Khi được hỏi tại sao cả đời lại theo đuổi một nghành khoa học vừa khó, vừa khổ,
lại vừa khô, nữ Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam, nhà trí thức có uy tín
và hiện đương nhiệm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN trả
lời rằng: Đời phải có khó khăn để ta vượt qua thì nó mới là đời. Cho nên không
phải gọi là khó bởi vì đó là điều tất nhiên ở trong cuộc sống. Khó không phải
là khổ. Khó để ta phải vượt thôi.
GS.TSKH NGND
Hoàng Xuân Sính kể: “Dường như Toán học đã chọn tôi, cho nên tôi không có duyên
với khoa học xã hội. Thi Tú tài xong, tôi xin phép học tiếng Anh để đi làm báo.
Lúc đó, tôi định sang Thụy Sĩ có trường dạy làm phóng viên. Trường đó rất
nghiêm khắc. Một tuần học 70 tiếng, trình độ tiếng Anh phải rất giỏi. Ở Pháp có
lệ, học sinh chưa đến tuổi thành niên muốn vào đại học khoa gì thì phải có giấy
chứng nhận đã được sự đồng ý của bố mẹ. Tôi không được bố mẹ đồng ý mà bị “lôi
cổ” về học toán. Thân phụ tôi chủ trương yêu nước là phải làm việc gì thật cụ
thể, là toán lý hóa thuộc khoa học tự nhiên chứ không phải khoa học xã hội,
không phải báo chí”.
1. Thân phụ của
GS Hoàng Xuân Sính là cụ Hoàng Thúc Tấn, một trong những thành viên sáng lập
Báo Thanh Nghị nổi tiếng trước cách mạng tháng Tám 1945. Từ thuở các con cắp
sách đến trường, cụ đã "dạy thêm" ở nhà theo kiểu các cụ đồ Nho giảng
bài. Đó là gương các anh hùng cứu nước rồi đến những người học giỏi xưa và nay…
Trong một bài
viết của mình, GS Hoàng Xuân Sính nhớ lại: "Còn nhỏ, nhưng với kiểu dạy
của cha tôi, tôi đã làm quen với hệ thống "trường lớn" (Grandes
Ecoles) của Pháp. Cha tôi muốn tôi hiểu hệ thống học đó để có lòng tự hào của
một người Việt Nam đối với một người Việt Nam học giỏi đã đỗ vào những trường
lớn mà, theo lời cha tôi kể, một thực dân cỡ bự đã nói: cứ để cho bọn An Nam
chúng thi vào các Grandes Ecoles để chúng hiểu thế nào là học".
Một trong số
những nhà trí thức lớn thời đó nổi danh học giỏi từ thời sinh viên là nhà giáo,
nhà toán học Hoàng Xuân Hãn đã được cụ Hoàng Thúc Tấn coi như một tấm gương để
giáo dục các con.
***
Năm 18 tuổi, học
rất giỏi nên Hoàng Xuân Sính được người cậu ruột là Nguyễn Văn Phúc đón sang
học ở Trường Toulouse ở miền Nam
nước Pháp. Lúc đó, ông Phúc đang làm việc tại cơ sở sản xuất máy bay của tỉnh
Toulouse, cơ sở sản xuất máy bay dân dụng lớn nhất của Pháp. Ông cũng chính là
kỹ sư Việt Nam
phụ trách việc tính toán kết cấu máy bay Caravelle (Pháp) là máy bay dân dụng
đầu tiên trên thế giới mới được sản xuất. Sau đó, ông tiếp tục tham gia thiết
kế chế tạo máy bay Concord - máy bay phản lực siêu âm đầu tiên trên thế giới,
sản phẩm hợp tác giữa hai nước Pháp và Anh. Sau khi Việt Nam thống nhất hai miền đất nước,
ông Nguyễn Văn Phúc cũng là Việt kiều đầu tiên giúp nước nhà sản xuất máy bay
HL-1 và HL-2.
Sau khi tốt
nghiệp Đại học Toulouse, Hoàng Xuân Sính quyết định thi Thạc sĩ Toán học, một
cấp học rất khó vì ở đại học Toulouse nhiều người đã học đến bạc đầu nhưng hồi
ấy không ai đậu Thạc sĩ. Còn như lời bà kể, ở Pháp trước đây các kỳ thi Thạc sĩ
phần lớn dành cho dòng họ Mari Quyri và Lănggiơvanh tham dự. Biết bao năm ở
tỉnh Toulouse
không có người nào đỗ được thạc sĩ toán, nhất là đối với phụ nữ lại càng là
điều không ai nghĩ tới. Song với quyết tâm và bền bỉ ôn luyện Hoàng Xuân Sính
đã đậu Thạc sĩ (aggregation) năm 26 tuổi. Đó là vinh dự cùng với niềm tự hào
không chỉ cho bà, cho những người Việt Nam
xa xứ, mà còn cho cả Đại học Toulouse .
Khi con đường và
tương lai khoa học ở Pháp rộng mở cho bà với những hứa hẹn tốt đẹp, thì bà lại
chọn con đường của rất nhiều trí thức yêu nước đã ra đi: trở về với nguồn cội.
"Tháng
8/1959, tôi đang băn khoăn nên ở lại Pháp hay về nước, giữa lúc đó, một sự việc
khá bất ngờ đến với tôi. Tờ báo "Khoa học thường thức" xuất bản ở Thủ
đô Hà Nội đã đưa tin tôi đậu Thạc sĩ Toán học ở Paris .
Đọc dòng tin
nóng hổi trên tờ báo từ Tổ quốc gửi sang, lòng tôi bồi hồi xúc động. Tổ quốc
đang từng ngày từng giờ theo dõi những hoạt động và vui mừng với những thành
công nhỏ của những đứa con đi xa như bà mẹ hiền chăm chú theo dõi từng bước đi
chập chững của đứa con nhỏ thân yêu. Tự nhiên, trước mắt tôi, hình ảnh Tổ quốc
hiện lên mỗi lúc một rõ nét. Bao nhiêu ý niệm xa xưa lần lượt hiện về trong trí
nhớ… Tôi xúc động nhớ lại hôm nào Bác đến thăm trường, lúc đó tôi mới chỉ là cô
bé 12 tuổi bé bỏng, ngây thơ. Tôi cùng các bạn ùa ra đón Bác, vây quanh lấy Bác
như đàn chim non gặp mẹ. Và rồi từ đó hình ảnh Bác Hồ mãi mãi bên tôi, động
viên khuyến khích tôi đi lên, vượt qua hết khó khăn này đến gian khổ khác và
trên đất Pháp, tôi lại được ghi thêm lời dạy của Bác đối với anh chị em Việt
kiều: "Mỗi người cố học giỏi lấy một nghề, sau này trở về phục vụ nhân
dân"…
Giờ đây, tôi đã
có nghề, đất nước đang cần có thêm bàn tay khối óc của những đứa con thân yêu.
Và cũng mấy năm nay, từ trên đất Pháp nhiều anh chị em trí thức đã trở về Tổ
quốc sát cánh cùng nhân dân xây dựng đất nước…
Không đắn đo,
suy nghĩ gì khác nữa. "Trở về", tôi dứt khoát quyết định. Thế là ba
tháng sau khi nhận bằng Thạc sĩ Toán học, tôi lên đường trở về đất nước, hành
lý mang theo chỉ là hai chiếc va li đựng đầy sách vở cần thiết và một số quần
áo thường dùng của hai mẹ con. Lòng thanh thản, tôi bước chân lên máy bay từ
giã nước Pháp cổ kính trở về theo tiếng gọi Tổ quốc, tiếng gọi của Bác
Hồ".
2. Về Việt Nam ,
bà đã chọn công tác tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ phương Tây - chân
trời tri thức trở về, nhưng bà không hề tự kiêu cho rằng đã đủ kiến thức giảng
dạy mà luôn chịu khó "tầm sư học đạo". Bà dự các bài giảng về
"Lí thuyết tập hợp" của GS Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, cho tất cả các cán bộ giảng dạy về toán của các trường
đại học đóng ở Hà Nội vào mỗi sáng chủ nhật trong những ngày cuối xuân sang hè
năm 1960.
Chiến tranh
chống Mỹ, phải sơ tán, cô giáo Hoàng Xuân Sính cũng như bao anh em khác, gần
như sống cách biệt với thế giới bên ngoài. Các tạp chí toán học chuyên ngành
thật ít ỏi và thường đến muộn, cô thật khó mà nắm bắt được những hướng nghiên
cứu mới có nhiều triển vọng và hợp với sở trường của mình. Nhưng với sự giúp đỡ
nhiệt tình của một tập thể giáo viên giàu kinh nghiệm ở Khoa Toán - Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là GS Ngô Thúc Lanh - Chủ nhiệm Khoa và cái tình
của sinh viên đã nuôi trong bà ngọn lửa công việc giúp bà vượt qua rất nhiều
khó khăn.
Trong một bài
báo mang tên Vài lời về ông Laurent SCHWARTZ, GS Bùi Trọng Liễu đã viết:
"Vào lúc bắt đầu Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, một bữa tôi nhận được thư
của bà Hoàng Xuân Sính từ Hà Nội, yêu cầu tìm cho bà mấy tập kỉ yếu xê-mi-na về
"Thuyết phạm trù" của ông C. Chevalley, cũng là nhà toán học nổi
danh. Tôi không quen ông này nên nhờ bà Schwartz hỏi hộ. Từ bà sang đến ông, từ
ông sang đến ông Chevalley, rồi lan sang đến người khác, các ông bà ngạc nhiên
hỏi tôi sao dưới bom đạn như vậy mà vẫn còn một đời sống khoa học, vẫn có người
nghiên cứu, vẫn có người soạn luận án... Các ông bà đề nghị hỗ trợ sách báo,
tài liệu, dụng cụ,… để đời sống khoa học tiếp tục tồn tại và phát triển dưới
bom đạn, (mà theo tôi, nó chứng tỏ một sự quyết tâm tồn tại trước sự áp đảo của
kẻ cậy mạnh). Đây quả là một hình thức đấu tranh tinh tế (subtil), nhẹ nhàng
nên dễ huy động đông đảo, góp phần tuyên truyền đấu tranh cho hòa bình, mà lại
thực tế".
Chính trong
những lúc khó khăn gian khổ khi đi sơ tán tránh máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, đề
tài "GR - Phạm trù" của Hoàng Xuân Sính đã được hình thành và hoàn
thiện… Một làng trung du bên bờ con sông Đáy nước chảy lặng lờ. Giá rét thấu
qua vách liếp đan thưa, lắm kẽ hở. Ngọn đèn dầu lung lay trước từng đợt gió mùa
đông bắc bổ sung thổi về. Những cơn mưa phùn dầm dề dai dẳng buốt xương. Cô
giáo Hoàng Xuân Sính khoác tấm chăn chiên mỏng mầu xám xỉn, ghi lại những ý
nghĩ mới nảy sinh trong đầu thành từng dòng, từng trang luận án... Bản luận án
Tiến sĩ Toán học Quốc gia hình thành dần dưới ánh đèn dầu!
Bản luận án hình
thành dần dưới ánh đèn dầu của làng quê Việt Nam ấy đã được bà mang sang thủ đô
nước Pháp để bảo vệ học vị Tiến sĩ Toán học Quốc gia vào một buổi chiều
tháng 5/1975.
Cuộc bảo vệ luận
án của Hoàng Xuân Sính, được tiến hành trước đông đảo các giáo sư, tiến sĩ, các
nhà khoa học Pháp và giới trí thức Việt kiều tại Trường Đại học Paris VII
(Université Paris 7) thuộc hệ thống các Trường Đại học Sorbonne nổi tiếng thế
giới. Hội đồng chấm luận án, theo lời GS Bùi Trọng Liễu, một Ban giám khảo toàn
các nhà toán học trứ danh của Pháp thời đó: Chủ tịch hội đồng gồm có GS Vécđiê
(Verdier), VS Hăngri Cáctăng (Henri Cartan) Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
và GS Alếchxăngđrơ Grôtenđic (Alexander Grothendieck) hai người sau cùng được
tặng Huy chương Fields (Fields Medal) -
Trong hai tiếng rưỡi đồng hồ, Hoàng Xuân Sính bảo vệ bản luận án thứ nhất: Gr phạm trù! Ngay sau đó cô bảo vệ tiếp bản luận án thứ hai: Cái nhúng của một phức một thứ nguyên vào một đa tạp vi phân hai thứ nguyên. Bản luận án thứ hai này, bà phải thực hiện tại
Hoàng Xuân Sính
đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án "Gr - Phạm trù" của mình. Năm
ấy bà 41 tuổi. Những giọt nước mắt hạnh phúc nóng hổi của bà và bà con Việt
kiều chan hòa. Trí tuệ Việt Nam
lại tiếp tục được khẳng định trên đất Pháp. Hoàng Xuân Sính trở thành người phụ
nữ nước ngoài đầu tiên đến Paris
bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Toán học. Đó là ngày vinh quang và hạnh phúc
nhất trong cuộc đời bà.
Khi trả lời
phỏng vấn Tạp chí Phụ nữ Liên Xô (8-1975), Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính đã
nói lên niềm mơ ước của mình: "Tôi muốn góp phần đào tạo một lớp các nhà
toán học trẻ ở đất nước tôi. Hiện nay, nhiều sinh viên đại học và cả các nhà
nghiên cứu toán người Việt Nam
còn phải ra nước ngoài bảo vệ luận án của mình. Chúng tôi muốn xây dựng một hệ
thống toán học ở trình độ cao, hoàn chỉnh, ở ngay trong nước".
***
Người ta vẫn cho rằng toán học là một ngành
khoa học "vừa khó, vừa khổ, lại vừa khô" cho nên không phù hợp với
nữ. Vậy tại sao bà lại gắn bó với Toán học suốt cả cuộc đời như vậy?
Vừa nghe xong
câu hỏi của tôi, GS.TSKH.NGND Hoàng Xuân Sính đã xua tay:
- Nhận xét đó có
phần đúng, nhưng không đúng hoàn toàn. "Khó" và "khổ" thì
đương nhiên rồi? Khó thì đó là chuyện đời. Chuyện ở đời thì ai mà chả gặp khó
khăn hả em? Tôi còn nhớ có một ông nói với tôi điều này mà tôi thấy rất là hay.
Ông ấy bảo: Nếu chúng ta gọi khó là một cái khó thì không đúng. Đời phải có khó
khăn để ta vượt qua thì nó mới là đời. Cho nên không phải gọi là khó bởi vì đó
là điều tất nhiên ở trong cuộc sống. Khó không phải là khổ. Khó để ta phải vượt
thôi.
Kiều Mai Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét