8/12/13
Ma dưới góc nhìn Phật giáo
Tìm hiểu
định nghĩa của Ma trong kinh sách
Chữ Ma- chữ Phạn là
Mâra, tiếng Tây tạng là BDud, người Nhật gọi là Hajun,
Ma đã từng dùng mọi
xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức
Thích-Ca Mâu-Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn
ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức
Phật. Tên cầm đầu đòi Đức Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định
bảo rằng không có gì chứng thực Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay
phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng
minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài. Cả đàn Ma liền biến mất như bị phù
phép vậy.
Theo Thừa Kinh điển
(Sutrayana) có Tứ ma là :
1. Ma cấu: đó là thứ
ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân
hồi. Con ma đó gọi là « con ma gánh chịu cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là
Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.
2. Ma dục vọng : bao
gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành vi
tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau
của cõi luân hồi. Đó là « con ma đưa đến cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là
Phiền não ma.
3. Ma thần chết: đó
là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp
của mọi hiện tượng, tức là quy luật Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô
thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma.
4. Ma con: bao gồm
những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác bên
ngoài làm cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn”.
Theo Kim cương Ma lại được định nghĩa khác hơn:
1. Ma xiềng xích: con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền
não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám víu và ghét bỏ
đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn luôn tìm cách
trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách tiếng Hán gọi con ma xiềng xích là
Phiền não ma.
2. Ma thả lỏng: đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc
độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy
bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau cho ta.
Kinh sách gốc tiếng Hán gọi con ma này là Tâm ma.
3. Ma khánh hỷ: đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích,
thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những
« kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao
siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh gốc tiếng Hán
gọi là Thiện căn ma.
4. Ma kiêu căng: đó
là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma
mang tên là cái « ta », cái « tôi », cái « ngã ». Kinh sách gốc tiếng Hán gọi
là Tam muội ma.
Kinh Hoa nghiêm có Thập ma: Uẩn ma, Phiền não
ma, Nghiệp ma, Tâm ma, Tử ma, Thiên ma, Thiện căn ma, Tam muội ma, Thiện trí
thức ma ( tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo
lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác), Bồ-đề Pháp-trí ma (đã
phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo).
Đã nói đến danh từ và
định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm:
Ma cảnh: khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở
người tu hành.
Ma chướng: những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành
và sự thăng tiến của trí tuệ.
Ma duyên : còn gọi là
ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.
Ma đàn: là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố
thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai
lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhản
chung quanh ta, rất dễ thấy, mà không cần đến « kính chiếu yêu ». Chữ Ma đàn
nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không
biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi.
Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
Ma đạo: đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới,
tức cảnh giới của ma.
Ma lực: sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung
ác.
Ma ngoại: là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.
Ma Phạm: (Mâra hay Brâma) tức là Ma vương ở cõi Phạm vương, gọi
tắt là Ma Phạm.
Chữ Ma vương đã được
giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạmhay Phạm vương
hay Phạm thiên vương (Mahabrahma) là vị Chúa tể của cõi Ta-bà, quyền lực của Ma
Phạm hay Phạm thiên vương vượt lên vị thế cao nhất trong cõi Dục giới, cai quản
và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng
Thượng đế.
Ma thiền: phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với
ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.
Ma thuật: nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan,
phản khoa học.
Ma sự: ý nghĩa của ma sự khá rắc rối, đại cương là những sự
việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên con đường chánh Pháp.
Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần : yêu
sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và
sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng. Ma sự
cũng là những cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc
dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ
vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy
cảnh dữ mà bỏ thiền…
Vậy Ma thực
sự là gì ?
Ma hay Mâra là một
biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị
thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ
Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết.Ma là chúa tể của
mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ
nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người
Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang
diễn biến chung quanh ta.
Ma còn mang một cái
tên nữa mà Kinh sách ít nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn
với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu. Con ma
Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng »
và « chăm lo » cho ta rất cẩn thận. Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời,
thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con
ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vửa kể do chính nó tạo ra,
kèm theo mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân
hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.
Vấn đề mấu chốt và
gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó
rất hào phóng, cho không tiếc tay, « tham » bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » bao
nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, « bám víu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp
tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà Ma đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà
thôi : cướp giật, mưu mô, thất tình, tự tử, lường gạt, đâm chém… Những khổ đau
ấy Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm
khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú, lệ
thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú. Ma vừa là Kẻ sáng tạo và đồng
thời cũng là Kẻ phá hoại là như thế đó.
Khi nhìn Ma dưới khía
cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta. Ma
nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và
tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không
có Ma. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, thất vọng,
buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi,
nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự
mãn với cái « tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh
sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma : Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên
ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phần trên đây. Nhưng
nếu suy nghĩ sâu sa thì ta sẽ thấy Manhiều hơn, đông đảo hơn như thế nữa, Ma
hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.
Trên đây là những gì
Kinh sách nói về Ma, định nghĩa về Ma. Dựa theo đó ta có thể phân loại và tổng
kết thành ba loại như sau :
- Ma tượng trưng
những cấu hợp do nghiệp của mỗi cá nhân hay những cảnh huống bất lợi xảy ra bên
ngoài: chẳng hạn như ma nghiệp, ma duyên, uẫn ma, ấm ma, ngũ chúng ma, ma
chướng, ma cảnh, ma đạo, ma duyên…
- Ma tượng trưng cho
những hành vi sai lầm hay bất chính : ma phiền não, ma khánh hỷ, ma kiêu căng,
thiện ma, tâm ma, tam muội ma…
- Ma tượng trưng cho
những chúng sinh thực thi những hành vi sai lầm, tai hại : chẳng hạn như ma
phạm, ma vương, những người thực thi ma sự, ma thuật…
Một thí dụ
cụ thể về Ma
Để tránh cách nói
tổng quát, siêu hình như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ thực tiễn hơn,
đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra dọa nạt những con người bình dị như
chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một
căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh
mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta một cách thật rùng rợn. Nếu ta
bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy
nókhi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do
bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám »
tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại,
ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi
theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nóđược, vì chính ta cõng
nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang « nổi da gà » của ta.
Tệ hơn nữa, có thể
sau đó ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với
người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người
này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong
đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư.
Mỗi lần như vậy thì con ma mà ta thấy trước đây lại trở nên hung tợn hơn và
khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng
rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta
nghe về con ma ấy, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma mà chính ta đã từng thấy «
thật » trước đây.
Tóm lại, Ma nằm trong
tâm trí ta và tâm thức ta. Tại sao ? Vì Ma chính là Chủ nhân ông của mọi tư duy
và hành vi duy ý của ta. Vị Chủ nhân ông ấy tượng trưng cho sự vận hành của
nghiệp, cơ sở của sự vận hành ấy là ngũ uẩn (skanha), ngũ uẫn tác động với
ngoại cảnh tức là cơ duyên để giúp chonghiệp biến thành quả. Vậy con Ma, hay Vị
Chủ nhân ông của ta chính là cái ta, cái ngã, cái tôi đang ẩn nấp trong ta,
đang điểu khiển ta. Con Ma đó chính là vô minh, tức những bản năng thú tính,
dục vọng, thèm khát, bám víu, sân si, ảo giác…, chúng kích động ta, đẩy ta vào
những hành vi với mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng trong ta.
Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ
cái tôi, cái ngã của ta, nó rất khôn ngoan và khéo léo, tùy theo từng người,
từng hoàn cảnh và trường hợp, nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng
những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong
tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã.
Ma là cái ngã đang
thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, nó xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta
thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà
thôi, nhưng chính những hành vi do Ma xúi dục đã làm phát sinh ra Thế giới luân
hồi. Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, đồng thời Ma lại nằm trong
tâm thức ta. Đánh đuổi con Ma ấy ra khỏi tâm thức có nghĩa là xoá bỏ cả thế
giới luân hồi này. Vì thế có thể nói Ma chính là biểu hiện của luân hồi, của sợ
hãi, đọa đày và khổ đau. Ma hay Vô minh tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u
mê, lầm lẫn và đau khổ, kích động ta tạo nghiệp, trói buộc ta vào thế giới luân
hồi.
Trừ Ma theo
Phật giáo Tây tạng
Theo sự trình bày
trên đây, Ma ẩn nấp trong đầu ta, tu tập tức là tìm cách đánh đuổi con Ma ra
khỏi đầu. Lý thuyết là như thế, nhưng đánh đuổi bằng khí giới gì, bằng cách
nào?
Mật-lặc Nhật-ba liền
tự nhủ:
« Mã-nhĩ-ba thầy ta
có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản
chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Nếu xem ma quỷ thuộc
bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng ra xa thì cũng giống như là những hành
động ảo giác mà thôi ».
Mật-lặc-Nhật-ba liền
hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện như
thế, phải giữ tâm thức vững vàng trước những đàn ma quỷ dù cho chúng hung tợn
đến đâu cũng thế. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, và
những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức. Ông bèn hết sợ, chấp nhận
sự đối diện với ma quỷ, đồng thời ông phát lộ lòng Từ bi vô biên đối với chúng.
« Nếu chúng nó muốn
ăn thịt ta, ta sẽ hiến dâng thân xác này của ta cho chúng ; sự sống là tạm bợ,
đấy chính là một dịp tốt để ta đem thân xác này làm một việc thiện ».
« Chúng ta cứ tưởng
là mi khiếp sợ chúng ta ; nào ngờ các ý nghĩ đen tối về ma quỷ không thể nào
hiển hiện ra được trong đầu mi, vậy thì mi chẳng có gì để sợ hãi cả ».
Người ta nghĩ rằng ma
chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật
ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh
trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta. Khi nào chúng ta vun xới tâm thức
mình để biến cải nó thành một ngôi vườn đầy hoa thơm và cỏ lạ, tràn đầy lòng Từ
bi và rộng lượng, chan hòa ánh hào quang của Phật tính, thì khi ấy trong tâm
thức ta tức là ngôi vườn chan hoà ánh sáng đó sẽ không còn có bóng dáng của một
con ma nào ẩn nấp.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét