đã quan sát thấy những
thối nát và bất công trong xã hội Nga La Tư - hoàn toàn trái ngược với các lý
tưởng Ki-tô giáo. Là người có học vấn rộng trong thời đại của mình, Maksim Grek
đã tập hợp quanh mình những người có cùng quan điểm, thảo luận rốt ráo không
chỉ những vấn đề lý luận tôn giáo, mà cả chính sách đối nội và đối ngoại của
vương triều. Ông chỉ trích gay gắt sinh hoạt của giới tăng lữ Nga La Tư, phản
đối sự chiếm hữu đất đai và làm giàu bất chính của nhà chung, lên án sự bóc lột
nông dân của các lãnh chúa khoác áo tu hành, đòi bãi bỏ chế độ phục dịch các
quan chức địa phương gọi là kormlenie (“chăm
nuôi”) - một kiểu thuế hiện vật tuỳ tiện và dã man. Những hoạt động này đã
khiến Maksim Grek bị thất sủng bởi cả triều đình lẫn giáo hội Moskva đương
thời. Một sobor (nghị
hội giám mục) năm 1525 đã khép ông vào các tội danh “bất phục tùng” (nonconformism) và “dị giáo” (heresy). Ông bị đầy vào tu viện Iosifo-Volokolamskiĭ (đông-bắc Moskva), bị giam trong hầm
tối và cấm giao tiếp với bên ngoài. Sáu năm sau, một sobor khác (1531) tiếp tục cấm Maksim Grek
được hưởng phép ‘đoàn khế’ (hay phép ‘hiệp thông’, communion) và phát
vãng ông đến tu viện Otroch ở
Tver’: ông bị lưu đày ở đây thêm 20 năm (hoặc 22 năm, theo một số account
khác). Mọi nỗ lực thương lượng của các đại giáo chủ (xem chú thích [27]) ở Antioch ,Constantinople và Jerusalem với nhà đương cục Moskva nhằm đạt được
sự phóng thích Maksim Grek đều vô hiệu. Ông đã tự mình thỉnh cầu tsar’ Ivan IV “Groznyĭ” (xem chú thích [17]) và tổng giám mục
Nga La Tư Makariĭtrả tự do cho ông. Cuối cùng, triều đình Moskva
đã miễn cưỡng thả Maksim Grek vào năm 1551 (hoặc 1553, theo một số account).
Ông sống những năm còn lại của đời mình trong đại chủng viện (lavra) Troitsko-Sergievskaĭa, trung tâm tinh thần quan trọng
nhất của Chính thống giáo Nga, ở Sergiev Posad (đông bắc Moskva 90 km). Maksim
Grek đã để lại một di sản văn học to lớn, với trên 150 tiêu đề, bao gồm những
bài thuyết pháp, bài báo chính luận, luận văn triết học và thần học, công trình
dịch thuật, v.v... Trong quá trình biên dịch những trước tác về ngôn ngữ học
của Byzantium sang tiếng Nga La Tư, Maksim Grek đã viết nhiều chuyên khảo về
ngữ âm và ngữ pháp tiếng Hy Lạp và tiếng Slav mà tác giả của chúng được giới
nghiên cứu sau này thừa nhận là một chuyên gia kiệt xuất trong lĩnh vực này.
(Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’ và Wikipedia.)
[15] Aldo Manuzio (Latin version Aldus Manutius,
tiếng Nga ‘Альд Мануций’ [Al’d Manutsiĭ], 1449/50-1515): chủ nhà in và học giả
người Italia. Là người được đào tạo tốt và có học vấn uyên bác, đặc biệt là về
ngôn ngữ / văn hóa Latin và Hy Lạp, Aldo Manuzio sớm nuôi tham vọng bảo vệ các
kiệt tác của Hy Lạp và La Mã cổ đại khỏi sự mai một. Được một thân vương trợ
giúp tài chính và đất đai để khởi đầu sự nghiệp, Manuzio đã sáng lập nhà in
“Aldus” (tiếng Anh Aldine Press) nổi tiếng trong lịch sử ngành in, nơi đã
in ra những “ấn phẩm Aldus” (Aldine editions) trứ
danh của văn học Hy-La: tác phẩm của các tác giả cổ điển như Virgil, Xenophon,
Homer, Euripides, Plutarch, Aristotle, Plato, Sophocles, Erasmus, Horace,
Dante, v.v... do Aldus xuất bản, nổi bật bởi vẻ đẹp ấn loát, sự chính xác học
thuật và giá thành thấp. Để làm được như vậy, Manuzio đã thuê những học giả
danh tiếng làm biên tập, sắp chữ và hiệu đính bản in thử. Ông được cho là người
đã sáng tạo ra các kiểu chữ italic và smallcapital, dấu semicolon “;”, và khổ sách octavo. Aldo
Manuzio và nhà in Aldus của ông được coi là đã tạo ra một cuộc cách mạng về phổ
biến văn hóa, góp phần vào việc hiện đại hóa châu Âu. (Theo Encyclopedia Britannica 2005
Deluxe Edition CD, Encarta Premium Library 2005 DVD và những tài liệu khác.
[16] Andreĭ Mikhaĭlovich Kurbskiĭ (1528-1583): quận công (knĭaz’), nhà hoạt động chính trị và nhà chỉ huy quân
sự Nga danh tiếng thời cận đại (dưới triều tsar’ Ivan IV “Groznyĭ”, xem chú thích [17]), nhà văn. Andreĭ
Kurbskiĭ xuất thân từ chi nhánh Smolensk-Ĭaroslavl’ của tôn thất Rĭurikovich (xem chú thích [37]). Ngay từ khi còn
rất trẻ, ông đã nổi danh bởi tinh thần dũng cảm và những võ công trận mạc.
Trong giai đoạn đầu trị vì của Ivan IV, Kurbskiĭ đã từng phò tá đắc lực vị tsar’ đầu tiên của nước Nga, được tsar’ sắc phong hàm boĭarin - phẩm trật cao nhất của hệ thống quan
tước phong kiến Nga (và Đông Âu) thời trung/cận đại -, trở thành thành viên của
“Tinh tuyển viện” (Izbrannaĭa rada) -
tập thể cố vấn thân cận nhất của Ivan IV. Khi Ivan IV phát động cuộc chiến tranh Nga-Livonia(1558-1582)
với mục tiêu khai thông cửa ngõ chiến lược ra biển Baltic (Livonia là miền đất lịch sử tương ứng với lãnh
thổ của các quốc giaEstonia và Latvia ngày nay), quân đội do Kurbskiĭ chỉ
huy đã lập công đầu trong việc làm thất thủ pháo đài Tartu (1558). Tuy nhiên, sau những thắng lợi
quân sự ban đầu của Moskva, cuộc chiến tranh nhanh chóng phát triển thành xung
đột giữa Nga và liên minh Litva - Ba Lan - Thụy Điển - Đan Mạch, những quốc gia
sẵn có nhiều ảnh hưởng và lợi ích ở Livonia. Đương lúc ở trong nước, các đại
thần vốn là thân hữu của Ivan IV và đồng liêu của Kurbskiĭ trong Tinh tuyển
viện bắt đầu bị thất sủng, mất quyền hành khiển triều chính; đồng đảng của họ
một số bị bắt và hành hình, một số đào tẩu sang Litva để thoát tầm truy nã.
Trong khi đó, Kurbskiĭ nhận được thư chiêu an của quốc vương Ba Lan kiêm đại
công tước Litva Zygmunt II August với
những hứa hẹn hậu đãi. Sau một số đòi hỏi đãi ngộ không được Ivan IV đáp ứng,
ngày 30.4.1564, Andreĭ Kurbskiĭ - đương chức tư lệnh quân đoàn phía Tây - đã
quyết định đào nhiệm, đem theo tuỳ tùng và gia nhân bỏ chạy sang Litva, với lý
do “để trốn tránh sự đàn áp” (của Ivan IV). Kurbskiĭ đã khai báo cho phía Ba
Lan - Litva danh sách các nhân viên đặc vụ của Ivan IV ở Livonia, rồi, vào
tháng Chín cùng năm, đã dẫn quân đội Ba Lan - Litva tấn công và tàn phá vùng Velikie Luki của
nước Nga. Để trả thù sự phản bội của Kurbskiĭ, Ivan IV đã cho quân cướp bóc
trang ấp, giết mẹ, vợ, con trai, em trai của vị cựu boĭarin và nhiều người khác ở Ĭaroslavl’. Quốc
vương Ba Lan - Litva đã cấp cho Kurbskiĭ một số điền trang và cả thành phố Kovel (thuộc vùng Volyn’ của Ukraina ngày nay). Ở đấy, Kurbskiĭ
sống những năm còn lại của đời mình trong thanh bình, giữ gìn đức tin Chính
thống giáo (người Ba Lan và Litva theo Ki-tô giáo Catholic), tái hôn hai lần và
có một con trai - Dmitriĭ Kurbskiĭ - với người vợ thứ ba. Sau khi Kurbskiĭ chết
(1583), chính quyền Ba Lan - Litva đã thu hồi hầu hết các điền sản đã cấp cho
Kurbskiĭ, chỉ để lại cho Dmitriĭ một phần nhỏ. Người con này của Kurbskiĭ về
sau đã cải đạo sang Catholicism. Là một học giả thông tuệ, giỏi ngoại ngữ và có
tài viết văn, Kurbskiĭ là tác giả của cuốn pamphlet1 Truyện về đại quận công xứ Moskva(Istoriĭa o velikom knĭaze moskovskom) kể về những tội
ác của Ivan Groznyĭ, và nổi tiếng với những bức thư đầy lời lẽ chua cay gửi cho
vị tsar’ này
- những văn phẩm mà ngày nay còn có ý nghĩa như một nguồn sử liệu độc đáo. Mặt
khác, bên cạnh những phẩm chất đã khiến ông quay lưng lại với Ivan IV, Kurbskiĭ
còn là một lãnh chúa khắt khe, đến nỗi nông nô của ông đã từng nổi loạn giết
chết viên quản gia của ông. (Theo Wikipedia, nhánh tiếng Nga.)
[17] Ivan (hoặc Ioann)IV Vasil’evich Rĭurikovich (1530-1584): đại quận công của Moskva
và toàn Nga La Tư (velikiĭ knĭaz’ Moskovskiĭ i
vseĭa Rusi, 1533-1547), sa hoàng (đầu tiên) của toàn Nga La Tư (tsar’ vseĭa Rusi, 1547-1584), một trong những nhà
chính trị có ảnh hưởng nhất của lịch sử Nga thời trung-cận đại, nổi tiếng trong
sử sách truyền thống Nga với danh hiệu Ivan Groznyĭ (“Ivan
Đáng Gờm”). Ivan IV là người đã chấm dứt giai đoạn phân quyền của chế độ phong
kiến ở nước Nga trung đại, thâu tóm quyền lực chính trị vốn bị chia xẻ giữa các
tập đoàn boyar (“đại
quý tộc”) trên lãnh thổ Đông Slav vào tay triều đình Moskva, và là người đầu
tiên trong các quân vương Nga chính thức xưng tsar’ (thường
được dịch sang tiếng Việt qua phiên pháp Hán Việt “sa hoàng”), tước hiệu được
coi là ngang hàng với król /könig /king /roi /... của các quốc gia phong kiến khác
ở Tây Âu đương thời. (Trước đó, ông chỉ là một velikiĭ knĭaz’ - “đại lãnh vương” hay “đại quận công”
-, thực tế chỉ ngang hàng với các lãnh chúa phong kiến khác cát cứ trên lãnh
thổ Nga La Tư). Thời kỳ trị vì của tsar’ Ivan
IV được đánh dấu bởi võ công chinh phạt và sáp nhập hai hãn quốcKazan’ (1552)
và Astrakhan’ (1556)
của người Tatar ở
lưu vực sông Volga vào Nga La Tư - điều đã biến vương quốc Nga lần đầu tiên trở
thành một đế quốc đa sắc tộc và đa tôn giáo / văn hóa -, bắt đầu chinh phụcSibir’ -
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào đã giúp Nga trở nên một cường quốc sau
này. Tuy nhiên, Ivan IV cũng để mất một số lượng lớn đất đai phía Tây, bất lực
trước địch họa Krym từ
phía Nam, trong khi lại dấn sâu vào các hoạt động trấn áp / tàn sát nội bộ, gây
nên những chấn thương đầy kịch tính trong xã hội Nga, đẩy một trong các trọng
thần và thân hữu tài giỏi là Andreĭ Kurbskiĭ chạy
sang địch quốc (xem chú thích [16]). Cuối đời, trong một lần nóng nảy không
kiềm chế, tsar’ Ivan IV đã đánh truỵ thai vợ của hoàng tử
kế vị có cùng tên Ivan vì cho rằng người con dâu ăn mặc không đứng đắn. Khi
Ivan con đến gặp vua cha sau sự cố này, Ivan IV đã giận dữ ném cây quyền trượng
đầu bịt sắt trúng thái dương của thái tử, khiến người con trai thình lình tử
vong (1581). Tai nạn thảm khốc này đã khiến Ivan IV trở thành vị quân vương áp
chót của nhàRĭurikovich (xem chú thích [37]). Người thừa kế
ngai vàng sau khi Ivan IV qua đời (1584) - Fëdor I Ioannovich -
là một kẻ thiểu năng trì độn. Chết năm 1598 trong tình trạng không con cái và
thân thích đồng tông, Fëdor I đã
đánh dấu điểm cuối cùng trên cây phả hệ của tôn tộc Rĭurikovichi, mở
đường cho nhà Romanovy lên
chấp chính vào năm 1613. Ivan IV đi vào lịch sử không hẳn chỉ như một bạo chúa.
Ở trong số những người có học thức nhất đương thời, ông là một người có trí nhớ
phi thường, một nhà hùng biện, một học giả thần học uyên bác và một tác gia -
soạn giả của một bản nhạc và trích giảng thánh kinh cho Ngày i-côn Thánh Mẫu
Vladimir, một khúc ca-nông cho Thiên sứ trưởng Mikhail, cùng một số lượng lớn
thư từ (trong đó có những bức thư gửi Kurbskiĭ, xem chú thích [16]). Sa hoàng
đầu tiên từng là sở hữu chủ của một thư viện lớn nhất châu Âu, là người đã ra
lệnh mở ở Moskva xưởng in sách đầu tiên, và xây dựng trên quảng trường Đỏ thánh
đường Vasiliĭ Blazhennyĭ (“Vasiliĭ Thánh thiêng”) - một trong những
biểu tượng kiến trúc của nước Nga vẫn còn đến ngày nay. (Theo Wikipedia, nhánh
tiếng Nga.)
[18] Pëtr I Alekseevich Romanov, hay Pëtr Velikiĭ (“Pëtr
Vĩ Đại”, 1672-1725): quốc vương (hay sa hoàng) Nga La Tư (Russkiĭ tsar’, từ 1682) và sau đó, hoàng đế (imperator) đầu tiên của Đế quốc Nga (Rossiskaĭa Imperiĭa, từ 1721), người được coi là gắn
liền với công cuộc Tây Âu hóa nước Nga bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ
XVIII, đưa Nga từ một vương quốc chậm phát triển thời trung-cận đại trở thành
một trong những cường quốc đế quốc chủ yếu ở châu Âu và thế giới. Sự kiện nổi
tiếng và độc đáo trong thời trị vì của Pëtr I và cả trong lịch sử Nga là “Đại
đại-sứ-đoàn” (tiếng Nga Velikoe posol’stvo, tiếng Anh Grand Embassy) -
cuộc viếng thăm châu Âu của một phái đoàn ngoại giao lớn của triều đình Moskva
đông đến 250 người từ tháng 3.1697 đến tháng 8.1698, trong đó đích thân tsar’ Pëtr I (khi đó 25 tuổi) đã vi hành
trong thành phần của sứ đoàn dưới danh nghĩa sĩ quan cận vệ Pëtr Mikhaĭlov. Lần
đầu tiên, trong một chuyến viễn du hải ngoại kéo dài 18 tháng, tsar’ của nước Nga đã tận mắt chứng kiến sự
thịnh vượng về kinh tế và sự cởi mở về xã hội của Tây Âu, đối lập với một nước
Nga tuy rộng bao la về đất đai nhưng lại đắm chìm trong cảnh lạc hậu và bảo
thủ, làm chỉ vừa đủ ăn, giẫm chân ở tình trạng trung cổ trong sự cô lập với thế
giới bên ngoài. Pëtr nhận ra một phần trong những nguyên nhân quan trọng của sự
khác biệt đó: sự thiếu vắng của thương mại, kỹ nghệ và hàng hải ở nước Nga.
Trong thời gian “Đại đại-sứ-đoàn”, Pëtr I đã tuyển mộ được khoảng 800 chuyên
gia người Tây Âu - phần lớn trong số này là người Hà Lan, bao gồm thợ lành
nghề, thầy thuốc, quân nhân, v.v... - theo ông đến nước Nga để đào tạo người
Nga và giúp ông chấn hưng đất nước. Những cải cách của Pëtr theo hướng Tây
phương hóa, ở chung cuộc, đã biến đổi mạnh mẽ nước Nga trung cổ trên nhiều lĩnh
vực: từ chính trị - hành chính, văn hóa - xã hội đến kinh tế và sức mạnh quân
sự. Dưới thời Pëtr I, cương giới nước Nga đã được mở rộng chưa từng thấy. Đặc
biệt, Pëtr đã thực hiện được khát vọng của nhiều đời quân vương Nga La Tư là
khai thông cửa ngõ lãnh thổ ra biển Đen / Địa Trung hải và biển Baltic. Trên
phần lãnh thổ viễn bắc giành được từ tay đế quốc Thụy Điển, Pëtr đã thành lập
(1703) và kiến thiếtSankt-Peterburg (“thành phố Thánh Peter”) theo phong
cách baroque thời
Hậu Phục hưng, rồi đổi kinh đô của đế quốc Nga từ Moskva sang thành phố này
(1712) để khẳng định ý chí hướng về châu Âu / thế giới phương Tây và hiện đại
hóa nước Nga. Pëtr I được coi là người sáng lập hải quân và ngành hàng hải Nga,
và là người đặt nền móng cho Viện Hàn lâm Nga. Tuy nhiên, động cơ nguyên thủy
trong mọi cải cách của Pëtr I là tăng cường tiềm lực quân sự để thực hiện tham
vọng bành trướng lãnh thổ, vì vậy những chính sách cải tổ nhìn chung đều được
ban hành dưới áp lực của những cuộc chiến tranh được Pëtr phát động triền miên
trong suốt cuộc đời cai trị của ông - khoảng chừng bốn thập niên. Là người có
học vấn chỉ đủ biết đọc biết viết, Pëtr I thực hiện ý chí “đại tu” nước Nga của
mình bằng những giải pháp tình thế ‘ad hoc’, mang nặng dấu ấn của nhiệt huyết
hơn là sự trù tính mạch lạc của một ý thức mang tầm tư tưởng. Thời Pëtr trị vì
là một thời ngột ngạt về sưu thuế: để có tiền ném vào chiến tranh và xây cất
Sankt-Peterburg, thuế thân được đánh cả vào những người lang thang vô gia cư.
Nông dân Nga thời Pëtr bị bóc lột và bị trói buộc thân phận nhiều hơn vào giới
chủ đất bởi những luật lệ nông nô nghiệt ngã. Để ngăn chặn / đè bẹp sự chống
đối, Pëtr I đã hủy bỏ vĩnh viễn các “nghị hội toàn quốc” (zemskiĭ sobor, xem chú thích [26]), và đã từng tự tay
tham gia hành quyết gần 1200 binh sĩ tạo phản can dự cuộc “Binh biến 1698”. Bản
thân con trai của Pëtr I, thái tử Alekseĭ Petrovich Romanov (1690-1718), cũng bị triều đình
Sankt-Peterburg bắt giam và kết án tử hình vì đã chống lại các kế hoạch cải
cách của cha mình. Alekseĭ đã chết trong ngục trước khi án quyết được chính
thức thi hành, với nguyên nhân cho đến nay vẫn chưa được xác định. (TheoEncarta Premium Library 2005 DVD và Wikipedia.)
[19] “Những
cuộc lữ hành và lưu trú tại Tây Âu” của Pëtr I: tác giả ngụ ý đến cuộc vi hành
châu Âu từ tháng 3.1697 đến tháng 8.1698 của Pëtr I trong thành phần của “Đại
đại-sứ-đoàn” (xem chú thích [18]).
[20] Jean-Baptiste Alexandre Le Blond (1679-1719): kiến trúc sư và nhà thiết
kế vườn người Pháp, học trò của nhà kiến trúc phong cảnh lừng danh André Le
Nôtre (1613-1700). Ở Pháp trước năm 1716, Le Blond được mệnh danh là “kiến trúc
sư của nhà vua” với các công trình như quần thể thác - bồn - vòi phun nước ở
vườn thượng uyển Saint-Cloud, các khách sạn tư gia Clermont và Vendôme (tất cả
đều ở Paris). Tháng 8.1716, Le Blond đến Sankt-Peterburg theo lời mời của tsar’ Pëtr I (xem chú thích [18]) và tại đây, ông
đã được trao một chức vụ chưa từng có là “Tổng kiến trúc sư trưởng” (Architect-General). Những công trình chính trong sự
nghiệp ngắn ngủi của ông ở nước Nga gồm có dinh thự của bá tước đô đốc Fëdor
Apraksin trên bờ sông Neva, thiết kế cung Konstantinovskiĭ ở Strel’na, các thác
nước trong quần thể cung điện và vườn thượng uyển Peterhof. Tuy nhiên, những đồ
án kiến trúc quan trọng nhất của ông về xây dựng Sankt-Peterburg đã không được
Pëtr phê chuẩn. Sau khi nhà kiến trúc đột ngột qua đời vì bệnh đậu mùa (1719),
công trình ở Strel’na bị bỏ dở và bị thay đổi thiết kế vài lần. Cung Apraksin
thì sau khi Pëtr chết cũng bị đập bỏ để lấy chỗ xây cung điện Mùa Đông. Thiết
kế trang viên (formal garden) của
Le Blond ở Strel’na chỉ được thực hiện sau ba thế kỷ, khi tổng thống Nga Putin
ra lệnh phục chế cung Konstantinovskiĭ theo thiết kế nguyên thủy của Le Blond
vào dịp kỷ niệm 300 năm thành lập Sankt-Peterburg (2003). Tháng 7.2006, G8 Summit lần thứ 32 đã được tổ chức tại
Strel’na. (Theo Wikipedia.)
[21] “Xứ
Varangia”: xứ sở / bản quán của ‘người Varangia’ (tiếng Anh Varangian, tiếng
Nga ‘Варяг’ [Varĭag], tiếng Hy Lạp ‘Βάραγγοι’ [Várangoi], tiếng Norse cổ Væringjar). Theo
những nguồn tham khảo khác nhau, ‘người Varangia’ là danh xưng mà người Đông
Slav hoặc người Hy Lạp thời trung cổ dùng để gọi những kiều dân (immigrant) - có thể thuộc nhiều gốc gác - đã di cư vào
các lãnh địa Đông Slav và/hoặc lãnh thổ của đế quốc Đông La Mã (hay ‘đế quốc
Byzantium’, tiếng Anh Byzantine Empire), thường hành nghề thương lái, lính
đánh thuê, vệ sĩ tư gia hoặc cướp bóc. Nhiều tài liệu khẳng định rằng người
Varangia là những nhóm dân ngụ cư (‘ngụ cư’ theo quan điểm của người Đông Slav
và Đông La Mã) có gốc gác Scandinavia, và như vậy, “xứ Varangia” có nhiều khả
năng là một vùng đất trung cổ nằm trên bán đảo Scandinavia .
Một số tài liệu thì đồng nhất ‘người Varangia’ với người Viking. (Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’, Hutchinson Encyclopedia, Wikipedia và những tài liệu khác.)
[22] “Đường
từ xứ Varangia đến Hy Lạp” (tiếng Nga và Ukraina ‘путь из Варяг в Греки’ [put’
iz Varĭag v Greki], tiếng Anh Trade route from the Varangians to the Greeks): một
trong những tuyến đường thủy mậu dịch thời Trung cổ, xuất phát từ các trung tâm
buôn bán ở Scandinavia (được cho là bản quán của ‘người Varangia’, xem chú
thích [21]), vượt qua biển Baltic, vịnh Phần Lan, đi qua các sông hồ chính của
Kievskaĭa Rus’ (quốc gia của các bộ lạc Đông Slav thời trung đại, được xem là
tiền thân của cả Nga, Ukraina và Belarus sau này), tiến vào biển Đen rồi đi tới
Byzantium (kinh đô của đế quốc Đông La Mã, có lãnh thổ bao trùm lên Hy Lạp và
Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Theo nhiều sử liệu, tuyến giao thương này xuất hiện từ
đầu thế kỷ IX, thịnh đạt trong các thế kỷ X-XI, gắn liền với sự phát triển kinh
tế và văn hóa của các vùng đất Đông Slav, thậm chí còn ảnh hưởng quyết định đến
sự ra đời của các nhà nước phong kiến ở đây. Tầm quan trọng của “đường từ xứ
Varangia đến Hy Lạp” có thể so sánh với những tuyến giao thương nổi tiếng khác
trong lịch sử như Con đường Tơ lụa, Tuyến đường Gia vị, Tuyến đường Trầm hương,
Con đường Hổ phách, v.v... (theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’ và những tài liệu khác.)
[23] “Ách
đô hộ Mông-Thát” (tiếng Nga mongolo-tatarskoe igo, tiếng Anh Mongol-Tatar yoke):
sự mất độc lập của các công quốc (xem chú thích [38]) Đông Slav từ năm 1243 đến
năm 1480 như một hậu quả của cuộc chinh phạt và chiếm đóng của đế quốc Mông Cổ
(tiếng Nga Mongol’skaĭa imperiĭa, tiếng Anh Mongol Empire) trên
lục địa Á-Âu trong các thế kỷ XIII-XV. Từ tố -tatar- trong các thuật ngữ tiếng Nga hoặc tiếng Anh đã
dẫn là một danh xưng có đến vài nghĩa. Thời trung cổ, Tatar được dùng để gọi tập hợp các bộ lạc du
mục trên thảo nguyên Mông Cổ (Mongolia )
liên kết lại dưới quyền cai trị của Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan). Ở Việt Nam , vào thế kỷ XIII (đời nhà
Trần), quân đội xâm lược Mông Cổ được gọi là giặc “Thát Đát” (một phiên pháp
Hán-Việt của Tatar) theo nghĩa này. Ngày nay, Tatar được giới nhân chủng học dùng để chỉ
các nhóm cư dân nói chung một ngôn ngữ gọi là “tiếng Tatar” (Tatar language, thuộc tiểu ngữ tộc Turkic, ngữ tộc Altaic), được coi
(hoặc tự coi mình) là hậu duệ của các bộ lạc du mục Trung Á nói các ngôn ngữ Turkic trung đại, có lẽ đã hợp huyết với các
sắc dân Tatar trung
cổ từng di cư theo chân (và đóng góp nhân lực vào thành phần) quân đội viễn
chinh đa sắc tộc của đế quốc Mông Cổ trong quá trình bành trướng của đế quốc
này vào các thế kỷ XIII-XV, rồi được kẻ thực dân để lại cho danh xưng. Bộ phận
tập trung nhất của người Tatar (chừng
2 triệu người) hiện cư trú tại xứ cộng hòa Tatarstan, một chủ thể liên bang nằm ở phía nam phần
lãnh thổ Đông Âu của nước Nga. Dưới ách đô hộ Mông-Thát, các lãnh địa Đông Slav
không bị sáp nhập thực sự vào đế quốc Mông Cổ: các lãnh vương Slav (knĭaz’) vẫn giữ được bộ máy quyền lực sở tại của mình
và quân đội Mông Cổ cũng không có mặt thường xuyên trên các lãnh địa của họ,
trừ khi họ tỏ ra cứng đầu không chịu khuất phục. Hoạt động của các lãnh vương
Đông Slav bị kiểm soát bởi cácbaskak (“khâm sứ”) đại diện cho các hãn Mông
Cổ - Tatar. Để đổi lấy quyền tự trị, các lãnh vương Slav phải trả tiền cống nạp
cho các hãn: thoạt đầu (từ 1243 đến 1266) là cho các đại hãn Mông Cổ, sau đó
(từ 1266 đến 1480) là cho các hãn của “hãn quốc Kim Trướng” (tiếng Nga Khanstvo Zolotoĭ Ordy,
tiếng Anh Khanate of the Golden Horde) - một trong bốn đế quốc
gốc Mông tách ra từ đại đế quốc Mông Cổ sau cái chết của đại hãn Ögöödei (con trai và người kế vị của Genghis
Khan). Từ thập niên 1390 đến thập niên 1440, những cuộc giao tranh với đế quốc
lân bang Timurid rồi
sau đó, nội chiến đã khiến hãn quốc Kim Trướng suy yếu và phân rã thành nhiều
hãn quốc nhỏ hơn, tiếp tục chèn ép và bắt các công quốc Nga La Tư nạp triều
cống. Tuy nhiên, vào năm 1480, đại quận công xứ Moskva Ivan III Vasil’evich (1462-1505) đã từ chối tiếp tục triều
cống cho các hãn quốc Tatar, chính thức khôi phục nền độc lập của Nga La Tư.
(TheoĐại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’, Hutchinson Encyclopedia và Wikipedia.)
[24]Sự “thâu nạp hai hãn quốc Kazan và
Astrakhan”: nhắc nhở đến các võ công của tsar’ Ivan IV “Groznyĭ” (xem
chú thích [17]) chinh phạt và sáp nhậpKazan’ và Astrakhan’ -
hai hãn quốc của người Tatar tách
ra từ hãn quốc Kim Trướng - vào Nga La Tư hồi giữa thế kỷ XVI. Sau khi Thành
Cát Tư Hãn (Genghis Khan) qua
đời (1227), đế quốc Mông Cổ lần lượt bị phân ly thành bốn đế quốc nhỏ hơn là đế
quốc Nguyên (Yuan Empire, lấy
Trung Hoa lục địa làm lãnh thổ chính), đế quốc Kim Trướng (Empire hoặc Khanate of the Golden Horde, có kinh đô ở khu vực hạ
lưu sông Volga), hãn quốc Il (Il-Khanate, có
trung tâm đặt tại Iran) và hãn quốc Chagatai (Chagatai Khanate, định đô ở khu vực Trung Á). Trong
bốn đế quốc đó, hãn quốc Kim Trướng (Khanate of the Golden Horde)
là thiết chế gắn liền với lịch sử Nga La Tư trung-cận đại: nó chính là chủ thể
của cái mà sử sách Nga gọi là “ách đô hộ Mông-Thát” (xem chú thích [23]). Trong
khi chèn ép và bóc lột các công quốc Đông Slav, Kim Trướng quốc ngay từ khi
hình thành (giữa thế kỷ XIII) đã liên tục bất ổn bởi tình trạng phân tán quyền
lực. Bản thân nó cũng bị đế quốc lân bang Timurid xâm
lấn. Trong nửa cuối thế kỷ XV, đế quốc Kim Trướng lần lượt bị rã tách thành tám
nhà nước phong kiến lớn nhỏ, trong số đó có hãn quốc Kazan’ và hãn quốc Astrakhan’ - với các kinh đô là các thành phố
cùng tên ngày nay thuộc Liên bang Nga. Về phía Nga La Tư, quá trình thống nhất
các công quốc Đông Slav đã được đánh dấu bởi sự kiện đại quận công Moskva Ivan IV Vasil’evich tự đăng quang ngôi tsar’ (“quốc
vương” hay “sa hoàng”) của toàn Nga La Tư vào năm 1547. Trong những chiến dịch
quân sự sau đó để mở mang lãnh thổ, Ivan IV đã lần lượt thôn tính Kazan ’ (1552)
và Astrakhan ’ (1556).
Sự sáp nhập hai hãn quốc Tatar này
vàoMoskovskaĭa Rus’ đã
biến nó trở thành một nhà nước đa sắc tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa, tức là
một đế quốc trên thực tế. (Theo Wikipedia.)
[25]Đánh giá về ảnh hưởng của ‘sự đô hộ
Mông-Thát’ (xem chú thích [23]) lên lịch sử Nga / Đông Slav có những ý kiến bất
đồng. Giới sử học chính lưu - vận dụng công cụ chủ nghĩa duy vật lịch sử
marxist - cho rằng ách thực dân Mông-Thát (kéo dài khoảng 240 năm) chỉ có ảnh
hưởng tiêu cực: trình độ thấp hơn về lực lượng sản xuất của kẻ xâm lược đã kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ở các công quốc Đông Slav bị đô hộ,
vốn đã phát triển tương đối cao từ trước khi bị chiếm đóng. Đây là một trong
những nguyên nhân chính đã khiến Nga La Tư bị tụt hậu về cả kinh tế, chính trị
lẫn văn hóa so với các quốc gia Tây Âu. Thêm vào đó, người Mông Cổ - Tatar cũng
bị buộc tội đã hủy diệt nền văn minh Kievskaĭa Rus’, làm tan vỡ khối thống nhất
nhân chủng Đông Slav nguyên thủy thành ba sắc tộc (Nga, Ukraine, Belarus), và
du nhập vào xã hội Đông Slav “chủ nghĩa chuyên chế Đông phương” (oriental despotism). Như đã thấy rõ qua bài viết, tác
giả Dmitriĭ Likhachëv là người ủng hộ mạnh mẽ những quan điểm này. Tuy nhiên,
một số sử gia - trong đó có Lev Gumilëv [xem “Phẩm tính trí thức (phụ lục)”] -
đã đưa ra những luận chứng phản bác rằng Kievskaĭa Rus’ không hề là một thực
thể đồng nhất về chủng tộc, văn hóa và chính trị; rằng quân đội Mông Cổ chỉ đơn
thuần giúp đẩy nhanh quá trình tự tan rã của khối Kiev vốn đã bắt đầu từ trước
khi nó bị chinh phạt; và rằng nếu không có sự diệt vong của Kievskaĭa Rus’ thì
cũng không thể có sự xuất hiện của Moskovskaĭa Rus’ và đế quốc Nga sau này. Hơn
nữa, sự có mặt của lực lượng chiếm đóng Mông Cổ đã kiềm chế và loại trừ cảnh
huynh đệ tương tàn giữa các lãnh chúa Đông Slav mà rất có thể đã dẫn tới sự tự
hủy diệt, đồng thời thúc ép các thành bang Nga La Tư còn sót lại nhìn về phía
tây để tìm kiếm đồng minh và kỹ nghệ hầu phát triển và phòng thủ. Trong “kỷ
nguyên Mông Cổ”, Con đường Tơ lụa trên bộ xuyên qua Trung Á - một trong những
tuyến giao thương đông-tây nổi tiếng thời trung cổ (xem thêm chú thích [22]) -
trở nên an toàn hơn và tấp nập hơn bao giờ hết, một điều kiện đã giúp cho nhiều
đô thị ở lân cận nó trở nên phồn thịnh, trong đó có các đô thị Đông Slav như
Moskva, Tver’, Novgorod, v.v... Chính trong thời kỳ này, Moskva đã phát triển
cho mình mạng lưới bưu chính, kỹ thuật điều tra dân số, hệ thống tiền tệ, tổ
chức quân sự và lớn mạnh lên thành một thế lực nhà nước, lần lượt thống nhất các
lãnh địa Đông Slav rồi quay lại thôn tính chính các hãn quốc Tatar, đặt tiền đề
cho sự ra đời của quốc gia Nga hiện đại. (TheoĐại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’, Hutchinson Encyclopedia vàWikipedia.)
[26]“Nghị hội toàn vương quốc” (tiếng Nga zemskiĭ sobor):
thiết chế tư vấn lập pháp dưới chế độ quân chủ Nga, tồn tại trong các thế kỷ
XVI-XVII. Zemskiĭ sobor có
tính chất của một “nghị viện đại biểu danh sĩ”, thường bao gồm các đại diện của
ba loại cư dân: giới quý tộc / quan lại cao cấp, giới cao tăng Chính thống
giáo, giới thương nhân và thị dân. Zemskiĭ sobor được tsar’ Ivan IV “Groznyĭ” (xem chú thích [17]) triệu tập lần đầu
tiên vào năm 1549. Sau đó, nó còn được vị tsar’ này
tái tập vài lần trong thời ông trị vì, chủ yếu như một công cụ để ông thông qua
/ ban hành những ý chỉ mà ông đã hoạch định sẵn, hoặc để ông quyết định những
vấn đề còn gây tranh cãi. Khinhà Rĭurikovichi cáo
chung (xem chú thích [37]), một zemskiĭ sobor có
cả đại diện của nông dân đã đưa nhà Romanovy lên
chấp chính (1613), khởi đầu bằng tsar’ Mikhail Fëdorovich (1596-1645). Khi triều đình Romanov
còn yếu, zemskiĭ sobor được
triệu tập mỗi năm một lần. Nó trở nên mất vị thế ngay khi nhà Romanovy đã vững
mạnh trên quyền lực. Từ thời Pëtr I (xem
chú thích [18]), zemskiĭ sobor đã bị hủy bỏ một cách lặng lẽ. Nó được tái
tập lần cuối cùng duy nhất vào ngày 23.7.1922 tại Priamursk (gần Vladivostok)
bởi tướng Bạch quân Mikhail Diterikhs, để tấn phong Đại quận công Nikolaĭ Nikolaevich Romanov (1856-1929) lên ngôi tsar’, trong một nỗ
lực tuyệt vọng của phe bảo hoàng hòng giành lại giang sơn đã bị những người bol’shevik tước đoạt từ tháng 11.1917. (Theo Wikipedia.)
[27]“Đại giáo chủ” (tiếng Nga ‘патриарх’
[patriarkh], tiếng Hy Lạp ‘πατριάρχης’ [patriarchēs], tiếng Anh patriarch): tước
hiệu của người đứng đầu hệ thống nhà thờ Chính thống giáo tự quản ở một loạt
quốc gia Đông và Nam Âu. Trong Ki-tô giáo, tước hiệu “đại giáo chủ” được lập ra
vào năm 451 tại Nghị hội nhà chung Chalkidikē ở Hy Lạp. (Trong tiếng Hy Lạp patriarchēs có nghĩa là “cha cai quản”.) Sau cuộc
ly giáo của đạo Ki-tô vào năm 1054 thành Ki-tô giáo Tây phương (Gia Tô giáo hay Catholicism) và
Ki-tô giáo Đông phương (Chính thống giáo hay Orthodox), tước hiệu patriarkh / patriarch gắn với bậc trưởng phụ của toàn thể giáo
hữu chỉ còn được lưu lại trong Chính thống giáo. Ở Đông và Nam Âu, khi các nhà
nước Slav độc lập theo Chính thống giáo (Bulgaria ,
Serbia ,
v.v...) xuất hiện, patriarkh / patriarch trở thành tước hiệu của người đứng đầu
giáo hội Orthodox trong từng quốc gia.
Ở Nga, tước hiệu này - được gọi đầy đủ là “đại giáo chủ
Moskva và toàn Nga La Tư” (patriarkh Moskovskiĭ i vseĭa
Rusi) - được nghị hội trưởng phụ của các nhà thờ Nga La Tư bầu ra
lần đầu tiên vào năm 1589. Trong các thế kỷ XVI-XVII, các đại giáo chủ Nga là
những lãnh chúa phong kiến lớn, can dự tích cực vào sinh hoạt chính trị của đất
nước, thậm chí có quyền lực cạnh tranh với chính quyền thế tục. Dưới triều tsar’ Pëtr I (xem chú thích [18]), sau khi đại giáo
chủ Adrian qua
đời (1700), Pëtr từ chối ấn định việc bầu chọn đại giáo chủ mới, và đưa một
thân hữu của mình - tổng giám mục Rĭazan’ Stefan Ĭavorskiĭ -
ra đứng đầu giáo giới với tước hiệu mới “thượng phụ bảo vị” (mestoblĭustitel’ patriasheskogo prestola, nghĩa là
“người tập chức ngôi cha bề trên”), để rồi vào năm 1721, Pëtr cho thành lậpSvĭashchennyĭ sinod (Linh
thánh viện), một hội đồng giáo sĩ thay thế tước vị patriakh đứng đầu Giáo hội Chính thống Nga.
Hoạt động của Sinod được
giám sát bởi một quan chức thế tục có chức danh ober-prokuror(kiểm
sát trưởng). Mọi thành viên của Sinod và ober-prokuror đều do Pëtr chỉ định. Ông cũng cấm lập
thêm tu viện mới để giảm thiểu số lượng tu sĩ, đồng thời đánh thuế mạnh vào lợi
tức từ đất đai thuộc sở hữu của nhà thờ. Bằng những biện pháp đó, Pëtr I đã
khuất phục được giới tăng lữ dưới quyền lực chính trị của mình. Sau khi chế độ tsarist sụp đổ (tháng 2 năm 1917), Giáo hội
Chính thống Nga đã khôi phục việc bầu chọn patriarkh, và từ tháng 6 năm 1990, khôi phục danh xưng
đầy đủpatriarkh Moskovskiĭ i vseĭa Rusi (đại giáo chủ Moskva và toàn Nga La
Tư). Không phụ thuộc vào sự thay đổi địa chính trị sau khi Liên bang Xô-viết
tan rã (tháng 12.1991), patriarkh Moskovskiĭ i vseĭa Rusi (hiện nay là Aleksiĭ II) có tư
cách nhà lãnh đạo tinh thần của các giáo phận Chính thống thuộc Nga, Ukraina,
Belarus, các nước SNG và nhiều giáo khu Orthodox trên khắp thế giới. (Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’ và Wikipedia nhánh tiếng Nga.)
[28]“Chiến tranh Balkan”: ngụ ý cuộc chiến
tranh Balkan lần thứ nhất (Pervaĭa Balkanskaĭa voĭna,
ngày 9 tháng 10 năm 1912 đến ngày 30 tháng 5 năm 1913) của các quốc gia thuộc
“Liên minh Balkan” - bao gồm Bulgaria, Hy Lạp, Serbia và Crna Gora (tức
Montenegro) - chống lại đế quốc Ottoman, nhằm xóa bỏ ách thực dân nhiều thế kỷ
của người Thổ Nhĩ Kỳ đặt lên các dân tộc Balkan. Đế quốc Nga không tham gia
cuộc chiến tranh này, song hàng loạt trí thức Nga đã tình nguyện sang chiến đấu
và phục vụ chiến đấu cho Liên minh Balkan với lý tưởng (hoặc ảo tưởng) “giải
phóng các dân tộc Balkan” (theo Ki-tô giáo Chính thống) khỏi chủ nghĩa thực dân
của người Thổ Nhĩ Kỳ (sắc tộc thống trị trong đế quốc Ottoman, theo Islam giáo).
Cùng lúc, các trí thức này cũng là kẻ thù chính trị của chế độ tsarist ở Nga do tư tưởng chống chuyên chế của
họ.
“Chiến tranh Caucasian” (Kavkazskaĭa voĭna, 1817-1864) và “chiến tranh
Turkestan” (Turkestanskie voĭny,
trong thế kỷ XIX) thực chất là những cuộc chiến tranh thực dân bành trướng lãnh
thổ do đế quốc Nga tiến hành, mặc dù giới sử học chính lưu Nga thường nhấn mạnh
khía cạnh tích cực của những cuộc chiến tranh này là “giải phóng nhân dân các
dân tộc Caucasian và Turkic” khỏi phương thức sản xuất phong kiến chủ nghĩa,
bảo vệ quyền tự do truyền giảng và thực hành giáo lý Orthodox.
“Vấn đề Bắc - Nam”: trong văn học chính trị, cặp khái niệm
“Bắc” - “Nam” ngoài ngữ nghĩa địa lý thông thường còn tương ứng với “đã phát
triển” - “chưa phát triển”, “văn minh” - “lạc hậu”, “hiện đại” - “lỗi thời”,
“tân tiến” - “cũ kỹ”, v.v... Là một học giả hướng Âu chủ nghĩa (eurocentric), Dmitriĭ Likhachëv đã dứt khoát khẳng
định phẩm chất Tây Âu của nền văn hóa Nga, coi “vấn đề Đông - Tây” là đã được
giải quyết và không còn là chủ đề để bàn cãi. Song mặt khác, trong đoạn văn
này, bằng một diễn đạt hết sức hàm súc, ông đã kín đáo thừa nhận rằng nước Nga
chưa thể được xác quyết là một quốc gia “phương Bắc” trong ý nghĩa ẩn dụ của
khái niệm này.
[29]“Hộp thuốc lá vàng” (tiếng Nga zolotaĭa tabakerka):
hộp đựng sợi thuốc lá hít bằng vàng, được các vua chúa châu Âu thời cận đại
dùng làm tặng vật ban cho những quý tộc thân cận hoặc người có công trạng,
thường đi kèm với những danh/tước hiệu hoặc phần thưởng vinh dự khác. Đối với
người được tặng thưởng, zolotaĭa tabakerka là
một trong những biểu tượng của danh vọng và/hoặc thế lực trong các xã hội phong
kiến ở châu Âu. Lưu ý rằng Pushkin xuất thân là một quý tộc thế truyền.
[30]“Những-người-tháng-Mười-Hai” (hay cácdekabrist) và “những liên minh bí mật”:
“những-người-tháng-Mười-Hai” hay các dekabrist là
những người đã tham gia cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 14 (lịch Julian, tức ngày
26 lịch Gregorean) tháng Mười Hai năm 1825 ở Sankt-Peterburg của các sĩ quan /
binh lính đối lập và đồng minh của họ, nhằm ngăn chặn sự chấp chính của Nikolaĭ I sau cái chết của tsar’ Aleksandr I, yêu
cầu triều đình Romanov phải ban hành hiến pháp, chấm dứt sự cai trị chuyên chế
và chế độ nông nô. (Trong tiếng Nga dekabr’ là
“tháng Mười Hai”). Tất cả các dekabrist đều
là quý tộc, phần lớn là các sĩ quan đã tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc năm
1812 chống lại cuộc xâm lược của Napoléon Bonaparte và
tham gia các chiến dịch sau đó (1813-15) ở châu Âu. Việc tiếp xúc với trật tự
châu Âu đã trang bị cho các sĩ quan này những nhãn quan chính trị mới. Trở về
nước, họ tổ chức một số câu lạc bộ và bắt đầu bí mật truyền bá trong giới quý
tộc những tư tưởng tự do. Từ những nhóm này sau đó đã hình thành một số hiệp
hội được tổ chức theo khuôn mẫu các ‘hội cộng tế’ (tiếng Việt còn gọi là ‘hội
tam điểm’, tiếng Nga masonskaĭa lozha, tiếng Anh masonic lodge), có
tên gọi bắt đầu bằng “liên minh...”: “Liên minh cứu tế” (Soiuz spaseniĭa), “Liên minh no ấm” (Soiuz blagodenstviĭa),... Các “liên minh” bí mật này
theo đuổi một vài xu hướng chính trị khác nhau, nhưng cùng chung một cứu cánh
là lật đổ nền quân chủ chuyên chế, xóa bỏ chế độ nông nô và hiện đại hóa nước
Nga. Do nhiều nguyên nhân, đồng thời bị Nikolaĭ I đàn áp thẳng tay, cuộc khởi
nghĩa tháng Mười Hai đã nhanh chóng thất bại. Ngoài những người đã hy sinh ngay
trong quá trình binh biến, năm trong số các dekabrist bị
treo cổ trước công chúng, số còn lại bị đầy đi Sibir’, Kazakhstan và
Viễn Đông. Chế độ tsar’ chuyên quyền tiếp tục tồn tại thêm một thế kỷ sau đó.
(Theo Wikipedia, nhánh tiếng Nga.)
[31]Pëtr Nikitich Tkachëv (1844-1886): nhà báo, nhà phê bình văn
học và nhà lý luận của chủ nghĩa dân túy Nga (narodnichestvo) theo tư tưởng Gia-cô-banh (jacobinism). Trong phê bình văn học, Tkachëv triển
khai thuyết “phê bình thiết thực” (real’naĭa kritika):
đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật phải có tính tư tưởng và ý nghĩa xã hội cao, coi
nhẹ giá trị mỹ học của tác phẩm. Ông buộc tội I. S. Turgenev đã “xuyên tạc bức
tranh đời sống nhân dân”, không thừa nhận nghệ thuật trào phúng của M. E.
Saltykov-Shchedrin, gọi L. N. Tolstoĭ là “nhà văn sa-lông”. Về triết học chính
trị, Tkachëv tin rằng nguồn gốc của các chuyển biến lịch sử là ý chí của “một
thiểu số tích cực”, từ đó - theo Tkachëv - cách mạng quy về việc giành chính
quyền và thiết lập “nền chuyên chính của một thiểu số cách mạng”. Là một nhà
dân túy chủ nghĩa, ông hình dung về một tương lai xã hội chủ nghĩa của nước Nga
gắn liền với nông dân, giai cấp xã hội mà theo ông vốn “cộng sản ngay từ bản
năng và truyền thống”.
[32]Sergeĭ Gennadievich Nechaev (1844-1886): nhà hoạt động cấp tiến
của phong trào hư vô chủ nghĩa (tiếng Nganigilisticheskoe dvizhenie, tiếng Anh nihilistic movement)
ở nước Nga nửa sau thế kỷ XIX, nổi tiếng bởi sự chuyên tâm theo đuổi mục tiêu
chính trị bằng mọi phương tiện khả dĩ, kể cả những biện pháp bạo lực cực đoan
nhất như ám sát và/hoặc thủ tiêu. Thời kỳ đầu của sự nghiệp, Nechaev là một
trong những môn đệ hăng hái nhất của M. A. Bakunin, nhà cách mạng xã hội chủ
nghĩa lừng danh theo đường lối vô chính phủ (anarchism) và đối thủ chính trị của Marx / Engels.
(Bakunin, như được mô tả, từng “mê tít” Nechaev.) Về sau, Nechaev đã vượt
Bakunin về mức độ cấp tiến cả trong triết lý (nihilism thay
cho anarchism) lẫn trong hành động (đa nghi, xảo quyệt,
tàn bạo). Nechaev chia sẻ một lý tưởng về chủ nghĩa xã hội mà Marx gọi là “chủ
nghĩa cộng sản trại lính”. Năm 1872, Nechaev bị cảnh sát Zurich bắt, bị dẫn độ về Nga và lãnh án 20
năm tù khổ sai vì tội giết người. Ông chết trong tù (1886) khi mới thọ được hai
phần ba mức án. Tuy Nechaev “công chưa thành”, nhưng có thể nói các “phương
pháp cách mạng” của ông sau này đã được Vladimir Lenin và Iosif Stalin thực
hành rất thành công.
[33]Nikolaĭ Gavrilovich
Chernyshevskiĭ (1828-1889):
nhà văn và phê bình văn học, nhà báo, nhà triết học duy vật theo đường lối xã
hội chủ nghĩa không tưởng, nhà hoạt động cách mạng Nga thế kỷ XIX. Ông được coi
là cha đẻ của narodnichestvo (chủ
nghĩa dân túy Nga), vận động lật đổ chế độ tsarist chuyên
chế để thay bằng một xã hội xã hội chủ nghĩa trên nền tảng các obshchina (công xã nông thôn Nga) cổ truyền.
Cũng như Marx, ông tin rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã
hội, và quần chúng là chủ trò sáng tạo nên lịch sử. Ông nổi tiếng với thành ngữ
“càng tệ càng tốt” (chem khuzhe chem lutchshe),
hàm ý rằng điều kiện sống của dân chúng càng tồi tệ thì càng tốt cho cơ hội để
cách mạng nổ ra. Trước tác Làm gì? (Chto delat’?) của Chernysheskiĭ đã được Lenin coi là
một trong những giáo trình cách mạng đầu tiên của mình.
[34] Che-Ka, OGPU, KGB: viết
tắt theo tiếng Nga của cơ quan an ninh chính trị Liên Xô trong những thời kỳ
khác nhau. Che-Ka là
gọi tắt của Vserossiĭskaĭa chrezvychaĭnaĭa komissiĭa po bor’be s
kontrrevolĭutsieĭ i sabotazhem(“Ủy ban đặc biệt toàn Nga chống phản
cách mạng và phá hoại”, 1917-1922). OGPU là
gọi tắt của Ob ”edinënnoe gosudarstvennoe politicheskoe upravlenie (“Cục chính trị quốc gia hợp nhất”,
1922-1934). Còn KGB là
gọi tắt củaKomitet gosudarstvennoĭ
bezopasnosti (“Ủy ban
an ninh quốc gia”, 1954-1991). Thực chất, đây là những tổ chức mật vụ và tình
báo, có nhiệm vụ bảo vệ chế độ cộng sản ở Liên Xô và - vào thời Chiến tranh
Lạnh - ở các quốc gia Đông Âu thuộc khối Xô-viết. Trong phần lớn thời gian tồn
tại của mình, các cơ quan này có quy chế của một bộ nằm trong thành phần chính
phủ Liên Xô, và thường do một ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô phụ
trách. Trong số những nhân vật nổi tiếng từng đứng đầu các cơ quan này có Feliks Dzerzhinskiĭ (1877-1926), Lavrentiĭ Beriĭa (1899-1953), Ĭuriĭ Andropov (1914-1984), Vladimir Krĭuchkov (sinh năm 1924). Một người trong số
này, Ĭuriĭ Andropov, đã trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
[35]“Chủ nghĩa Á-Âu” (tiếng Nga evraziĭstvo, tiếng
Anh eurasianism): trào lưu tư tưởng địa - chính trị và
triết học - xã hội học cho rằng nền văn minh Nga không thuộc vào phạm trù Âu
châu, mô tả nước Nga là một “Á-Âu quốc” - về địa lý là một tiểu lục địa nằm
giữa châu Á và châu Âu, về văn hóa là một kiểu hình đặc sắc, trung gian giữa
hai nền văn minh Á Đông và Âu Tây. Những người Á-Âu chủ nghĩa đặt đối lập nước
Nga với phương Tây về số phận lịch sử, trách nhiệm và lợi ích, mà một hệ quả
trực tiếp từ những luận điểm này là thừa nhận tính chính đáng và tính hợp quy
luật của cuộc cách mạng bol’shevik năm 1917 - được cho là phản ứng tất yếu
trước quá trình Tây phương hóa chóng vánh xã hội Nga thời kỳ cuối thế kỷ XIX.
Các tác giả của chủ nghĩa Á-Âu là những học giả người Nga lưu vong đã tỵ nạn
khỏi cuộc Cách mạng tháng Mười 1917 và cuộc Nội chiến 1918-1922, điển hình làNikolaĭ Trubetskoĭ (1890-1938)
và Pëtr Savitskiĭ (1895-1968).
Trong giai đoạn cuối của Liên bang Xô-viết và sau khi thiết chế này tan rã,
trên hiện trường chính trị và học thuật Nga đã xuất hiện “phong trào Á-Âu mới”
(tiếng Nganeo- hay novo-evraziĭstvo, tiếng Anh neo-eurasianism),
lấy cảm hứng và kế thừa một phần di sản của chủ nghĩa Á-Âu đầu thế kỷ XX. Nhà
sử học nhân chủng Lev Gumilëv [xem Phẩm tính trí thức (phụ lục)] được coi là người sáng lập,
còn những trước tác của ông được coi là cơ sở lý luận của phong trào này. [Xem
mô tả tóm tắt về học thuyết tân Á-Âu chủ nghĩa của Gumilëv trong “Phẩm tính trí
thức (phụ lục)”.] Thuật ngữ “chủ nghĩa Á-Âu” mà tác giả Likhachëv sử dụng trong
bài viết thực ra là ám chỉ “phong trào Á-Âu mới”. Trong văn hóa học và triết
học (chủ yếu là triết học chính trị) Nga / Đông Slav, chủ nghĩa Á-Âu nói chung
và phong trào Á-Âu mới nói riêng là đối thủ cạnh tranh của “chủ nghĩa hướng Âu”
(tiếng Nga evropotsentrizm, tiếng Anh eurocentrism) mà
qua bài viết, có thể thấy rõ tác giả Dmitriĭ Likhachëv là một đại diện.
[36]Chuyện kể thời quá vãng (Povest’ vremennykh let):
tập sử ký, ghi chép lịch sử của Nga La Tư (Kievskaĭa Rus’)
trong khoảng thời gian từ năm 850 đến năm 1110. Bản gốc (đã thất truyền) của cuốn
sử ký này được cho là do một tăng lữ tên Nestor - có lẽ là một sử quan của
triều đình Kiev
- biên soạn vào năm 1113. Hai bản chép tay cổ nhất là bản Lavrent’ev (1377) và bản Ipat’ev (thế kỷ XV) hiện được bảo quản tại Thư
viện quốc gia Nga ở Sankt-Peterburg. Không giống như nhiều bộ sử ký khác ở châu
Âu về thời trung cổ, Povest’ vremennykh let là chứng tích văn bản độc nhất hiện
nay về sơ sử của các dân tộc Đông Slav. Sự toàn diện trong các mô tả của nó thì
không một nguồn dữ liệu nào về cổ sử Đông Slav sánh kịp. Nó cũng đồng thời là
một tác phẩm mẫu mực của văn học cổ Đông Slav. Tác giả Likhachëv là một trong
những chuyên gia về cuốn sử ký này.
[37]“Triều đình Rĭurikovich” (tiếng Nga Rĭurikovichi, tiếng
Anh Riurik hoặc Riurikid Dynasty):
nhà nước phong kiến thế tập của dòng họ Rĭurikovich cai
trị Nga La Tư (hayRus’, quốc gia của
các bộ tộc Đông Slav) từ năm 862 đến năm 1598. Theo những ghi chép có nguồn gốc
folklore trong Chuyện kể thời quá vãng (xem chú thích [36]), năm 862, tộc tổ
của dòng họ Rĭurikovich là Rĭurik, nguyên là một tù trưởng người Varangia (người gốc Scandinavia di cư đến vùng
đất Đông Slav), đã được các bộ lạc Đông Slav (tổ tiên gần của các sắc tộc Nga,
Ukraina và Belarus’ ngày nay) cùng với các bộ lạc Finno-Ugric (xem chú thích
[39]) mời lên làm knĭaz’ (lãnh
vương) của Novgorod - thành bang có vị thế chi phối các vùng lãnh thổ Đông Slav
lúc đó - và trị vì cho đến khi chết (năm 879). CácRĭurikovich (theo
phép cấu tạo từ của tiếng Slav có nghĩa là “có cha là Rĭurik”) sau đó đã dời đô
về Kiev (năm
882), mở đầu triều đại Kievskaĭa Rus’. Hưng thịnh trong các thế kỷ X-XI như
một trong những quốc gia phát triển nhất châu Âu đương thời về kinh tế, văn hóa
và thống nhất về chính trị, Kievskaĭa Rus’ tan
rã vào giữa thế kỷ XII thành một số tiểu vương quốc (hay “công quốc”, tiếng Nga knĭazhestvo - xem chú thích [38]) - do các chi tộc
của nhà Rĭurikovich quản nhậm - và một nhà nước cộng hòa phong kiến ở Novgorod (Novgorodskaĭa feodal’naĭa respublika), cùng nhau tranh
giành ảnh hưởng chính trị ở Đông Slav với Kiev. Các lãnh địa Đông Slav được tái
hợp nhất vào cuối thế kỷ XV với sự ra đời của Vương quốc Nga - Moskva (Russkoe tsarstvo moskovskoe), do một velikiĭ knĭaz’ (đại lãnh
vương) họ Rĭurikovich là Ivan IV “Groznyĭ” (“Ivan
Đáng Gờm”) thống lĩnh và xưng tsar’(1547). Về cuối đời, tsar’ Ivan IV trong một lần
nóng nảy dẫn đến bạo hành đã lỡ tay giết chết thái tử Ivan (con) Ivanovich;
trước đó, ông đã đánh truỵ thai thái tử phi - con dâu ông và vợ của Ivan con.
Khi Ivan “Groznyĭ” chết (1584), người con còn lại của ông là Fëdor I Ivanovich - một nhân cách trì độn - được đưa lên
ngai vàng. Mười bốn năm sau, cái chết của Fëdor I trong tình thế không có con
và không còn ai thân thích đồng tông đã đưa tôn thất Rĭurikovich đến chỗ tuyệt
tộc (1598). Nước Nga trải qua một Thời kỳ bất ổn (Smutnoe vremĭa, 1598-1612) trước khi triều chính rơi
vào tay nhà Romanov (Romanovy,
1612-1917).
[38]“Công quốc”: dịch thuật ngữ tiếng Nga knĭazhestvo. Từ thế
kỷ XI đến cuối thế kỷ XV, Nga La Tư - với tư cách một cộng đồng nhân chủng của
các bộ lạc Đông Slav - ở trong tình trạng chế độ phong kiến phân quyền: quyền
lực nhà nước không tập trung thực sự vào một trung tâm mà bị chia xẻ và cạnh
tranh giữa các lãnh chúa phong kiến địa phương. Hầu hết các lãnh chúa địa
phương đều có tước hiệu knĭaz’ (“quận
công”) do thế tập hoặc tự phong. Đôi khi, một lãnh chúa tỏ ra có thế lực / ảnh
hưởng vượt trội đã được suy tôn hoặc tự phong làm velikiĭ knĭaz’ (“đại quận công”). Lãnh địa phong kiến
do một knĭaz’ đứng
đầu được gọi là mộtknĭazhestvo. Giai
đoạn phân quyền được coi là chính thức chấm dứt vào năm 1547, khi đại quận công
xứ Moskva (velikiĭ knĭaz’ moskovskiĭ)
làIvan IV Vasil’evich Rĭurikovich tự tấn phong ngôitsar’ vseĭa Rusi (“quốc
vương - hay sa hoàng - của toàn Nga La Tư”), tức sa hoàng Ivan “Groznyĭ” (xem chú thích [17]). Tuy nhiên, tước
hiệu knĭaz’ với
tư cách là một phẩm hàm quý tộc cao cấp vẫn được thế tập hoặc sắc phong cho đến
(ít nhất) tháng 2 năm 1917, mặc dù đất phong của người giữ tước hiệu này không
bao giờ còn có được status của một knĭazhestvo nữa.
Một cách tương đối,knĭazhestvo được coi là tương đương với các thuật
ngữ tiếng Anh duchy / principality / emirate. (Đồng thời,knĭaz’ cũng
được coi là tương đương với duke / prince / emir, dĩ nhiên cũng chỉ một cách tương đối.) Trong bản
dịch này và phần chú thích của nó, đôi khi knĭaz’ được
dịch là “tiểu vương” hoặc “lãnh vương” và knĭazhestvođược dịch là “tiểu vương quốc”.
[39]“Các sắc dân Finno-Ugric” (tiếng Nga finno-ugorskie narody,
tiếng Anh Finno-Ugric peoples): theo nghĩa rộng, chỉ tất cả các
sắc tộc (ethnic) - trong quá
khứ cũng như trong hiện tại - có ngôn ngữ thứ nhất thuộc tiểu ngữ tộc
Finno-Ugric (nằm trong ngữ tộc Uralic); khái niệm rộng này bao quát từ người
Hungary ở Trung Âu, người Phần Lan ở Bắc Âu đến người Khanty ở Tây Sibir’.
Trong bài viết này, tác giả sử dụng finno-ugorskie narody theo nghĩa hẹp hơn: chỉ những bộ lạc
trung cổ định cư ở khu vực Đông/Bắc Âu - Tây Ural (tương ứng với lãnh thổ củaKievskaĭa Rus’) mà có quan hệ genetic với một số dân tộc [nói những thứ
tiếng] Finno-Ugric hiện nay sống trên địa bàn này, bao gồm (thí dụ) người
Estonian, người Karelian, người Vepsian, người Komi v.v...
[40]Sineus và Truvor: hai người em của Rĭurik (xem chú thích [37]) đã, cùng với
Rĭurik, được các bộ lạc Đông Slav và Finnic mời đến vùng đất Rus’ để định cư và cai trị, theo ghi chép
của Chuyện kể thời quá vãng (Povest’ vremennykh let,
xem chú thích [36]). Sau khi lên làm knĭaz’ ở
Novgorod ,
Rĭurik đã “bổ nhiệm” Sineus và Truvor đến cai quản hai thành bang khác là Beloozer và Izborsk. Cái chết ngay sau đó của cả hai người em đã
khiến Rĭurik thâu tóm toàn bộ quyền hành trên các lãnh địa do Novgorod chi phối. Tuy nhiên, một số chuyên
gia sử học về châu Âu trung đại cho rằng ‘Sineus’ và ‘Truvor’ thực sự không tồn
tại với tư cách là hai nhân vật lịch sử. Họ lập luận rằng, trong khi tham khảo
thư tịch Scandinavia để biên soạn tập sử ký đầu tiên của Nga La Tư, tác giả của
công trình đã hiểu nhầm văn bản tiếng Norse (ngôn ngữ Bắc Âu thời Trung Cổ,
thuộc tiểu ngữ tộc Germanic): thông tin “Rĭurik đi đến [đất Slav] ‘sine hus’
(cùng với nhà) và ‘tru voring’ (với người vệ sĩ trung thành)” đã được thất dịch
thành “Rĭurik đi đến cùng với Sineus vàTruvor,” anh em với
Rĭurik. Dầu vậy, sự tồn tại của bản thân Rĭurik được cho là hiện thực với xác
suất cao, tuy nhân vật này đã được folklore hóa. (Theo Đại toàn thư Liên Xô ‘БСЭ’và Wikipedia.)
[41]Một trích đoạn từ Chuyện kể thời quá vãng (xem chú thích [36]). Văn bản Povest’ vremennykh let vốn được thể hiện bằng ngôn ngữ Đông
Slav trung cổ - từ hình thức văn tự, từ vựng, ngữ pháp cho đến phong cách hành
văn. Trong bài viết nguyên bản, khi dẫn ra trích đoạn này Likhachëv đã phiên tả
(transliterate) cổ tự Slav sang văn tự Cyrillic Nga hiện đại, vẫn giữ nguyên
trạng những yếu tố từ vựng / ngữ pháp, song chua kèm những chú thích inline
trong ngoặc đơn như đã dịch thuật. Về nội dung của trích đoạn, nhiều sử gia
nhận định rằng tình tiết dân Slav và Finnic bản xứ “thỉnh cầu” một người dị
chủng là Rĭurik trở thành lãnh chúa của mình là một sự kiện bất thường theo
lô-gích lịch sử. Sự thật được phán đoán theo hướng: Rĭurik nguyên là thủ lĩnh
một băng đảng ngườiVarangia, - sắc tộc
ngụ cư gốc Scandinavia ưa mạo hiểm, có bản lĩnh và thiện chiến, sinh sống chủ
yếu bằng nghề cướp bóc trên tuyến mậu dịch “từ xứ Varangia đến Hy Lạp” -, trong
lúc các thành bang Đông Slav mải xâu xé lẫn nhau, đã thừa cơ cướp chính quyền ở
Novgorod, tái lập trật tự rồi gây dựng cơ nghiệp thành một thế lực nhà nước.
Vậy tại sao Rĭurik lại trở thành một nhà cai trị “được mời”? Một lô-gích khả dĩ
là: triều đình Rĭurikovich, do huyết thống Scandinavia của tôn thất, đã quyết
định không chỉ chính sách đối ngoại thân Scandinavia củaKievskaĭa Rus’ mà
còn cả mong muốn tô vẽ cho tổ tiên của mình thông qua sử quan của triều đình là
thầy tu Nestor, soạn giả củaPovest’ vremennykh let.
[42]“Sophia - Thánh Trí của Thiên Chúa”:
‘Sophia’ là sự rút gọn của ‘Aya Sophia’, một cách Roman hóa từ tổ tiếng Hy Lạp
‘Aγία Σοφία’ có nghĩa là “sự Sáng suốt Thần thánh” hay “Thánh Trí” (tiếng Latin
‘Sancta Sophia’, tiếng Anh ‘Holy/Divine Wisdom’, tiếng Nga ‘Айя София’ [Aĭĭa
Sofiĭa] hoặc ‘Святая Премудрость’ [Svĭataĭa Premudrost’]). ‘(Aya) Sophia’ là tư
tưởng thần học Ki-tô giáo cho rằng Chúa tự thân là sự Sáng suốt toàn thiện từng
được thấy. Từ ‘Σοφία’ [Sophia] - “sự Sáng suốt” - được gặp trong bản tiếng Hy
Lạp (‘Hy văn’) của các thánh thư, cả Cựu ước(Old Testament) và Tân ước (New Testament).
Trong kinh văn Tân ước, ‘Sophia’ được dùng với ba nghĩa: (1) nghĩa
rộng thông thường của “sự sáng suốt” / “sự hiểu biết”, (2) sự tiết ước thông
thái mà Chúa biểu hiện khi sáng tạo ra thế giới / Thiên Ý của Chúa về thế giới
/ sự cứu rỗi thế giới khỏi tội lỗi, và (3) mối liên hệ với Chúa Con - tức
Giê-su Ki-tô (tiếng Anh Jesus Christ) - như là ‘tính Thông tuệ của một Thân vị
Ba Ngôi’ (the Hypostatical Wisdom)
của Chúa. Những triết giảng về ‘(Aya) Sophia’ được gọi là sophiology, một
phân môn của thần học Ki-tô giáo (Christian theology).
Nhiều nhà thần học gọi ‘(Aya) Sophia’ là một “thần cách” (deity, một sự mở rộng của - và phân biệt / đối lập với
- “nhân cách”, personality) của Chúa. Trên hiện trường tiếng Anh,
không hiếm khi các giáo đường Sophia được gọi là ‘Saint (hoặc St. )
Sophia Cathedral/Church’. Đây là một sự thất dịch: ‘sophia’ không phải là tên
của một thánh (saint) nào, mà là
một từ Hy Lạp mang nghĩa “sự sáng suốt”. Trong tiếng Nga, các giáo đường Sophia
được gọi là ‘храм Софии’ [khram Sofii] / ‘Софийский собор’ [Sofiĭskiĭ sobor],
hoặc đầy đủ hơn, ‘храм Софии / Софийский собор - Святой Премудрости Божьей’
[... - Svĭatoĭ Premudrosti Bozh’eĭ] (“nhà thờ / thánh đường Sophia - Thánh Trí
của Thiên Chúa”).
[43]Maksim Gor’kiĭ (1868-1936): xem tiểu sử chi tiết
trong Phẩm tính trí thức (phụ
lục).
[44]NKVD: viết tắt theo tiếng Nga của “Ủy hội
nhân dân (hay Dân ủy hội) về nội vụ” (Narodnyĭ komissariat
vnutrennikh del ),
bộ máy công an / cảnh sát của chính quyền Xô-viết, trực thuộc “Hội đồng các ủy
viên nhân dân” (Sovet narodnykh komissarov hay Sovnarkom, de facto1 chính
phủ) Liên Xô. Các tên gọi kiểu này được sử dụng từ sau Cách mạng tháng Mười Nga
cho đến đầu năm 1946. Từ tháng 3 năm 1946, NKVD trở thành “Bộ nội vụ” (Ministerstvo vnutrennikh del ,
MVD) thuộc “Hội đồng bộ trưởng” (Sovet ministrov, Sovmin) Liên Xô.
Trong một vài giai đoạn, NKVD / MVD bao gồm trong thành phần của nó cả cơ quan
mật vụ - tình báo của Liên Xô (GPU / OGPU / KGB - xem thêm chú thích [35]).
Thời Stalin, danh xưng NKVD / MVD - cùng với [O]GPU / KGB - gắn liền với các
hoạt động đàn áp / khủng bố / tàn sát chính trị. Dưới gậy chỉ huy của Stalin,
NKVD là lực lượng thừa hành trong các chiến dịch “Đại thanh trừng” (t. Nga Bol’shaĭa chistka,
t. Anh Great Purge) hung bạo và đẫm máu hồi cuối thập niên
1930. NKVD / MVD cũng là cơ quan cấp trên của “Tổng cục các trại lao động cải
tạo” (GULAG, 1930-1960) khét tiếng vì sự ngược đãi tù nhân và những vi phạm
nghiêm trọng đối với quyền con người. Theo các tài liệu lưu trữ Xô-viết đã được
giải mật, chỉ riêng trong hai năm 1937-38, NKVD đã bắt giam trên 1,5 triệu
người; 7 trăm nghìn trong số đó đã bị bắn (trung bình mỗi ngày có 1 nghìn vụ
hành quyết!) Trong khoảng thời gian 1930-1956, các trại (lager’) và khu quần cư (koloniĭa) lao động cải huấn GULAG - thực chất là các
nhà tù lớn bé - trên khắp lãnh thổ Liên Xô đã giam cầm đầy đọa 18-20 triệu
người, khoảng 1,6 triệu người trong số đó đã bị giết hại. Các con số chính thức
này được cho là dưới mức sự thật. Trong số các nạn nhân / tù nhân của Ðại thanh
trừng và GULAG, thậm chí có cả những cán bộ lãnh đạo của chính NKVD và GULAG.
Thủ trưởng của NKVD / MVD trong mọi thời gian luôn luôn là những nhân vật cao
cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhà lãnh đạo khét tiếng nhất của NKVD / MVD có
lẽ là Lavrentiĭ Beriĭa (1899-1953), thủ hạ thân tín của Iosif Stalin và một
trong những kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp đối với Ðại thanh trừng và GULAG.
Theo version chính thức, sau khi Stalin chết (1953), Beriĭa đã bị bắt ngay
trong phòng họp của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô rồi bị xử bắn vào tháng
12 năm 1953. Gần đây, vào tháng 5 năm 2000, khi gia đình Beriĭa đệ đơn đòi đảo
ngược cáo trạng năm 1953 đối với thân nhân của mình - viện dẫn một đạo luật
liên bang về việc phục hồi danh dự cho nạn nhân của các vụ án chính trị trong
quá khứ -, Tòa án Tối cao Nga đã bác đơn với phán quyết: “Beriĭa là người tổ
chức sự đàn áp chống lại nhân dân, vì vậy không thể được coi là một nạn nhân”.
[45]Lev Nikolaevich Gumilëv (1912-1992): nhà sử học nhân chủng,
người sáng lập “lý thuyết độ đam mê” (tiếng Nga teoriĭa passionarnosti,
tiếng Anh passionarity theory) trong tộc nguyên học (bộ môn khoa
học về nguồn gốc các chủng tộc), đồng thời là nhà triết học, nhà thơ, dịch giả
từ tiếng Fârsi (ngôn ngữ của người Iran ). Xem tiểu sử chi tiết về L.
N. Gumilëv trong Phẩm tính trí thức (phụ
lục).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét