HOÀNG HẢI VÂN
(Loạt bài đã đăng trên Thanh Niên từ 27.2 - 5.3.2008)
Kỳ 1
Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…
Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…
Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông.
Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là
để viết bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam
sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban
điều phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với
trình độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của
vị cao tăng này thật không dễ chút nào.
Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà
khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga,
Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ
Hán cổ...), ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả
lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất
cả các công trình khoa học của ông.
Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại
một vài điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những
khám phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà
hàng ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch.
“Ông Lê Qúy Đôn mà cũng lôi thôi quá”
Xin chép ở đây hai bài thơ chữ Hán, theo
tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả người":
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch nghĩa:
Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu
trên gấm
Dưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly
đang chuyền
Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với
mùa xuân
Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không
nói)
Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý
Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà
Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một
kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam . Trên tạp chí Văn học số
1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ
trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân
(?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.
Một bài khác:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch nghĩa:
Chim nhạn bay dài qua không trung
Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Sông không có lòng lưu lại bóng hình)
Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép
trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong
công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu
Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả
thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng
không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của
thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ
lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43
bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã
chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý
Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa
thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai
sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ
chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một
Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ
rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng
đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm
tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một
trong rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm,
đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư
tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời
đã cẩn trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền
sư, dù đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật
khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học
kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó
khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật
lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài
liệu này.
Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự
nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm
cẩn, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền
sư, ông đã đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục
tạng kinh chữ Hán, ông đọc
trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như đối với
trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung
Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông
đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
Lịch sử dân tộc bảo tồn trong kinh Phật
Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới. Tập kinh này
được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến ngày nay gồm 8
quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị cao tăng đông tây kim cổ đều
biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật.
Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu
truyền của Lục Độ tập kinh,
giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập kinh này. Ông
khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán từ một bản
tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người dịch bản
kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh hiền", là
một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo đạo Phật, hành
đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa
và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa nhất có liên quan,
tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt những kết luận với
các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa đựng "một lượng
bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý mang sắc thái chính trị
và lịch sử Việt Nam .
Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh
chứa đựng truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng.
Điều này hết sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt
đầu từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện
này được chép trong Lĩnh Nam
chích quái. Truy nữa thì "bó tay", không biết nó xuất phát từ đâu,
chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời... Đường bên Trung Quốc. Từ
trước tới nay mọi bàn cãi đều tập trung vào việc chấp nhận hay không truyền
thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn đề của lịch sử. Dân
tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền thuyết thì ít nhiều
đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với Lục độ tập
kinh, chúng ta đã truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân tộc của mình.
Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm
trứng nằm trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật
lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm
trứng nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản
bằng tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu
chuyện về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em
Pandu và Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư
Mã Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền
thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại
(dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật,
nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền
vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và
khẳng định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì
có An Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm.
Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa
là, cho đến năm 43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai
Bà Trưng thất bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương,
là nhà nước Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với
điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có
văn học... Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến
"khai hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì
là tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi
trội để đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một
trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài
liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước...
Kỳ 2
Nếu nói các truyền thuyết An Dương Vương là không có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành ? Nếu nói nước ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập thì các “thái thú” Tích Quang, Nhâm Diên sang “cai trị’ ở đâu ?
Nếu nói các truyền thuyết An Dương Vương là không có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành ? Nếu nói nước ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập thì các “thái thú” Tích Quang, Nhâm Diên sang “cai trị’ ở đâu ?
Tất cả những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu hết sức cẩn thận, kèm theo là các tài liệu dẫn chứng cụ thể có thể tra cứu đến tận gốc. Rất tiếc giới hạn của một bài báo không cho phép chúng tôi dẫn ra đây, vì nó quá nhiều. Về vấn đề chúng tôi đang đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta - Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006.
Làm trong sạch những trang sử của tổ
tiên bờ cõi
Như chúng tôi đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh
Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt
của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng lên thời
kỳ An Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt sử
lược, rồi Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục...
cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung
Quốc, đó là Giao châu ngoại vức ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam
truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu không rõ
nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ
VII), riêng Nam Việt chí thì có nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ V),
nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn cứ
vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử ký
của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thơ, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu
Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo
xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam
Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập.
Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đã rõ.
Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu? Kết luận là: Nước Nam
Việt không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ Nam và Quí Châu
cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không phải mới. "Tư
không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói: "Nước Nam
Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp
biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam
duệ". Viết như thế, Giao chỉ rõ ràng không thuộc đất Nam Việt. Một khi đã
kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ gì đến nước ta. Phần gọi là
"Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ Đại Việt sử lược trở đi do thế
đáng nên loại bỏ" (sách đã dẫn).
Việc dùng những tài liệu không đáng tin
cậy để ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ
Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người
viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử
liệu mà họ dùng". Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ
trước và sau công nguyên, phải dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán
thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của
mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin
cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới đây và
nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị
và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn, bởi vì
ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó cũng xuất hiện sau
Sử ký đến những sáu trăm năm (sách đã dẫn).
Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An
Dương Vương đã rõ là một phiên bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata,
thế thì xử lý như thế nào về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo
sư Lê Mạnh Thát viết: "Để trả lời câu hỏi đó, trước hết cần có một ý niệm
tổng quát về quá trình hình thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên hay nhân tạo
với các nhân vật kỳ vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng của Không Lộ với Hồ tây.
Không Lộ là vị thiền sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành
Hồ tây trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh
đã ghi lại. Vậy, việc kết nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền
thuyết không nhất thiết là một sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một
kết nối như thế đã được Ngô Sỹ Liên đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư và khoác
cho nó một bộ áo lịch sử chính thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương của
chúng ta không thể nào không có thành quách, nên chắc chắn chúng ta có một cái
thành như vậy, nhưng 4 tài liệu đã dẫn nói về An Dương Vương cũng không nói gì
về tên thành Cổ loa, do đó Cổ loa chẳng qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy
từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái để đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư gắn
vào An Dương Vương mà thôi.
Như vậy, các triều đại An Dương Vương và
Triệu Đà đã được các sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô Sỹ Liên dựng lên từ
những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó. Nay với
những sử liệu tin cậy có thể kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh
Thát đã chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong
sạch tổ tiên bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu diệt vua Hùng (An Dương
Vương), một người thì chiếm nước ta (Triệu Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không
đúng sự thật, thì vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân
tộc?
Nhưng khi khẳng định nước ta là nước độc
lập cho đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, thì giải
quyết như thế nào đối với các nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là
các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật này
được sử sách Trung Quốc cho là những người đến "khai hóa" dân tộc ta,
bằng những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là "mọi", là
"cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời trong Hậu Hán thơ).
Bằng những sử liệu khó chối cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích Quang,
Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố
bịch khôi hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên, Hậu Hán thơ viết ông này được cử
làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến vũ thứ nhất (năm 25 sau dương
lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán thơ, tình hình chính trị Trung Quốc
từ sông Dương Tử về phía nam cực kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một
phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh mà còn bị
cản đường, xe ngựa không tiến lên được", thì làm sao Nhâm Diên đến được
Cửu Chân để làm thái thú ? Vả lại, chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê Mạnh
Thát tiếp tục dẫn ra là, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa
đầu về Lạc Dương", Hậu Hán thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt
luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc".
Như vậy rõ ràng nước ta đã có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi
không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.
Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện của Trung Quốc, do các thái thú của
Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ đâu để có bộ Việt luật cho Mã Viện điều tấu?
Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, thì Tích Quang, Nhâm
Diên "cai trị" ở đâu?
Kỳ 3
Lê Thánh Tông nói : Một tấc đất của tổ
tiên cũng không để mất ! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng
Vương
Tiếp tục hành trình về thời đại Hùng
Vương
Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu, các nhà sử học nước ta đã phát hiện rất nhiều tài liệu quan trọng về nền văn minh của nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đã thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ khảo cổ học từ văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Các vua Hùng có công dựng nước...", Nhà nước ta đã chính thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ.
"Sau ngày độc lập, cụ Hồ Chí Minh
rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô, ngang
qua Hội trường Ba Đình, đó là điều hết sức có ý nghĩa", giáo sư Lê Mạnh
Thát nói với chúng tôi. Ông lưu ý rằng, không phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc
phả nhà Lý mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất thì Ngọc phả
Hùng Vương lại được lưu giữ, hiện còn 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời
Tiền Lê (Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại Hành dựng lại
Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh Tống là cuộc kháng chiến
chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo tèo như Nam Hán. Lê
Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó
là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người
Mỹ tuyên bố đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá thì Việt Nam lại có một cuộc khảo
sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo.
Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thực hiện 4 tập sách về thời đại
Hùng Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu
tiên chúng ta có một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô
lớn, do Nhà nước chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu
được những thành quả quan trọng về khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu
chữ Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ý nghĩa và cần được tiến hành tiếp
tục".
Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề quan trọng
về lịch sử của thời đại này vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc bế tắc, trong đó có vấn đề
chữ viết, luật pháp cùng những vấn đề căn bản khác của một nhà nước mà chắc
chắn là nó phải có trong thời đại Hùng Vương. Bởi vậy, những khám phá của giáo
sư Lê Mạnh Thát có ý nghĩa vô cùng.
Sau khi đưa ra các minh chứng để đề nghị
loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch sử và xác định
thời đại Hùng Vương tồn tại cho đến năm 43, giáo sư Lê Mạnh Thát tiếp tục phát
hiện thêm những tài liệu quan trọng có thể khai thông những bế tắc từ bấy lâu
nay.
Việc tồn tại của Việt luật (mà Mã Viện
"điều tấu"), theo giáo sư Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả thiết
rằng tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đã phát triển đến một
mức độ chính xác nhất định và có một hệ thống chữ viết đủ rõ ràng để ghi chép
các quy định của luật pháp.
Vấn đề là Việt luật hiện nay không còn,
điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật cũng không còn. Chúng ta cũng chưa
tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học. Điều đó cũng không có gì lạ và
chưa tìm được không có nghĩa là nó không có, bởi ngay đến chữ viết thời Lý - Trần
mà vẫn không tìm được trên các di chỉ khảo cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia
Lý Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác tìm được ở rất xa ngoài Thăng Long.
"Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà không còn một tấm bia nào ở thủ đô
hết, chúng (nhà Minh) nhất định không để lại một vết tích nào của lịch sử. Đến
nỗi, ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một hướng mới là tìm nó dưới nước, tức là
khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để thấy kẻ
thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ
tận gốc để dân ta không biết gốc tích của mình.
Truy lại chữ viết của tổ tiên vì vậy mà
trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê Mạnh Thát
nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc Ninh, phát
hiện một thứ chữ viết trên gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không đọc
được", nghĩa là một thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không phải chữ Hán,
đó rất có thể là chữ Việt.
Theo ông, chúng ta hiện có hai nguồn tư
liệu cơ bản: Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng các dịch phẩm khác của
Khương Tăng Hội là Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú giải và Tạp thí
dụ kinh do một tác giả vô danh thực hiện. Ông đã khảo cứu một cách công phu
tường tận ngữ âm tiếng Việt còn lưu giữ trong những tập kinh này. Chẳng hạn, để
diễn tả ý niệm "trong lòng", Lục độ tập kinh có hai dạng cấu trúc.
Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung"
(cấu trúc ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có 8 trường hợp rải đều trên 6
quyển dùng từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp
Kinh Thi do Khổng Tử san định, trong 305 bài thì có 15 bài dùng "trung
tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh hưởng của Kinh Thi có 4 lần sử dụng
"trung tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương lịch, dạng "trung
tâm" hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng tới, nếu có vài trường
hợp thì đều là ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái theo Kinh Thi mà thôi. Thế mà
Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ gần 1/10,
cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm
trung", có khả năng ban đầu cũng dùng dạng "trung tâm", sau bị
điều chỉnh lại, là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu trình
bày về thiền, chắc chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng
rãi qua nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá trình đó đã được nhuận sắc cho
đến khi được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung
tâm" tiếp tục tồn tại trong các quyển kia của Lục độ kinh. Trong Lục độ
kinh còn có một số cấu trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc "thần
thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây thần"
như tiếng Trung Quốc...
Kỳ 4
"Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca
còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra
nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói !" (Thiền sư Lê Mạnh
Thát).
Thiền sư nổi giận
Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập
kinh chữ Hán "không chấp hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như
trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong khi dịch tập kinh này ra tiếng
Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát hiện các trường hợp Khương Tăng Hội
dùng "tá âm" hoặc dùng thuần túy tiếng Việt, chỉ phiên âm ra nó lập
tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu. Ông lưu ý do Khương Tăng Hội
"sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta" cho nên khi phiên
dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng của tiếng Việt
trên cả ba mặt ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng Hội lại là người
sử dụng tiếng Trung Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu thủ" thì
lẽ ra những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế thì tại sao Lục độ tập
kinh tồn tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ vựng,
ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ? Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó đã được
dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.
Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát: "Khi
đối chiếu cấu trúc "trung tâm" trong Lục độ tập kinh chữ Hán với ngôn
ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu"
tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu thế kỷ thứ I sau dương lịch
trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng thời gian 300 năm, cấu trúc
"trung tâm" chỉ được dùng đúng 3 lần, trong khi cấu trúc này được
dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa là để đối chiếu chỉ
hai chữ "trung tâm", thầy đã phải đọc hết tất cả của Trung Quốc trong
3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết thì làm sao mà khảo
sát, đối chiếu được!". Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông
còn chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết Uyển của
Lưu Hướng, tồn tại từ năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là
không biết". Đây là bộ sách duy nhất chép lại nguyên văn một tác phẩm văn
học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết Uyển không phải là một
cuốn sách thường, nó là cuốn sách được viết để "dâng vua", cho nên
tài liệu được nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có
tài liệu lấy từ "Trung thư", tức là một loại thư viện của hoàng gia.
Điểm hết sức thú vị của bài Việt ca chép trong Thuyết Uyển là nó "ghi bằng
chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra tiếng Sở", tức
là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói rõ đó là bài ca
"do người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn năm nay chưa
một ai nghiên cứu giải mã bài ca này, ngoài sự cố gắng tìm hiểu của Quách Mạt
Nhược (từng là Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài ca này
là của người Choang vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và một học giả người
Nhật cho bài ca đó là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dành nhiều
thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu phục chế diện mạo
tiếng Việt của bài Việt ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của
dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, NXB
Tổng hợp TPHCM, trang 41-47).
Như đã nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần
kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc tất cả những gì có thể để cho văn hóa
được lưu truyền, đặc biệt là việc tận diệt bia đá một cách có hệ thống sau khi
"thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì còn lưu lại của bốn ngàn
năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học đầy tâm huyết và
trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để khẳng định chắc
chắn là chúng ta đã có chữ viết từ thuở các vua Hùng. Kẻ xâm lược quyết không
cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ tiên, nhưng dấu tích nó vẫn
còn đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung Quốc và còn lẩn khuất ở
đâu đó nữa. Cùng với việc khảo sát trong lòng đất và "dưới nước" như
hướng mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh
Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học khác.
Tôi hỏi ông: "Thầy nghĩ gì về ý
kiến cho rằng có thể tìm vết tích chữ viết thời Hùng Vương trên mặt trống
đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như vậy, nhưng khảo sát những hoa văn
trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, vì chữ
viết phải có quy luật về cấu trúc của nó. Suy đoán từ những giả định không có
cơ sở sẽ khó có sức thuyết phục". Việc nghiên cứu ngôn ngữ cổ, nhất là ngữ
âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng như người Việt 2.000 năm
trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không biết được, để nghiên cứu nó
giáo sư Lê Mạnh Thát đã phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời Hán của
Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với những
tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để truy lùi về thời điểm nghiên cứu, và
cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa tiếng
Trung Quốc, tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong vùng (chữ Phạn, Chăm,
Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp giới với Việt Nam...) để phác thảo
diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca, bác bỏ kết luận sai trái của Quách Mạt
Nhược và học giả người Nhật nói trên... (bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn, xin xem
các sách đã dẫn).
Tiếp theo và cùng với chữ viết là lịch
pháp. Lâu nay chưa ai biết dân tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp ngày tháng
như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn hóa Trống đồng của
nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không
hẳn là vô lý" (Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xã hội, Paris,
1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, NXB Tổng hợp
TP.HCM 2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho phép
khẳng định được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Những câu chuyện ghi trong
tập kinh này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm
ra 360 ngày, phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần,
mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài liệu cổ Trung Quốc thì thấy hệ thống lịch
nước ta khác với lịch Trung Quốc cùng thời, vì lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm
366 ngày và một đơn vị tuần của họ có tới 10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ,
vì tuần của Ấn Độ thời đó có 15 ngày. Phát hiện này cho phép kết luận nước ta
thời Hùng Vương đã có lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập. Giáo sư Lê Mạnh
Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện
trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống
lịch đó còn hiệu lực", tức là từ năm 43 trở về trước, bởi vì sau năm đó
nhà Hán đã chiếm nước ta, một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra
dưới bộ máy đàn áp của Mã Viện...
Những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát
có thể và cần được các nhà sử học tiếp tục bổ sung, nhưng không có gì thái quá
khi nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành quả quan trọng trong
cuộc nghiên cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta có
thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những sự thật của nó. Nó
một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ
là vô cùng đúng đắn.
Là nhà tu hành nhưng thiền sư Lê Mạnh
Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ làm nhục tổ tiên
mình với kiểu ăn nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ, tập Lễ Nhạc thành
ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó.
Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước
văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!". Sự nổi giận của vị thiền
sư này rất cần được sự hưởng ứng của tất cả những ai còn coi mình là con cháu
Lạc Hồng...
Kỳ 5
Không có cái gọi là thời kỳ “Bắc thuộc
lần thứ nhất”. Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc
Hán chỉ là sự “đọat khống” đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành
trướng của nhà Hán mà thôi.
Nhà Hán đọat khống đất đai nước ta
- Nếu nước ta thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn “Bắc thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? - Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát.
- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra khỏi
lịch sử. Chúng ta có đủ chứng cứ để làm như vậy.
- Nhưng sử sách vẫn còn ghi: năm 214
trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đem quân đánh lấy đất Bách Việt, sau đó chia
làm ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng Quận là nước ta?
- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong
hai tỉnh Quảng Đông và Quý Châu Trung Quốc thì đã rõ rồi, nhưng Tượng Quận thì
không phải. Một số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật
Nam (nước ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của
chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất
Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta.
- Sử Trung Quốc cũng ghi rõ, năm 111
trước công nguyên, Hán Vũ đế đã chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận:
Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai
và Đàm Nhĩ thuộc Hán. Nếu cho đến năm 43 nước ta vẫn độc lập thì giải thích làm
sao việc nước ta gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nằm trong đất nhà Hán trước đó?
- Đối chiếu với chính sử Trung Quốc ta
đã thấy Triệu Đà chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng chỉ chiếm
Nam Việt của Triệu Đà. Rõ ràng là họ đã gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam vào đất Hán
một cách vô căn cứ. Việc này không có gì lạ, sử Trung Quốc còn chép rằng năm
202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng
Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của
Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế vậy". Đất
chưa lấy được mà "đoạt khống" làm đất của mình, chuyện đó là bình
thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói quen cho các triều đại về sau này
nữa... Bởi vậy việc "đoạt khống" ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
của ta không có gì lạ. Việc "đoạt khống" này có ba chứng cứ: Thứ
nhất, Tiền Hán thơ ghi rõ rằng Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở Thương Ngô",
nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt chân tới Giao Chỉ. Thứ hai, sử liệu Trung
Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi đày thời đó chỉ đưa tới
Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn, tuy chưa phải là chứng cứ quyết định,
nhưng cũng biểu thị rằng biên cương cực nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp Phố,
là vùng giáp giới với nước ta. Chứng cứ thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc ghi
"Phiên Ngung là một đô hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi
Tiền Hán thơ đưa ra con số thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện
chỉ vỏn vẹn có 94.253 dân, bình quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có
trên dưới 15 ngàn dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới
764.237 người, bình quân mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam
Hải. Đó là chưa kể Cửu Chân và Nhật Nam , dân số cộng lại cũng có trên
200.000 người. Thế mà lại nói "Phiên Ngung là một đô hội". Điều không
hợp lý này chỉ có thể được giải thích là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể hỏi tại sao ba quận này không phải
của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ khẩu", câu trả lời cũng
thật đơn giản: Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp một loạt tên các quốc
gia độc lập ở Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán", nhưng vẫn có số liệu
hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về hộ khẩu không nhất thiết nó
thuộc nhà Hán.
Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây
Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam , cũng đều là những tên gọi khác
nhau của nước ta. Cần biết, các triều đại phong kiến Trung Quốc không bao giờ
muốn nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có quốc hiệu đàng hoàng như Vạn
Xuân (Lý Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay Đại Việt (Lý-Trần), sử sách
Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao Chỉ, An Nam để gọi một cách tùy
tiện. Việc "đoạt khống" đất đai, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là
"nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng" của họ.
Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Lê Mạnh
Thát cho rằng chỉ riêng văn minh trống đồng thôi mà chúng ta đã có chứng cứ
rành rành. Với một nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy,
một nền kỹ thuật không ai có thể chối cãi, thì không có lý gì mà chúng ta lại
không có một nền văn hóa - giáo dục tương ứng.
Nền văn hóa đó vẫn được bảo tồn. Trung
Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu nói Thi chúng ta có cùng chùm truyện trong
Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ chúng ta có
truyền thuyết trăm trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu nói Nhạc ta
không chỉ có bài Việt ca mà còn có trống đồng...". Nói thêm về văn học,
ông cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không phải bắt đầu từ
Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và Từ Đạo Hạnh... mà nó đã bắt
đầu từ thời Hùng Vương mà bằng chứng còn lại là bài Việt ca, cụm chuyện thần
thoại và cổ tích đầu tiên tìm thấy trong Lục độ tập kinh. Phân tích trong Lục
độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện trong tập kinh này tương
đương với 5 truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, như vậy "chúng ta không còn bàn cãi một cách tùy tiện không
có cơ sở về nền văn học "dân gian" chung chung phi thời gian, phi
lịch sử".
Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng ta
đã có một nền văn hóa riêng, tạo nên bản lĩnh dân tộc. Đó là nền tảng cho những
cuộc đấu tranh trường kỳ, khốc liệt bảo vệ đất nước, bảo vệ nòi giống. Dân tộc
ta không những không bị đồng hóa, mà nền văn hóa của dân tộc ta còn được du
nhập vào văn hóa Trung Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà còn
là tác phẩm của "bậc thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi - là
một trong những ví dụ.
Nhưng không chỉ có vậy. Theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, từ sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi Chu Phù, Sỹ
Nhiếp cai trị nước ta, lịch sử cũng có nhiều vấn đề cần đặt lại. Và trong thời
gian này xuất hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam, với tác phẩm
nổi tiếng Lý hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển chương Trung
Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi trội của văn hóa Việt Nam...
Kỳ 6
"Giá như người nước ta không ghi
lại những sự việc của Lê Hoàn (Hoàng đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu
qua tư liệu của người Trung Quốc, thì một đoán án đương nhiên phải xảy ra , đó
là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược
lại chỉ là một Tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống” (thiền sư Lê Mạnh Thát)
Sỹ Nhiếp là ai ?
Có thể có ai đó trong giới sử học "ý
kiến ra ý kiến vào" về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng
tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm lược. Mong rằng những người quan tâm
có thể tìm đọc các công trình của ông để trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu
ý, những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát đã công bố từ
cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật
giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do NXB Tổng
hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi
nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã dẫn. Trong những công trình này, mỗi một
vấn đề đưa ra ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những
ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rõ số trang, số
tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng
tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...
Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như
trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin
cậy", ví dụ như chính sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta)
nhưng thực tế những người đó chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ
bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả
những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung Quốc để
thẩm định, xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một
phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng
rõ.
Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ
giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không
chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà
Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa
Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu
Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau,
cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các thái thú
Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh", nghĩa
là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn
được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc chính người Trung Quốc
cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử
nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú Giao
Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai trị,
nhưng các sử gia Việt Nam
đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ
Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà
đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết:
"Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng
người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp
là "Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý do nào nữa không ?
Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi
giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta
hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương",
cần nói rõ là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc
mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như
Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu
từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược).
Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư
Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như
trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập".
Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán
gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ
Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu,
tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam
thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô
chí: "Sỹ phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành
công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường
vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân";
"Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn
lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy,
xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp
đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà
cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ
Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ
với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô
chí so sánh Sỹ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc
lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính
quyền Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời
Sỹ Nhiếp, nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ
mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị
vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam " (Văn tuyển 5 tờ 9b4).
"Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số
ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê, ngà voi,
các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không đưa
đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn
Quyền).
Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau
khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để
tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành
thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp
luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn
Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết,
Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn
Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà
Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.
Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư
Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết:
"Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi
nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong
lịch sử Trung Quốc đối với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là
đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu.
Nhưng châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng
Châu, vì nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ
10b3 đã ghi nhận. Nói cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc
lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân
(Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái
thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã
ghi nhận là Bà Triệu đã bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân
sau khi đã tiêu diệt Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục)
hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu
năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam
tập 1, trang 385-386)...
Kỳ 7
Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được
truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được gìn giữ
Một minh chứng văn hóa
Những phát hiện nói trên của giáo sư Lê Mạnh Thát cho phép dựng lại lịch sử dân tộc trong thời kỳ nước nhà không có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân tộc thời trước Hai Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những phát hiện về văn hóa, bắt đầu từ Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng minh chứng cho điều đó.
Lý hoặc Luận của Mâu Tử là một tác phẩm
nổi tiếng, được viết vào cuối thế kỷ thứ II (198) và được lưu hành tại Trung
Quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ V, có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó còn là
"sách gối đầu giường" của người Phật tử Viễn Đông, cụ thể là Trung
Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt những nghiên cứu của các học
giả Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp được công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc
tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu từ công trình của Lương Khải Siêu, tiếp
đó là của H.Maspéro, Tokiwa Daijo, P.Pelliot, Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto
Bunzaro, Dư Gia Tích và Fukui Kojun (dẫn theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập
1). Ở Việt Nam, nó cũng được coi là cuốn sách lý luận được quan tâm từ hơn 1.000
năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn Giáp giới thiệu Mâu Tử là
"người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt Nam", cuốn sách đó được sự
quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều người dân. Trong khi nghiên cứu Lục
độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát hiện những mối liên hệ thú vị và trên
cơ sở một cuộc khảo sát hết sức công phu, ông đã tìm ra bằng chứng khẳng định
Mâu Tử là người Việt Nam và Lý hoặc Luận chính là tác phẩm của Việt Nam truyền
sang Trung Quốc. Công trình nghiên cứu này của ông đã được công bố một phần
trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam ,
tập 1).
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Trong
bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lý hoặc Luận không phải viết để xiển dương Phật
giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam
đối với văn hóa phương Bắc". Phải có một bề dày văn hóa như thế nào mới có
thể có được một bản lĩnh văn hóa như vậy. Một bên thì áp đặt Thi Thư như chân
lý, Trung Hoa là trung tâm, một bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa chắc là
trung tâm của trời đất", "năm kinh chưa hẳn là lời của thánh
hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta còn thấy dân tộc ta đã bảo
tồn văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật
giáo, Nho giáo và Lão giáo để phát triển nền văn hóa của mình như thế nào và
truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra sao.
Sáu lá thư và một vị vua
Một phát hiện cực kỳ quan trọng khác của giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại tạng kinh chữ Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với một "sứ quân" của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6 lá thư này, chưa có một tài liệu nào đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu tiên trong 6 lá thư là địa danh "Giao Châu", ông đã tiến hành một cuộc truy tìm ngoạn mục. Trước hết là tìm nguồn gốc Việt
Khó khăn nhất là tìm ra tác giả của
chúng. Ông bảo tung tích của những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết.
Ông "kiểm soát toàn bộ" những
tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử
Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, cũng không tìm thấy những người có các cái tên
ấy. Ông lục tìm trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc
sử, Nam sử và Tư trị thông giám sử cũng như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký
toàn thư, Việt sử tiêu án và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng không
gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương đương) nào với cái tên Lý Miễu;
lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục cao tăng truyện cũng như Thiền Uyển tập
anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy
nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2 có liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng
kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao
tăng truyện 5 tờ 255b15-17 thì thấy là Thích Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao,
sự khác nhau đó là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.
Ông mở rộng việc truy tìm sang các tài
liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan của
Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục (là sách được Vũ Điền
thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả những bộ sách Trung Quốc còn sót lại
trong Thư viện hoàng gia sau vụ cháy năm 887), tìm thấy một dữ kiện lôi cuốn.
Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan đề "Tá
âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo
Cao pháp sư tập, một quyển". Vấn đề là Đạo Cao tác giả của hai cuốn sách
Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập này có phải là Đạo Cao pháp sư trong 6 lá thư hay
không? Đối chiếu thì thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật
biên soạn mà phải là từ Trung Quốc mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật
giáo Nhật Bản ông không thấy tăng sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo Cao cả. Vấn đề
là họ mang về Nhật từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp vẫn không cho biết một
tí gì cả, chỉ biết chắc chắn là nó phải được mang về trước năm 887 để có thể
ghi vào bản thư mục nói trên. Ông cũng kiểm soát những bản thư tịch liệt kê
những tư liệu liên quan tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên Xô, cũng không tìm
thấy gì hết.
Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn đề
mới. Trước hết về cuốn Tá âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ vào
định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ. Cần nói thêm,
một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có
ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người viết". Ghi chú này đã
được xác nhận từ tài liệu Trung Quốc và từ dẫn giải của các tài liệu Trung Quốc
cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là một tác phẩm khác nữa của Thích Đạo
Cao. Như vậy là ít nhất Thích Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được nhắc đến. Vấn đề
đặt ra là tại sao những tác phẩm đó được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung
Quốc lại không ghi một cách đàng hoàng trong các tài liệu chính thống của mình,
mà chỉ ghi một cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục nghiên cứu và
đối chiếu, ông xác định rằng sở dĩ như vậy là vì những sách đó chắc chắn không
phải tiếng Trung Quốc mà là tiếng nước ngoài.
Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận,
Đạo Cao chắc chắn không phải là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Triều Tiên,
trong khi người mang tên đó là một trong hai tác giả các bức thư trao đổi với
Lý Miễu, "sứ quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt
Nam .
Và từ nhân vật này, ông phát hiện một chứng cứ quan trọng khác về một cột mốc
phát triển ngôn ngữ dân tộc: Tá âm là một quyển sách ngữ học về quốc âm, còn Tá
âm tự là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Rất tiếc là chúng đã thất
lạc, nhưng chắc chắn là có những cuốn sách đó. Ông bảo trong sưu tập Stein tàng
trữ tại Bảo tàng viện Anh Quốc có một thủ bản mang ký hiệu S.5731, mô tả một
tài liệu giống như vậy, nhưng vì ông "chưa có trong tay" thủ bản đó
nên chưa thể khẳng định.
Chúng tôi dẫn chứng dài dòng đoạn trên,
tuy rất sơ lược, để bạn đọc phần nào thấy được cách làm việc cẩn trọng của giáo
sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đã được tiến hành và dễ dàng tìm ra
tông tích Việt Nam
của người thứ hai là Pháp Minh.
Đối với nhân vật Lý Miễu, nội dung 6 lá
thư cho thấy Lý Miễu được gọi là "sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp
sư trong 6 lá thư coi ông "ở địa vị của một bậc thiên tử". Đối chiếu
danh sách những chức danh tương đương với "sứ quân" như "thái
thú", "thứ sử" Trung Quốc cử sang thì không thấy tên Lý Miễu.
Toàn bộ sử sách Trung Quốc cũng như Việt Nam đều không có tên Lý Miễu. Với
một khảo sát văn liệu tương tự cùng những phân tích chính trị, xã hội đến tận
ngọn nguồn, ông kết luận Lý Miễu chính là một vị vua của Việt Nam . Một nhân
vật xưng vương xưng đế trên một đất nước độc lập mà Trung Quốc không với tới
thì sử sách Trung Quốc không chép là không có gì lạ. Còn việc sử ta không chép
cũng là đương nhiên, vì không không có sử liệu. Ông ước đoán 6 lá thư đó được
viết vào những năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc triều (420-588) của Trung
Quốc. Niên đại của Lý Miễu nằm trong khoảng 390-470, của Đạo Cao khoảng 365-455
và Pháp Minh khoảng 370-460. 6 lá thư chứa đựng những sử liệu vô cùng quý giá
cho việc nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo, chính trị và tư tưởng
(bạn đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang
427-582).
*
Xin tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền
sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện một loạt các công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch
sử dân tộc và lịch sử Phật giáo, về văn học, triết học... Riêng các công trình
lịch sử văn học của ông được tập hợp thành Tổng tập văn học Phật giáo khoảng 50
tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ lược một số trong rất nhiều phát
hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người quan tâm đến lịch sử nước
nhà biết đến. Đối với các cơ quan quản lý ngành lịch sử và những nhà sử học -
những người đang nghiên cứu lịch sử, chúng tôi thiết nghĩ nó có lợi chứ hoàn
toàn không gây thiệt hại gì cho việc nghiên cứu, vì nghiên cứu thì cần có những
tài liệu mới do chính mình hoặc do người khác phát hiện ra. Các cơ quan nghiên
cứu lịch sử hoặc các nhà sử học có thể xem xét, đánh giá, tranh biện, cái gì có
tài liệu chứng minh là không đúng thì nói là không đúng, cái gì cần tiếp tục
làm rõ thì cùng nhau tìm tòi làm rõ, nhưng cái gì thấy có cơ sở là đúng rồi thì
cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất cả đều nhằm mục đích tìm ra sự
thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được
truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được gìn giữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét