Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày nhân quyền thế
giới 10/12, TTXVN giới thiệu tóm lược bài viết của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn
Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
về tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là sự quan tâm của những người cầm quyền ở mỗi quốc gia, mà còn là một đòi hỏi cơ bản của quyền con người, là nhu cầu tinh thần trong tiến trình tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin. Song, trong một thể chế chính trị cụ thể, nội hàm của tự do ngôn luận, tự do báo chí được hiểu khác nhau do cách tiếp cận khác nhau, thậm chí do những động cơ chính trị đối lập của các nhóm lợi ích khác nhau.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là sự quan tâm của những người cầm quyền ở mỗi quốc gia, mà còn là một đòi hỏi cơ bản của quyền con người, là nhu cầu tinh thần trong tiến trình tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin. Song, trong một thể chế chính trị cụ thể, nội hàm của tự do ngôn luận, tự do báo chí được hiểu khác nhau do cách tiếp cận khác nhau, thậm chí do những động cơ chính trị đối lập của các nhóm lợi ích khác nhau.
1. Quan niệm chung về tự do ngôn luận, tự
do báo chí
Tự do ngôn luận, tự do báo chí là một
trong những mục tiêu phấn đấu cơ bản của con người nhằm giành cho mình quyền
được thông tin, trao đổi, giao tiếp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của con
người một cách công khai thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Cùng với sự phát triển của ngành in, gồm
chế tạo ra máy in (1810), mực in (1814), sự ra đời của báo viết ở phương Tây
gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, nhằm phổ biến tư tưởng dân chủ tư
sản, chống lại sự thống trị hà khắc của chế độ phong kiến, góp sức thúc đẩy
phát triển khoa học-kỹ thuật và xây dựng xã hội công dân trong các nước châu
Âu. Như vậy, báo chí ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của một chế độ chính
trị-xã hội; trước đòi hỏi của một giai cấp, giai tầng xã hội cần thiết có một
công cụ báo chí chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của mình trước những vấn đề mà
cả xã hội cùng quan tâm. Nói cách khác, nhu cầu tự do ngôn luận cũng chính là
nhu cầu tự do báo chí.
Trong quá trình hình thành và phát triển của
chủ nghĩa tư bản, với sự xuất hiện và phát triển của báo chí qua hàng trăm năm,
đến nay, có thể khẳng định báo chí có mấy chức năng chủ yếu: chức năng thông
tin; chức năng phản ánh; chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định hướng dư
luận xã hội; chức năng nâng cao dân trí; chức năng giải trí…
Với những chức năng thiết yếu đó, báo chí
ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là vai
trò định hướng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy, “tự do báo chí”
cũng phải nhằm phục vụ cho sự phát triển đó. Nhưng, cũng có một thực tế cần
được làm sáng tỏ là, có những tổ chức, những nhóm người thường núp dưới danh
nghĩa “tự do báo chí” để chống lại sự phát triển của xã hội, bảo vệ những cái
đã lỗi thời so với đà tiến lên của lịch sử loài người, gieo rắc thói hư tật
xấu, tệ nạn xã hội nhằm thực hiện những mưu đồ cá nhân, bảo vệ lợi ích của một
thiểu số người, đi ngược lại xu thế tiến bộ chung của xã hội. Vậy, “tự do báo
chí” cần được hiểu đúng và thực hiện đúng như thế nào?
Như nhiều người đã rõ, báo chí ra đời
trong xã hội tư bản, được thiết kế trên nền tảng tư tưởng dân chủ tư sản, nhằm
chống lại sự cản trở của chế độ phong kiến. Đó là bước tiến bộ lớn của lịch sử.
Trong một chế độ chính trị có Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì mọi
lĩnh vực hoạt động trong xã hội phải tuân theo pháp luật. Vì vậy, hoạt động báo
chí không thể nằm ngoài yêu cầu đó. Nhưng pháp luật trong chế độ tư bản là sự
thể hiện ý chí của giai cấp tư sản. Họ sử dụng bộ máy nhà nước để duy trì trật
tự xã hội vì lợi ích của giai cấp tư sản chiếm số ít trong dân cư. Vì vậy,
không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí thuần túy nằm ngoài sự kiểm soát
của nhà nước tư sản. Người ta hình như cố tình quên đi đặc điểm này để chỉ
trích nước này, nước nọ; trong khi chính ở nước họ đã và đang diễn ra không ít
hành động vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Cần khẳng định rằng, muốn có tự do báo chí
theo nghĩa chân chính, phải trên nền tảng một xã hội dân chủ; mọi hoạt động của
báo chí phải phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân. Không thể có tự do báo chí
trong một xã hội độc tài, phát xít, chuyên quyền, độc đoán. Những kẻ đóng cửa
tất cả các tờ báo tiến bộ chống phát xít (như chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu)
thì không bao giờ có tự do báo chí, tự do ngôn luận vì lợi ích chính đáng của
nhân dân.
Lịch sử cận đại đã chứng minh rằng, không
có tự do báo chí khi bọn thực dân thi hành chính sách phân biệt đối xử, nhằm nô
dịch các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trong vòng tăm tối. Với mưu toan ấy, họ
dùng mọi thủ đoạn hủy hoại các di sản văn hoá của cả một dân tộc. Hítle đã cướp
bóc các tranh tượng, tác phẩm nghệ thuật của cả châu Âu về phục vụ riêng mình.
Trong các chế độ độc tài, vai trò tiến bộ của báo chí đã bị loại bỏ. Những tờ
báo chỉ được tiếp tục xuất bản, nếu tỏ rõ ý thức phục vụ vô điều kiện sự tồn
tại của chính quyền độc tài, chuyên chế, phát xít đó…
Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản,
giai cấp tư sản mới ra đời chống lại giai cấp phong kiến, báo chí tuyên truyền
cho tư tưởng dân chủ tư sản, pháp luật tư sản, có tác dụng tích cực, cổ vũ việc
xây dựng xã hội dân chủ tư sản. Tuy nhiên, khi giai cấp tư sản đã thiết lập
được quyền thống trị của họ, thì pháp luật về báo chí lại là công cụ đắc lực
phục vụ quyền lợi cho một thiểu số bóc lột. Để bảo vệ sự thống trị của mình,
giai cấp tư sản đã xếp các loại báo bảo vệ chế độ tư bản là báo chí “tiến bộ”;
còn lại các tờ báo nói lên tiếng nói phản kháng của số đông nhân dân thì họ
liệt vào loại “phản động.”
Các tờ báo của giai cấp công nhân mới bước
lên vũ đài chính trị, cổ động cho một xã hội không có người bóc lột người, cũng
đều bị coi là phản động! Chính quyền tư sản ban hành các đạo luật khắt khe;
trong đó có các đạo luật về báo chí, quy định những điều cấm kỵ. Người ta có
thể tha hồ nói, tha hồ viết về tất cả mọi vấn đề, nhưng có một nội dung không
được động chạm đến, đó là “quyền tư hữu”, vì theo Hiến pháp họ soạn thảo, “tư
hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.” (!)
Thực tiễn nêu trên cho thấy, khi giai cấp
cầm quyền còn đóng vai trò tiến bộ của lịch sử, tự do ngôn luận, tự do báo chí
có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Và ngược lại, khi giai cấp
cầm quyền đã là vật cản bước tiến của xã hội thì “tự do báo chí” không thể nào
có được, theo đúng nghĩa của cụm từ này. Với sự phân tích các điều kiện chủ
quan, khách quan trong bất cứ chế độ chính trị-xã hội nào, có thể khẳng định
rằng, không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí thuần túy; càng không thể có
thứ “tự do báo chí tuyệt đối” như giai cấp tư sản rêu rao.
2. Phải chăng xã hội tư bản là hình mẫu
của “tự do báo chí?”
Trong xã hội tư bản, báo chí hoạt động
trong môi trường của pháp luật tư sản. Cái mà họ gọi là “tự do báo chí” đã bị
cắt xén để phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Xin nêu vài ví dụ tiêu biểu:
Theo quy định của Hiến pháp Mỹ thì Quốc
hội không có quyền ban hành bất cứ văn bản nào nhằm hạn chế tự do báo chí, tự
do ngôn luận. Tuy nhiên, đến năm 1798, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Phản
loạn quy định “việc viết, in, phát biểu hay phổ biến… mọi văn bản sai sự thực,
có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội.”
Bên cạnh đó, Điều 2385 Chương 115 - Bộ
luật Hình sự Mỹ, nghiêm cấm mọi hành vi “in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh,
truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết
hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự
cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ
chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực.”
Cũng theo Hiến pháp Mỹ thì Tòa án tối cao
được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá
hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân. Vì thế, hàng
năm có hàng trăm các văn bản lớn nhỏ khác nhau được Tòa án tối cao ban hành để
điều hành và kiểm soát báo chí ở Mỹ. Ngoài ra, theo Hiến pháp của các bang,
việc truy tố đối với tội lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng
được coi là hợp pháp.
Luật pháp của các nước khác, về nguyên tắc
cũng công nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng không coi quyền này
là “tự do tuyệt đối.” Điều 36 Hiến pháp Cộng hòa Kyrgyzstan mặc dù tuyên bố
“truyền thông tự do,” nhưng đã cụ thể hóa tuyên bố này trong Điều 17: “Hiến
pháp và Luật của nước Cộng hòa Kyrgyzstan hạn chế đối với việc thực hiện các
quyền và quyền tự do được cho phép chỉ trong trường hợp nhằm đảm bảo quyền và
tự do của người khác, đảm bảo an toàn và trật tự xã hội, toàn vẹn lãnh thổ và
bảo vệ trật tự hiến pháp.
Nhưng trong quá trình thực hiện, tinh thần
về các quyền và các quyền tự do hợp hiến không được phép bị ảnh hưởng.” Điều 8
Hiến pháp Senegal
thừa nhận việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, song cũng coi
các quyền này là “đối tượng điều chỉnh và bị hạn chế bởi luật và các quy định
pháp luật.” Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung “Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền” (năm 194 8) của Liên hợp quốc đã được khẳng định tại Điều 29: “Mỗi
người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do
cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm
việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp
với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung
trong một xã hội dân chủ.”
Những ví dụ nêu trên cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền “tự do báo chí,” “tự do ngôn luận” là tuyệt đối.
Những ví dụ nêu trên cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền “tự do báo chí,” “tự do ngôn luận” là tuyệt đối.
3. Tự do báo chí ở Việt Nam
Trên phương diện pháp lý, tất cả các bản
Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều có những quy định về tự do ngôn
luận, tự do báo chí và khẳng định đây là một trong những quyền cơ bản nhất của
con người, của mọi công dân. Ở mỗi bản Hiến pháp, nội dung này được kế thừa và
phát triển phù hợp từng điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta.
Một lý do thường được những kẻ thiếu thiện
chí đem ra “làm cớ” để phê phán ta “không có tự do báo chí,” chính là “ở Việt
Nam không có báo chí tư nhân” (!). Phải chăng họ cố tình lờ đi rằng, trong
những năm qua, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển nhanh về số lượng, loại
hình, ấn phẩm, đội ngũ những người làm báo, số lượng công chúng, cơ sở vật chất
kỹ thuật, công nghệ, năng lực tài chính cũng như sự tác động và ảnh hưởng xã
hội tích cực của các cơ quan báo chí, truyền thông đều tăng nhanh. Hầu hết các
bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, các giai cấp, giai tầng,
các hội nghề nghiệp, các giới, các tôn giáo lớn, các thành phần trong xã hội
đều có tờ báo của mình.
Tính đến tháng 2/2013, cả nước có 812 cơ
quan báo in với 1.084 ấn phẩm, trong đó 197 cơ quan có báo (gồm 84 báo chí
Trung ương, 113 báo địa phương); 615 cơ quan có tạp chí (488 tạp chí Trung ương
và 127 tạp chí địa phương). Toàn quốc có 67 đài phát thanh-truyền hình Trung
ương và địa phương; trong đó có 2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số,
64 Đài phát thanh-truyền hình cấp tỉnh, 172 kênh chương trình phát thanh và
truyền hình quảng bá (99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh). Ngoài hệ thống
truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở nước ta phát triển mạnh
bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn như cáp, vệ tinh, số mặt đất và đang bước
đầu thử nghiệm công nghệ IPTV.
Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước
có 74 báo, tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử tổng
hợp. Hội Nhà báo Việt Nam quản lý hơn 19.000 hội viên; trong đó gần 17.000 nhà
báo đã được cấp thẻ hành nghề đang làm việc tại hàng trăm cơ quan báo chí từ
trung ương đến địa phương, luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để mọi
nhà báo hoạt động tự do, sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật.
Ở Việt Nam, báo chí đã thật sự là cơ quan
ngôn luận của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghệ nghiệp; là
diễn đàn và công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích và quyền tự do của các tầng lớp
nhân dân. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện vọng, phát biểu và đóng góp
ý kiến trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, trong đó có báo chí. Đồng thời, khi tham gia sinh hoạt, hoạt
động ở tổ chức nào, họ đều có ấn phẩm báo chí của tổ chức đó nhằm đáp ứng mọi
nhu cầu và bảo đảm quyền được thông tin của mình. Chính vì lẽ đó, đông đảo các
giai cấp, giai tầng xã hội ở Việt Nam tự thấy không có nhu cầu xuất
bản báo chí tư nhân.
Từ ngày Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, vấn đề tự do, công khai, minh bạch
thông tin từng ngày càng được Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho
các phương tiện truyền thông đại chúng hành nghề. Một trong những hoạt động
được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao là hơn hai thập kỷ qua, các đài
phát thanh, truyền hình đã thường xuyên truyền hình trực tiếp các buổi chất vấn
của đại biểu Quốc hội dành cho các thành viên Chính phủ, kể cả Thủ tướng.
Mấy năm qua, báo chí lại tường thuật trực
tiếp các kỳ họp chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Những kỳ họp của Hội
đồng Nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước được tường thuật trực tiếp các
cuộc trả lời chất vấn dành cho các thành viên hội đồng nhân dân. Thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI), tất cả các Bộ trưởng đều nghiêm túc thực hiện
nhiệm vụ “Dân hỏi-Bộ trưởng trả lời” trong những buổi giao lưu trực tuyến
thường xuyên.
Nhiều năm qua, Chính phủ đã yêu cầu các
bộ, ngành cử “người phát ngôn” báo chí, có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp
thời về những điều quan tâm, bức xúc của nhân dân đối với từng ngành, từng tổ
chức cụ thể; trả lời thực chất những vụ việc đăng trên các chuyên mục “ Ý kiến
bạn đọc” của nhiều báo, đài cũng như những sự kiện lớn, những vụ tiêu cực
nghiêm trọng của ngành được báo chí đề cập.
Đáp ứng đòi hỏi mới của nhân dân về tăng
cường tính công khai, minh bạch thông tin, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quy
chế chi tiết về cơ chế phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương theo các quy định của pháp luật và hoạt động báo chí hiện
hành. Văn phòng Chính phủ tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí định kỳ một
tháng một lần về hoạt động, chỉ đạo công tác điều hành của Chính phủ. Các cơ
quan bộ, ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí về hoạt động của
cơ quan mình theo từng tháng và ít nhất ba tháng một lần tổ chức họp báo.
Ngoài ra, Quy chế còn nêu rõ người có
quyền phát ngôn có trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác cho báo chí trong 3 trường hợp đột xuất, bất thường sau: một là, khi thấy
cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề quan trọng nhằm
cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận; hai là: khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan
chỉ đạo, quản lý Nhà nước về báo chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông
tin về các sự kiện, vấn đề thuộc phạm vi quản lý của cơ quan; ba là: khi có căn
cứ cho rằng báo chí đăng tải thông tin sai sự thật về lĩnh vực, địa bàn do cơ
quan mình quản lý để yêu cầu cơ quan báo chí đó phải đăng tải ý kiến phản hồi,
cải chính theo quy định của pháp luật.
Có thể nói, với vai trò phản ánh và tham
gia phản biện xã hội, báo chí ngày càng là một kênh quan trọng để các cơ quan
chức năng tham khảo nhằm bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước sao cho sát hợp hơn cuộc sống nhân dân. Cùng
với việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt, báo chí
đã tích cực tham gia đấu tranh có hiệu quả trong chống tham nhũng, quan liêu và
các tệ nạn xã hội, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Dù trong bất kỳ xã hội nào thì tự do báo
chí chỉ mang tính tương đối, bởi tự do báo chí phải được thực hiện trong khuôn
khổ của pháp luật, bị pháp luật điều hành, quản lý và phù hợp điều kiện lịch sử
cụ thể của từng nước. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền báo chí tự do,
trong đó nhà báo được tự do hành nghề, tự do cống hiến sức sáng tạo của mình để
phục vụ công chúng theo đúng lương tâm và trách nhiệm của người làm báo chân chính
vì mục đích cao cả của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với
việc tùy tiện, muốn viết gì, viết như thế nào thì viết. Ngoài sự chi phối của
pháp luật, còn có sự chi phối của lương tâm, trách nhiệm và sự giác ngộ chính
trị của người làm báo. Không thể có “tự do báo chí tuyệt đối.” Tự do sáng tạo
trong báo chí trước hết thể hiện ở việc nhà báo phải cung cấp thông tin trung
thực, chính xác, phục vụ sự tiến bộ của xã hội, vì lợi ích của đại đa số nhân
dân.
Điều cần nhấn mạnh là, ngoài các qui định
về pháp luật, mỗi nhà báo khi thao tác nghề nghiệp, đều cần cân nhắc kỹ lưỡng
khi xử lý một thông tin, một sự kiện đều suy nghĩ, cân nhắc để tự trả lời câu
hỏi: Nên hay không nên, hoặc chưa nên thông tin, bình luận nếu sự kiện đó làm tổn
hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Các thế lực cơ hội, thù địch từng la lối:
“Việt Nam
đàn áp những người bất đồng chính kiến” (!) Đây là sự quy chụp, vu cáo trắng
trợn, vì trong thực tế, một số người bị ta xử lý về hành chính hoặc pháp luật
chính là vì họ đã sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng đưa tin xuyên
tạc, bịa đặt, kích động chống lại Đảng, Nhà nước ta.
Một số sự kiện “nóng” vừa qua trên Biển
Đông; ở Mường Nhé (Điện Biên); ở Con Cuông (Nghệ An); ở Tiên Lãng (Hải Phòng);
ở Văn Giang (Hưng Yên)… rất đáng để người cầm bút suy ngẫm về trách nhiệm xã
hội cao cả của nhà báo khi cân nhắc, phân tích kỹ lưỡng để tìm ra bản chất sự
việc, quyết định thời điểm và dung lượng thông tin nhằm phục vụ thiết thực lợi
ích của nhân dân, góp sức ổn định tình hình chính trị-xã hội của đất nước, tạo
tiền đề quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế; tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ rộng lớn của bầu bạn năm châu dành cho Việt Nam.
Thực tiễn ngày thêm sáng tỏ rằng, ở Việt Nam , đã thực sự
có tự do ngôn luận, tự do báo chí trên cơ sở từng nhà báo thực hiện đúng pháp
luật, nêu cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người cầm bút trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu ai đó cố tình lợi dụng dân chủ, tự do
ngôn luận, tự do báo chí để công khai chống Đảng, Nhà nước, đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc đều bị xử lý bình đẳng, nghiêm minh bằng hành chính hoặc
bằng pháp luật. Điều này là hiển nhiên và không có gì khác biệt so với bất cứ
một quốc gia độc lập có chủ quyền nào!./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét