Trên thế
giới gần ba mươi triệu người được xem như nô lệ thời hiện đại, ước tính bởi tổ
chức Walk Free Foundation tạm dịch là Tổ chức Đi tự do. Web site của tổ chức
này ở đây:http://www.walkfreefoundation.org và
bảng xếp hạng các quốc gia theo số người được xem như nô lệ:http://www.globalslaveryindex.org/
Định nghĩa người “nô lệ” của thế kỷ 21
. Nô lệ là hoàn toàn tùy thuộc vào
người khác, cứ như là thuộc quyền sở hữu của người này – người bị lệ thuộc
có thể được mua, mang đem bán, trao đổi như một món hàng và đôi khi bị bạo lực
hay bị giết.
. Công nhân bị bóc lột và bị bó buộc phải làm việc như người tù khổ sai,
không có tự do chọn lựa thay chỗ làm hay nghỉ việc, có khi bị đánh đập hành hạ
(bị bóc lột kinh tế).
. Nạn nhân của tổ chức buôn người,
bị lường gạt, bóc lột, ép buộc làm những việc trái với đạo đức luật lệ và phạm
tới nhân phẩm của con người (bị bắt phải bán dâm là một thí dụ, cưỡng hôn là
thí dụ thứ nhì – bị bóc lột giới tính).
Điểm
chung của tất cả các trường hợp này, nạn nhân những nô lệ của thời hiện đại, là
việc mất hoàn
toàn những tự do căn bản nhất của con người : tự do chọn việc làm, tự do
rời một việc khi việc làm không phù hợp với mình, tự do bảo vệ thân thể mình.
Cũng
như chế độ nô lệ hiện hữu trước thế kỷ thứ XIX, trong hình thức nô lệ hiện thời
có một phía bóc lột và một phía bị bóc lột – nghĩa là cuộc sống của người nô lệ
hoàn toàn tùy thuộc vào người «chủ nô lệ».
Toàn cảnh tình hình «nô lệ» trên thế giới hiện thời:
Ấn độ là
nước có đông dân «nô lệ» nhất, khoảng 13 tới 14 triệu. Sau đó là Trung
Quốc (khoảng 3 triệu
người, phần đông là bị bóc lột về kinh tế), tiếp đến là Pakistan (khoảng 2 triệu người, phần lớn là dân
tị nạn từ Afghanistan, bị bóc lột dưới đủ mọi hình thức).
Nước Nga và nước Thái Lan cũng là hai quốc gia được xếp trong
hàng top ten của các nước nhiều nô lệ (trên dưới nửa triệu người ở Nga cũng như
ở Thái Lan).
Tại
các nước Âu Mỹ cũng còn một số người bị xem như nô lệ theo định nghĩa nói trên,
nhưng rõ ràng là rất ít. Toàn nước New Zealand chẳng hạn, số nô lệ ước
định chỉ khoảng 450 người.
Ở Việt Nam,
cũng theo định nghĩa trên và theo Tổ chức Walk Free Foundation, có khoảng
240.000 – 260.000 «nô lệ», Việt Nam đứng hạng 15 trên thế giới tính trên số người nô lệ
hay hạng 64 nếu tính theo bình quân số nô lệ so
với dân số – trên tổng số 162 quốc gia của nghiên cứu -.
Các
nước ít «nô lệ» nhất là Iceland ,
Ireland , Anh Quốc, các nước
Bắc Âu, Úc và New Zealand .
Tiếp theo đó là Luxembourg ,
Thụy sĩ, Bỉ.
Thế
có nghĩa là Walk Free Foundation ước tính số người bị nô lệ trong từng quốc
gia. Sau đó tính trên dân số của các quốc gia để cho ra tỉ lệ bình quân số nô
lệ trên toàn dân số của mỗi quốc gia.
Chỉ số nô lệ đầu tiên mà Walk Free Foundation báo cáo
Tổng
chỉ số nô lệ 2013 cho ta kết quả xếp hạng của 162 quốc gia trên thế giới. Tổng
chỉ số này dựa trên ba số cấu thành
. Tỉ
lệ của số người được xem như nô lệ trên số dân
.
Số tảo hôn
.
Số trường hợp buôn người
Phương pháp tiến hành để cho ra và xếp hạng các nước theo chỉ số
nô lệ
Tổng chỉ số nô lệ là một xếp
hạng bao gồm số đo của ba biến số:
- Số ước định tỉ lệ nô lệ trong
mỗi nước (có giá trị cho 95% tổng chỉ số)
- Lượng mức buôn người ở và từ
mỗi nước (cho 2.5% tổng chỉ số)
- Lượng mức tảo hôn, đám cưới
của trẻ con ở mỗi nước (cho 2.5%)
Số ước định tỉ lệ nô lệ (biến số quan trọng nhất vì có giá trị cho 95% tổng chỉ số) được
tính từ hai nguồn tài liệu nghiên cứu:
- Phân tích và đối chiếu các dữ
kiện từ nhiều nguồn khác nhau với những phương pháp phân tích thích hợp. Các dữ
kiện này gồm những báo cáo, thống kê của các chính phủ, các nghiên cứu của các
tổ chức quốc tế và của các tổ chức phi chính phủ và cả những con số đưa ra bởi
các báo chí.
- Dựa trên các dữ kiện đi từ
các nghiên cứu trên các mẫu có tính đại diện tại các nước mà loại nghiên cứu
này đã được thực hiện về chỉ số nô lệ, từ đó dùng phương thức thống kê ngoại
suy – extrapoler – để, với nhiều thận trọng, tìm ra được một chỉ số có thể tín
cậy được để áp dụng cho các nước chưa có nghiên cứu về đề tài nô lệ này.
Những con số về
buôn người được rút ra từ Báo cáo của Mỹ về tình trạng buôn người.
Còn
các con số
về hôn nhân của trẻ con đi từ
dữ kiện của UNICEF.
Walk Free Foundation ?
Là
một tổ chức Úc, Walk Free Foundation được sự giúp đở của nhiều chuyên viên các
tổ chức quốc tế và của các trường Đại học. Nhiều thân hào nhân sĩ thế giới như
Hillary Clinton, Tony Abbott, Gordon Brown, Gareth Evans, Julia Gillard, Bill
Gates, … đã nhận đở đầu và cổ động công trình của Tổ chức này.
Chủ
đích của Walk Free Foundation là tìm cách chấm dứt tình trạng nô lệ hiện đại
bằng cách huy động những tài năng và khả năng cao nhất trong lĩnh vực nghiên
cứu và hành động để :
. Nêu
lên thực trạng những nước và những kỷ nghệ gây nô lệ thời hiện đại,
.
Tìm ra những đối tác và những phương thức hành động có khả năng loại trừ tình
trạng nô lệ ấy nhất là đối thoại với những chính trị gia và giới quản trị kinh
tế để họ ý thức được vai trò mà họ có thể thực hiện để chấm dứt nô lệ.
.
Có cái nhìn sáng suốt về phương thức hành động của Tổ chức, phê bình đánh giá
tác động của chính Tổ chức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét