Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ngày 19/12/2013
NGUYỄN ĐÌNH TÚ
(thực hiện)
Khi tôi về công tác ở Văn
nghê Quân đội thì ông là người đầu tiên bẹo má
tôi bảo: “Trẻ quá! Nhớ rằng, ở đây trẻ cũng là một giá trị”. Tôi không hiểu
điều ông nói. Ở Nhà số 4 (Cơ quan VNQĐ) người ta thường hay nói đến những giá
trị văn chương. Tôi về đó, giữa một dàn các đại tá thành danh, tôi chỉ là anh
trung úy quèn, thôi thì hãy tự an ủi là mình đang sở hữu một giá trị vô giá, ấy
là sức trẻ. Sau này tôi mới tự ngộ ra cái bẹo má đầy ngụ ý ấy của ông. Được
công tác với ông vài năm thì ông nghỉ hưu. Thỉnh thoảng gặp ông qua tòa soạn
lấy thư báo, chào hỏi ông nhưng lúc nào cũng thấy ông như đang bận rộn cho
những ý tưởng trong đầu cần phải về ngay với bàn viết của mình. Thỉnh thoảng
gọi điện đặt bài viết, ông cũng nói ngắn gọn vài câu, viết về cái gì, bao nhiêu
chữ, rồi, sẽ có, và cúp máy. Thỉnh thoảng gặp ông trên truyền hình, nói và nói,
đụng đến vấn đề gì cũng say sưa, rút ruột rút gan, mê hoặc người nghe. Thỉnh
thoảng gặp ông trên mặt báo, nói về phim ảnh, về sân khấu, về dịch thuật, nói
không giống ai, tâm huyết và đau đớn, không phải người từng trải và đầy chiêm
nghiệm không thể có cách nói ấy. Thỉnh thoảng (vâng, lại thỉnh thoảng) gặp ông
ở các hội nghị, trại viết, lúc nào cũng thấy ông tràn ngập năng lượng sáng tạo,
và cái năng lượng ấy không chỉ như muốn nổ tung con người ông mà còn có sức lây
lan, tiêm nhiễm sang người khác rất ghê gớm. Vào một buổi sáng cuối thu, giữa
trong veo sắc trời Hà Nội tôi đã không còn là chàng trung úy quèn năm nào, ngồi
với ông, một đại tá già, gần bước vào tuổi thất thập, nói lung tung đủ thứ
chuyện trên đời, và bên ly cà phê bốc khói, tôi đóng vai trò một người đi “lục
lọi” những chuyện văn, chuyện đời, chuyện nghề của ông lúc nào không biết. Ông
cũng chia sẻ một cách hồn nhiên những gì ông nghĩ, ông suy tư, ông đau đáu,
thỉnh thoảng lại kèm theo một nụ cười trẻ trung, hóm hỉnh và ấm áp. Nhìn nụ
cười của ông, biết sức nghĩ trong ông còn trẻ hơn so với cái tuổi của ông rất
nhiều…
Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Nhà
văn Chu Lai đã quá nổi tiếng trong nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam . Nhiều người còn có thể nói ra
vanh vách rằng, khởi đầu của nhà văn Chu Lai là một diễn viên kịch nói, sau đó
thành một người lính đặc công tham gia kháng chiến chống Mĩ, rồi về học trường
viết văn Nguyễn Du và trở thành nhà văn quân đội trước khi nghỉ hưu với quân
hàm đại tá. Có vẻ như đó là hành trình của một số phận đã an bài. Nhưng giả dụ
thế này, nếu cuộc chiến tranh chống Mĩ không xảy ra thì chàng thanh niên Chu
Lai ngày ấy sẽ không vào quân ngũ và liệu chúng ta có một nhà văn Chu Lai không nhỉ?
Nhà văn Chu Lai: Ấy, vẫn vào quân ngũ chứ, quân nghệ thuật
bởi đã chủ động xin thi tuyển và đã đậu vào trường nghệ thuật quân đội, khoa
kịch nói kia mà. Nhưng chắc chắn sẽ không đi B vì có B nào đâu mà đi. Có thể sẽ
là một diễn viên chuyên nghiệp rồi mới cầm bút, cũng có thể theo gợi ý của ông
Đào Hồng Cẩm, đoàn trưởng đoàn kịch Tổng cục chính trị làm cú đi học đạo diễn ở
Liên Xô cũ và biết đâu sẽ làm cái công việc này suốt đời. Từ lính nghệ thuật
đến lính chiến chỉ là một cuộc chuyển đổi tất nhiên khi bạn bè kéo nhau vào Nam cả, mình ở
lại với cô người yêu xinh đẹp, đêm đêm son phấn cứ như cái anh thừa, anh vô
tích sự. Trượng phu thoắt đã lòng bốn phương, cái khí thế hồi đó là như vậy,
rất tự nhiên như nhiên.
NĐT: Đưa ra giả dụ ấy để thấy rằng những
trải nghiệm chiến tranh đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các tác phẩm
của nhà văn Chu Lai. Xin được ngược lại quá
khứ một chút, những dòng văn đầu tiên ông viết là viết về cái gì, và khi nào
thì ông quyết định gắn đời mình với nghề văn?
CL: Viết từ bé, viết cả văn, cả báo lẫn
kịch theo ảnh hưởng từ trường của gia đình nhưng chả ra đâu vào đâu. Có lẽ
chính thức cầm bút kể từ ngày ở chiến trường, sau mỗi lần mất hết quân phải lên
rừng già nằm trống góc cả tháng chờ quân vào, lúc ấy không viết cái gì đó thì
tan hoang đầu óc lắm. Nhưng viết rồi lại chả biết gửi ai, gửi đi đâu, cuối cùng
đành hủy, lưu lại trong đầu cho đến khi giải phóng, buồn quá, về đi học lại thì
già mất rồi mà đi diễn kịch lại thì cằn cỗi quá, chỉ còn cách viết lại những gì
mình đã trải qua, đã sống qua. Cuộc sống phong phú, cảm xúc tươi nguyên, chữ
nghĩa, ý tứ nó cứ tự tuôn ra ầm ầm.
Được đăng tải liên tiếp trên những tờ báo
văn trung ương, thế là bắt đầu chơi chuyên nghiệp. Tức là bắt đầu sang một công
việc khác còn gian khổ, gay go, nhọc nhằn hơn cả cầm súng.
NĐT: Với sự ra đời của tiểu thuyết “Nắng
đồng bằng” lập tức tên tuổi nhà văn Chu Lai rực sáng trên văn đàn và cũng bắt
đầu từ ấy ông gắn liền với mảng đề tài về chiến tranh, đến mức những thế hệ nhà
văn đi sau, như tôi chẳng hạn, luôn phải mang tác phẩm của ông ra để trước mặt
mỗi khi sáng tác vì không muốn bị “cuốn theo cách viết ấy”. Ông đã nói rất
nhiều, ở đâu đó, trong các buổi giao lưu, khi lên truyền hình, cả trên mặt báo
về tiểu thuyết đầu tay này. Bây giờ nhắc lại “Nắng đồng bằng”, ông còn gì để
nói về nó nữa hay không?
CL: Rất tươi xanh và lãng mạn. Vừa thoát
ra khỏi cuộc chiến khốc liệt, vừa chôn hàng trăm xác đồng đội mà câu chữ vẫn
lãng mạn được thì cái lãng mạn ấy là có thật chứ không phải tô hồng, đánh bóng
mạ kền, bởi xét đến cùng, chính cái lãng mạn do hồn khí dân tộc, do ngọn gió
lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm luôn thổi ào ạt tạo nên đó đã vực tâm hồn
người lính trụ vững trong mọi tình huống tưởng như không chịu đựng nổi. Lãng
mạn sẽ tạo nên sức chịu đựng, sức chịu đựng tạo nên sự dũng cảm, sự dũng cảm
lại bồi đắp lại cái lãng mạn, một cái lãng mạn gắn bó với núi sông, với hơi thở
cần lao của nhân dân, với hơi ấm đồng đội. Sau này viết Ăn mày dĩ vãng có trần trụi hơn nhiều, dữ dội hơn
nhiều nhưng tố chất lãng mạn đó vẫn là một điểm tựa, một hạt nhân, một cái lõi
lấp lánh trong con người người lính. Vả lại, cái này nói nhỏ, lúc viết Nắng đồng bằng là lúc đang yêu, yêu sau mười năm
không được yêu, yêu chính một nữ đồng đội cũng vừa từ những cánh rừng chết chóc
đi ra nên viết bằng cả sức mạnh và tốc độ của tình yêu, ba tháng, đúng là một
kỷ lục mà chắc không bao giờ lặp lại được nữa.
NĐT: Nhà văn Chu Lai viết rất nhiều thể
loại, từ truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết đến kịch bản sân khấu, kịch bản điện
ảnh, kịch bản lễ hội, cả những cuốn sử bằng văn nữa. Nhưng có lẽ cái dấu ấn sâu
đậm nhất trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của ông đối với tôi và rất nhiều
bạn đọc khác là tiểu thuyết. Bây giờ nhìn lại cả chục cuốn tiểu thuyết, cuốn
nào cũng dày cộp và vang dội dư luận như Nắng đồng bằng, Đêm tháng hai, Sông xa, Gió không thổi từ
biển, Vòng tròn bội bạc, Bãi bờ hoang lạnh, Ăn mày
dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần, Cuộc đời dài lắm, Khúc
bi tráng cuối cùng, Chỉ còn một lần… ông có thể chia chúng thành “các chặng
tiểu thuyết” khác nhau không và mỗi chặng ấy hắt lên một tâm thế sáng tạo như
thế nào?
CL: Không có chặng nào đâu. Nếu có chặng
thì mọi sự đã trở nên thông thoáng dễ chịu. Nhiều khi viết do tức khí mà nên.
Ví dụ viết Ăn mày dĩ vãng xong, khá ầm ĩ, bạn bè bảo: “Thôi, ông
nghỉ đi, cuốn này đã như một quả pháo đùng, pháo nổ tan tành rồi, ông còn cái
quái gì để viết nữa!” thế là tự ái, chả lẽ cả cuộc đời cứ chỉ chúi vào đề tài
chiến tranh thôi à? Quá kém. Vậy là chơi luôn cuốnPhố, một cuốn sách
viết về ngay cái phố Lý Nam
Đế mà ngày nào cũng đi qua đi lại. Viết cũng khá nhanh, thậm chí viết gần xong
còn xé đi viết lại, oai ra phết. Cuốn này cũng tạm ổn, khối cô gái thích, thậm
chí có cô ở tận Huế bay ra tò mò đi dọc phố để xem các nhân vật nó lấp ló ở
đâu, thêm nữa, cũng từ đó cái phố Lý Nam Đế này nhiều người đổi thành Phố Nhà
Binh theo tên gọi văn chương của nó. Cũng khoái trong bụng. Rồi sau đó là tiếp
tục tấn công vào mảng đề tài kinh tế, đề tài đời thường, cũng không đến nỗi cạn
cợt lắm. Thành ra thấy thích thì viết, lúc đề tài này lúc đề tài khác chứ không
có chủ đích chia đoạn, chia chặng từ đầu, giống như khi bắt đầu một cuốn sách
là không bao giờ nghĩ thấu suốt từ đầu đến cuối hết mà cứ viết, cảm xúc đến đâu
dũi bút đến đó, tắc thì viết lại, không tắc thì thông luôn.
NĐT: Nói đến tiểu thuyết người ta hay nói
đến ba nhân tố chính, thứ nhất là giọng điệu, thứ hai là nhân vật, thứ ba là
kết cấu. Chỉ cần có một trong ba đóng góp trên cho nền tiểu thuyết nước nhà
cũng đã có thể nói là “yên tâm một đời văn” rồi. Với nhà văn Chu Lai dường như ông đã “thu hoạch” được cả ba điều này
trong hàng chục tiểu thuyết của mình. Xin được bàn với ông về giọng điệu trước
tiên. Có những bạn học viên cao học từng nói với tôi rằng, cứ xóa tên tác giả
đi thì đọc văn của Chu Lai vẫn nhận ra ngay.
Điều này chứng tỏ ông có một giọng văn ổn định về phong cách. Tạo được một
phong cách riêng là cực khó, nhưng thay đổi phong cách lại còn khó hơn, ông có
bao giờ nghĩ đến việc cần phải thay đổi giọng điệu mỗi khi bắt tay vào viết một
cuốn tiểu thuyết mới?
CL: Nói đúng hơn là tạng văn, mùi văn. Để
có được một mùi văn của mình là khó trần ai nhưng nhiều khi nó tự nhiên mà có.
Tôi thường nói vui: “Mở một cuốn sách ra, chưa cần biết tên tác giả, chỉ cần
thấy một giọng văn nằn nì, thao thiết, nồng nàn rơm rạ tro trấu đến tội tình
đúng là văn của ông Lê Lựu, còn giọng văn tưng tửng, thỉnh thoảng lại nhói lên
một cái y rằng là giọng của Trần Đăng Khoa”. Còn tôi, tất nhiên là ngang tàng,
bất cần, nổi hằn nổi mụn. Tức là tôi không quen viết những câu văn dễ dãi, nhợt
nhạt mà cái gì cũng phải đẩy đến tận cùng, đẩy tận lực, chênh vênh một chút,
hiểm nghèo một chút cũng được. Có lẽ văn là người, trong cuộc sống hay trong
nói năng, tôi cũng không thể nước lợ, vô sinh. Và tất nhiên là không thay đổi
mà có muốn thay cũng không được, nó thành cái hồn cái vía rồi còn thay gì nữa.
Tất nhiên theo tuổi tác và theo hàm lượng chiêm nghiệm, dần dà mọi thứ nó cũng
đằm hơn, chín hơn nhưng coi chừng nó cũng sẽ ít lửa hơn.
NĐT: Về nhân vật, có thể nói ông tạo ra
một hệ thống nhân vật rất đa dạng, có sức ám ảnh và mang tính biểu tượng cao,
nhưng đọng lại trong lòng các thế hệ bạn đọc sâu đậm hơn cả vẫn là những nhân
vật “đang và đã” làm lính, tức là những người lính từ trong chiến tranh trở về
với đời thường dưới nhiều “định dạng” khác nhau. Hầu hết những nhân vật này của
ông đều có hai phần đời, phần trong quá khứ chiến tranh và phần của hiện thực
đời sống hôm nay. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng kiểu nhân vật này đến Hai Hùng
trong Ăn mày dĩ vãng là đỉnh cao rồi, sang tới Vũ Hà Nguyên trong Cuộc đời dài
lắm là đã chững lại, đã lặp và đã “hết hứng thú sáng tạo cho một kiểu nhân vật
đặc trưng của Chu Lai”. Rồi tôi thấy ông bập vào kiểu nhân vật mới như Hùng
trong tiểu thuyết Hùng Karô, liệu có phải đó là một nỗ lực nữa trong quá trình
tìm mẫu nhân vật mới cho mình, thưa nhà văn?
CL: Khổ thế! Văn là người, dù mình có hoán
đổi tên tuổi, tiểu sử, vị trí, thành phần, tuổi tác, hình dáng, nghề nghiệp đi
thế nào chăng nữa thì rồi cuối cùng nó vẫn cứ phảng phất là mình, tức là mình
không vượt ra khỏi cái bóng quái ác của mình nên mới có cảm giác như trùng lặp,
hao hao na ná giống nhau. Cũng như sau này dù viết về cái gì, ở đâu thì các
nhân vật vẫn cứ mang dáng dấp một người lính, đã đi qua đời lính ám vào. Thì
đó, ngay cả cái nhân vật giang hồ khét tiếng Hùng Ka Rô, tuy là một kiểu mẫu hoàn
toàn khác nhưng suy tư, ngôn ngữ, hành vi vẫn cứ thấp thoáng một Hai Hùng hay
một Trần Hoài Linh lãng mạn, bụi bặm, ngang tàng, bộc trực, yêu và sống trào
dâng như nham thạch.
NĐT: Xin chuyển sang một câu hỏi khác về
kết cấu tiểu thuyết. Hầu hết những người đọc sách của Chu Lai đều thừa nhận tác
phẩm của ông mạch lạc, dễ đọc, kết cấu có phần truyền thống, tức là thường đi
theo cái trục kể - tả - dựng xoay quanh một cốt truyện hấp dẫn chứa đựng nhiều
xung đột. Ngoài “Ăn mày dĩ vãng” có một thi pháp phức tạp, xử lý theo kết cấu đảo thuật thời gian,
phá vỡ cấu trúc truyện truyền thống, thì các cuốn tiểu thuyết khác có vẻ ít
được tác giả chú ý đến “kết cấu”, ít tự làm khó mình và làm khó độc giả bằng
các kiểu “chơi thi pháp” rất được các cây bút trẻ bây giờ ưa chuộng. Ông có thể
chia sẻ về những lần phải lần lữa để “lựa chọn phương án tối ưu” cho mỗi cuốn
tiểu thuyết của mình?
CL: Cũng là lười thôi. Bây giờ mà đi tìm
một kết cấu khác, cắt dán tinh xảo, ma thuật, hình thức tung tảy, chặn ngang
đón tắt là ngại lắm, dễ phân tâm. Lại nữa, vốn sống, cảm xúc, khát vọng tìm tòi
trong mình chưa cạn nên cứ chơi kiểu thẳng đuột cho dễ và chắc ăn, cũng là để
có điều kiện tập trung tối đa vào các số phận nhân vật. Khi nào cạn cợt rồi,
chắc khi đó sẽ “chơi thi pháp” như bạn nói. Vả lại, không hiểu có phải, ngoài
chữ nghĩa văn chương, tôi mê cả sân khấu lẫn điện ảnh nên trong văn của tôi
người ta bảo có cả xung đột gay gắt của kịch, lời thoại của kịch nhưng mạch
chuyện lại nhiều hành động cứ thế mà quay thành phim được. Thôi thì trót đời
rồi, trước viết thế nào sau cứ thế ấy, rồi nó đến đâu tính đến đó.
NĐT: Thời gian gần đây người ta nói nhiều
về sex trong văn học. Là người đọc sách của Chu Lai từ rất sớm, tôi thấy yếu tố
tính dục đã được ông khai thác một cách bạo liệt và dữ dội từ những năm đầu
tiên của thập kỷ 90 thế kỷ trước. Tôi còn nhớ mãi cái câu văn “Trong bụng thằng
ấy lúc nào cũng có cả lít tinh trùng ngọ nguậy…” của ông tả trong Ăn mày dĩ
vãng và cứ tự hỏi làm sao ngày ấy những câu văn, đoạn văn như thế lại qua mắt được
kiểm duyệt? Ngay trong lứa nhà văn chống Mĩ cùng thời với ông cũng ít người
mạnh dạn với sex như ông đã từng làm với những trang viết của mình. Câu hỏi này
hơi cũ, nhưng xin được đặt nó trong chiều quá khứ, ấy là khi viết những trang
đậm chất tính dục đó, ông có mang tâm trạng của kẻ “xé rào” không và khi ấy ông
quan niệm thế nào về yếu tố tính dục trong văn chương?
CL: Ấy, đứng nói viết về tính dục là dễ
đâu nhé mặc dù nó đầy rẫy, tràn ngập, ám ảnh quanh ta. Bởi lẽ nó như đi trên
dây thép qua miệng vực, đảo sang trái một chút là trở thành hạ nhục con người,
đảo sang phải một chút là nó lại tôn vinh phẩm giá con người.
Khi tôi động chạm đến dục là không nhằm xé
rào, phá cách mà chỉ cố tuân thủ các giá trị cuộc sống như nó vốn có và nếu nó
chưa có thì mình phải có nhiệm vụ đưa nó vào trang viết không có tội với cuộc
đời, với đồng đội. Ví như chuyện những người lính tràn trề sinh lực vào
trận mạc cả chục năm không va đụng đàn bà thì cái hành xử tự thỏa mãn sinh lý
của họ là tất nhiên, cái cần nói là mình viết như thế nào để không phàm tục, để
khi đọc nó sẽ có được những xúc cảm nhân văn thẩm mỹ.
Tóm lại tình yêu và tình dục là lồng chặt
vào nhau. Một khi tình yêu tràn đến đỉnh điểm thì nó buộc phải được chuyển hóa
sang tình dục. Nằm dưới hầm với nhau cả tuần trời, thịt da nóng hổi kề bên mà
vẫn chỉ có lảm nhảm tình yêu là xúc phạm cuộc đời, là coi thường người đọc.
NĐT: Ông là một nhà văn tiêu biểu viết về
chiến tranh. Ông cũng là người đã trải qua chiến tranh nên viết về các cuộc
chiến bằng tâm thức của người dự cuộc. Còn thế hệ hậu sinh như chúng tôi chưa
trải qua chiến tranh. Chúng tôi đọc ông, ghi nhận ông nhưng khi ngồi trước
trang giấy của mình thì phải phủ định ông, tức là phải viết khác đi. Và một câu
chuyện được đặt ra ở đây là những người đã trải qua chiến tranh thường không
đọc nổi những trang viết về chiến tranh của thế hệ sau. Có một nhà văn đàn anh
đã nói với tôi rằng, viết về chiến tranh phải bằng tâm thức chiến tranh chứ
không phải cứ muốn viết là được. Quả thực tôi không hiểu “tâm thức chiến tranh”
ở đây là gì? Tôi có thể viết về nó bằng một tâm thức “phi chiến tranh” chứ? Khi
tôi đã muốn viết về nó tức là tôi có nhu cầu lý giải nó theo góc nhìn của mình,
và hoàn toàn rất khác người trong cuộc. Ông có hiểu tâm trạng này của người
viết trẻ chưa trải qua cuộc chiến nhưng lại thích viết về chiến tranh không và
ông có cho rằng chiến tranh là đề tài không chỉ đề dành riêng cho những người
tham dự nó?
CL: Tôi hoàn toàn đồng ý. Chiến tranh
không là độc quyền của riêng ai, của riêng thê hệ nào và càng không phải là
chuyện tâm thức hay không tâm thức. Vấn đề là cách kể. Nếu có cách kể hay thì
không nhất thiết cứ phải đánh đấm bù đầu mới viết hay được. Nhiều khi cách kể
mới, chiêm nghiệm mới, tư duy mới sẽ làm cho chiến tranh trở nên sâu thẳm, đa
chiều đa dạng hơn. Tôi có nhớ một cuốn sách tên là Thiếu nữ đánh cờ vây của
Trung Quốc, viết về chiến tranh mà không cần phải vận tới các tình huống chiến
tranh vẫn vô cùng chiến tranh, cái đó quý chứ. Hay mấy năm vừa rồi, giải Osca
thuộc về bộ phim “Cuộc đời tươi đẹp” của Italia, chả có đánh đấm xe tăng tàu
bò, hy sinh chết chóc gì mà xem xong vẫn xúc động đến rợn người. Tất nhiên, nếu
là người đã đầm mình trong chiến tranh mà lại có cách kể mới, lạ, hay và sâu
thì càng tuyệt vời. Vì khi vốn sống, cảm xúc và thi pháp nó trộn ngào vào nhau
nó sẽ càng tạo nên giá trị và sức truyền cảm của tác phẩm. Như vậy, cái gọi là
tâm thức chỉ là một cách nói làm duyên, chứ khi đã đụng bút rồi, anh có thể huy
động tổng hòa tất cả các đội quân tâm thức, trong đó có cả tâm thức phi chiến
tranh. Nên lưu ý, cụ Tônxtôi khổng lồ viết Chiến tranh và hòa bình sau trận
Borodino những năm mươi năm kia đấy và nếu thử hỏi cụ khai bút bằng tâm thức gì
thì chắc cụ sẽ cười khảy: “Lắm chuyện!”. Cứ viết cho mãnh liệt vào, đừng để ý
đến tâm thức hay bất cứ một chủ nghĩa, một phương pháp nào khác. Chủ nghĩa hiện
thực XHCN hay chủ nghĩa hiện thực phê phán ư? Chủ nghĩa tân hình thức hay hậu
hiện đại ư? Chủ nghĩa siêu thực hay chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ư? Được tuốt,
miễn là lay động con tim người đọc và nếu nó có độ lay động rồi thì nó chứa tất
cả các loại thi pháp chứ đừng mất công để ý. Cũng như các cô gái, có thể mông
má, dao kéo, phấn son, sàn catwalk này, sân chơi showbiz kia nhưng cuối cùng
người ta lại vẫn quay về chết với vẻ đẹp chân mộc, lành hiền, giàu nữ tính và
thảo thơm mùi đồng nội.
NĐT: Giáo sư Trần Đình Sử trong một bài
viết gần đây cho rằng sáng tác của một số nhà văn Việt Nam hiện nay
“thể hiện nhu cầu ngoại biên của văn học rất mạnh mẽ. Dần dần các đề tài về
tình yêu, tình dục, đề tài chấn thương, thế tục, đồng tính trở nên phổ biến… Các tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng
vẫn có, vẫn tiếp tục, nhưng cũng đã khác hẳn trước trong quan niệm con người và
quan niệm thẩm mĩ. Trong văn học hình thành một cục diện, các tác phẩm được tôn
vinh, được trao nhiều giải thưởng cao, trong thực tế người đọc đánh giá cao
nhiều tác phẩm không dự thi, không được trao giải. Sự đánh giá của trung tâm và
ngoại biên lệch nhau”. Ông đã bao giờ suy nghĩ về cái gọi là “trung tâm” và
“ngoại biên” của văn học trong tình hình văn học hiện nay?
CL: Đúng là ít nghĩ về chuyện này. Nhưng
phải để cho các nhà văn mạnh dạn thể nghiệm chứ, tức là phải chấp nhận “ngoại
biên” thì đời sống văn học mới phong phú mới mở rộng cửa ra với thế giới được.
Nó là thế này: với một tác phẩm mới ra đời, thấy dị thấy lạ chớ vội tung lên
mây xanh hoặc hạ xuống bùn đen mà cứ để thời gian và người đọc khảo nghiệm,
phán xét nó. Nếu nó dở thì sẽ bị lãng quên còn nó hay, sẽ tồn tại.
Còn chuyện giải thưởng? Phức tạp lắm, tôi
đã từng dự chấm giải sân khấu, điện ảnh, hoa hậu, cả văn chương, kết quả sẽ
không bao giờ thỏa mãn cả. Mà trước hết nó thuộc về tầm nhìn, thái độ mạnh dạn,
cởi mở của những người cầm cân nảy mực. Trong đó yếu tố chấp nhận, khuyến khích
tìm tòi, thể nghiệm sẽ phải được ghi nhận hàng đầu. Nếu không thế thì câu
chuyện về trung tâm và ngoại biên lệch nhau sẽ còn tiếp tục xảy ra, thiệt thòi
cho những cây bút tài hoa, dũng cảm.
NĐT: Để đi dài hơi cho nghề văn, theo ông
những người viết trẻ cần trang bị những gì?
CL: Trang bị có trăm ngàn cách nhưng trước hết và trên hết là phải
đau nghề, khổ với nghề, toàn tâm toàn sức với nghề. Sống nhợt nhạt, không yêu
không ghét, vô cảm thì chả có tài năng, kiến thức nào bù đắp lại được. Bởi biển
văn chương là vô bờ. Càng viết càng thấy trôi lạc, có khi viết cả đời vẫn chưa
chạm bến. Mới được đôi cái mà đã kiêu ngạo thấy mình đang cưỡi sóng vượt đại
dương thì đảm bảo thêm vài cái nữa là chìm.
NĐT: Ông có nghĩ bây giờ mới là thời của
tiểu thuyết? Theo ông những điều kiện nào được coi là chín muồi cho một mùa
tiểu thuyết bội thu ra đời?
CL: Khác với các nghành nghề khác như
chính trị, kinh tế, xã hội… cuộc sống càng khó khăn thì càng bị tác động theo
tỷ lệ thuận. Còn với văn học, dòng đời càng ngổn ngang, càng nhiều sắc màu
trong đục, trái ngang, ngột ngạt thì càng tạo cho cái quặng văn chương được đà
phát triển. Trong đó tiểu thuyết đóng vai trò chủ lực. Vì dù muốn hay không,
tiểu thuyết mới là công cụ có thể giãi bày được nhiều nhất thế giới nội tâm và
cảm quan cuộc đời của con người.
NĐT: Văn học Việt Nam có vẻ đang
cần một cú hích từ những giải thưởng quốc tế danh giá. Nhưng tôi nghĩ rào cản
dịch thuật là điều rất khó vượt qua, so với các ngành khoa học tư nhiên, văn
học rất khó tìm được tiếng nói chung và khi ra trường quốc tế, ngôn ngữ của những
nước kém phát triển thường bị “xử ép”. Ông có thể chia sẻ về điều này?
CL: Nói đến dịch thuật sang nước khác, tôi
lại muốn nổi cáu bởi cách đây không lâu, một nhà xuất bản Pháp xin tôi cho họ
dịch và in hai cuốn tiểu thuyết Phố và Ăn
mày dĩ vãng, có hợp đồng có ký kết đàng hoàng, tất nhiên là tôi đồng ý.
Đồng ý quá đi chứ vì mấy khi văn của mình được dịch sang một quốc gia là ánh
sáng đỉnh cao của văn học loài người. Nhưng dịch xong, in xong, cuốn Phố còn đỡ, còn được họ trả một nửa bản
quyền, nửa còn lại họ chìm luôn nhưng đến cuốn sau thì họ quỵt hẳn, quỵt
trắng trợn, lại còn nói dối nói giá đến không thể hiểu được. Đã có vài lần, qua
các tờ báo nước trong và nước họ, qua các hệ thống đài phát thanh nước họ và
nước ta, kể cả mấy hội luật sư thiện chí nữa song cuối cùng đâu vẫn hoàn đấy.
Đến nỗi tôi phải nói to lên trên một phương tiện truyền thông: “Đừng vì ba cái
đồng bạc Euro vô nghĩa này mà hình ảnh nước Pháp méo đi trước con mắt tôi,
trước con mắt người Việt. Nếu các ngài ngỏ lời xin để giúp người dân lũ lụt hay
cứu trợ tài trợ gì đó, tôi gật đầu ngay nhưng giở cái trò Mafia, thảo khấu đó
thì đúng là một điều hạ cấp”.
Mà thôi không nói đến chuyện ấy nữa, nhếch
nhác lắm. Có nói thì cũng là chỉ muốn đề cập về cái hàng rào dịch thuật một khi
không mạch lạc, rõ ràng, còn dựa vào thân quen, gu thẩm mỹ, cảm tính, khuynh
hướng hạn hẹp thì cái mối quan hệ thiếu sòng phẳng, còn lụy vào nước lớn nước
nhỏ thì cái rào cản đó còn phát huy công năng tiêu cực của nó. Tức là sách đáng
được dịch thì nằm trong xó mà sách tầm tầm lại được bay qua đường biên quốc
gia. Bởi tài năng sáng tạo là của tất cả nhân loại mà không thuộc vào bất kỳ
một cái nhá nhem nào khác.
NĐT: Cái này xin hỏi nhỏ nhà văn Chu Lai một chút nhé! Mọi người đồn đại rằng, hồi trẻ ông
yêu nhiều lắm. Tôi lại nhớ có một nhà khoa học nào đó đã nói rằng, năng lực yêu
tỉ lệ thuận với năng lực sáng tạo. Nếu suy từ thời trai trẻ của ông ra thì điều
này có đúng không nhỉ?
CL: Ơ hay! “Năng lực yêu tỷ lệ với năng
lực sáng tạo” là câu cửa miệng của tôi đấy chứ, làm gì có nhà khoa học nào.
Giống như câu: “Sợ vợ là một giá trị đàn ông” ấy mà. Nguyên văn là thế này:
“Năng lượng tình dục (trong đó có tình yêu, tất nhiên) luôn luôn tỷ lệ thuận
với năng lượng cống hiến, nó là cái hỏa lò hơ nóng mọi cảm xúc cơ bản, nếu một
ngày nó tắt thì cảm xúc yêu nước anh cũng chả còn”. Đại khái thế.
Có lẽ chả phải riêng tôi mà tất cả khi còn
trẻ đều yêu nhiều, rất nhiều, yêu trong tâm tưởng, yêu man mác và cả yêu cụ thể
nhưng khi trẻ người ta dễ biến tâm tưởng thành hành động còn khi về già, phần
tâm tưởng mạnh hơn nhưng phần triển khai tụt lại, lười dần. Nhưng vẫn phải yêu
vì phụ nữ không chỉ là phụ nữ mà họ còn là biểu tượng của cái đẹp mà cái đẹp
bao giờ cũng cứu rỗi linh hồn con người, khi không còn yêu cái đẹp nữa thì văn
chương sẽ chỉ rặt một màu đen xì, tăm tối, thậm chí độc địa. Cho nên chắc chắn
người sáng tạo sẽ cứ yêu cho đến chết.
NĐT: Còn câu hỏi này tôi rất muốn đặt ra
để tham khảo khả năng tiên đoán của nhà văn Chu
Lai. Văn học Việt Nam
sắp tới đi vào cái gì sẽ “ăn”? Ông có đọc các cây bút 8X, 9X không và ông đặt
hy vọng gì ở họ?
CL: 8X, 9X ư? Đọc chứ, đọc nhiều,
đọc chăm chú nữa là khác, ví như đọc tiểu thuyết của bạn. Họ thông minh,
giàu kiến thức, chịu phá cách, chịu vượt các rào cản về tư duy, về thi pháp,
không chấp nhận lối mòn để đạt được hiệu ứng cao nhất. Tất nhiên trong cái vượt
rào đó cũng có cái đúng cái sai, lúc đúng lúc sai nhưng cứ phải vượt và cứ nên
để cho họ vượt thì sân chơi văn chương mới sinh động và cả sinh sắc, miễn là họ
vượt bằng chính trái tim khối óc chân thật của của mình. Tôi chắc mẩm rằng, sau
một hồi tìm tòi, với tất cả những tinh nhạy của mình, các cây bút trẻ sẽ đạt
được những thành tựu thuận cả Trung tâm, lẫn Ngoại biên. Viết chỉ để thỏa mãn
trong nước đâu có khó, viết để nâng thành tầm nhân loại, tầm khu vực cái đó mới
trần ai, sầy vẩy.
Còn văn học VN sắp tới sẽ “ ăn” vào cái gì
ư? Khó nhỉ. Đường văn muôn nẻo, cảm nhận muôn chiều, những cái gì đi trúng mạch
đập dân tộc, đi trúng nỗi niềm nhân dân, nóng bỏng cái tức thời và thăm thẳm
cái muôn thời, không khoan nhượng với cái tham cái ác, thỏa mãn cái thiện cái
đẹp sâu thẳm của con người, những con người nhỏ bé nhất thì chắc chắn sẽ “ăn”,
trước đây cũng vậy, bây giờ cũng vậy và mãi về sau cũng vậy. Nếu chỉ chăm chăm
gãi ngứa mà lòng người bây giờ đang có nhiều cái ngứa ngáy lắm thì sẽ đến một
lúc hết ngứa, họ ắt ẩy tay anh ra.
NĐT: Cảm ơn nhà văn Chu
Lai về cuộc trò chuyện này!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét