|
Một số nhà nghiên cứu phương Tây đã
nhiều lần nhắc đến cái gọi là "Vương quốc
Sedang" từng tồn tại một thời gian rất ngắn
(1888-1890) trong vùng cao nguyên Kon Tum. Thậm chí, tỏ ra độc lập và khách
quan, họ còn xếp nó vào hàng "các vương quốc cổ" ở Việt Nam.
Thực tế thì chưa ai, chưa ở đâu và chưa khi nào cái gọi là "vương
quốc" này được xác định một cách rõ ràng cả về vị trí địa lý lẫn
ranh giới lãnh thổ.
Di sản duy nhất chứng tỏ sự tồn tại của nó chỉ
là một bộ tem được triển lãm lần đầu tiên tại Huế năm 1945. Thật oái oăm, bộ
tem này sở dĩ còn tồn tại được là vì nó chưa bao giờ được
lưu hành. Sinh thời, kẻ tự xưng là "Maria
đệ nhất, vua của Sedang" rao mãi vẫn không... bán
được "vương quốc" nên không lấy đâu ra tiền để trả công
in!
Mộng bá vương của kẻ bịp bợm
Ở Kon Tum, không một dấu tích, một văn bản,
thậm chí một truyền thuyết nào liên quan đến "Vương quốc Sedang"
còn được lưu giữ. Người Kon Tum, kể cả người Sedang bản địa lẫn cán bộ các
ban ngành cũng hoàn toàn ngơ ngác trước những câu hỏi của chúng tôi về vấn đề
này. Duy nhất một người, ông Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Biên tập báo Kon Tum là
gật đầu: "Đúng là có "Vương quốc Sedang", nhưng không phải là
của người Sedang xây dựng mà do một người Pháp lập nên. Đúng hơn, chỉ là tự
gọi".
Ông Sơn vốn là một giáo viên dạy lịch sử,
từng giữ chức Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tỉnh
Kon Tum trước khi chuyển sang phụ trách tờ báo của tỉnh nhà. Như tự nhận, ông
cũng chỉ biết một số thông tin chứ chưa thật sự nghiên cứu vấn đề. Theo lời
ông Sơn, "Vương quốc Sedang" được lập ra vào năm 1888, kinh đô được
đặt tại làng Kon Gung, vùng Đăk Tô, nay thuộc xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà. Và có
lẽ, vùng ảnh hưởng quyền lực của "Vương quốc Sedang" cũng chẳng lớn
hơn ranh giới của xã Đăk Mar ngày nay là mấy. Điều này khá phù hợp với những
gì được ghi trong một số tài liệu tiếng Pháp ít ỏi còn sót lại.
Nhờ sự hướng dẫn của anh Lê Hảo, cán bộ địa
chính xã Đăk Mar, chúng tôi có thêm một chút hình dung về nơi được xem là
kinh đô của một vương quốc có thời gian tồn tại ngắn nhất trong lịch sử này.
Xã Đăk Mar cách TP Kon Tum 18km, rộng 4.658ha, nằm ở Tây Bắc huyện Đăk Hà. Cả
xã có 8 thôn, gồm 5 thôn gọi theo số thứ tự từ 1 đến 5, ba thôn còn lại được
gọi bằng các tên Kon Gung, Kon Kơ Lốc và Đăk Mút...
Ngày 15/8/2007, khi lòng hồ thuỷ điện Plei
Krông bắt đầu tích nước thì có một phần diện tích của xã Đăk Mar - khoảng
200ha - đã bị nhấn chìm trong vùng nước của lòng hồ có độ cao
570m so với mực nước biển. Làng Kon Gung nằm cách bờ hồ chừng 200m.
Dưới bóng râm của những mái nhà sàn lợp tôn, vách gỗ mốc thếch, nhỏ,
nằm rải rác dưới những tán cây còi cọc, những chú bé người Sedang lấm lem hồn
nhiên ngó theo vài ba con chó, con heo gầy gò chạy rông và mở tròn mắt
nhìn khách lạ lượn xe máy ngang qua... Khung cảnh nói lên rằng Kon Gung
đến nay vẫn là một làng nghèo, xa lạ hoàn toàn với danh xưng Pelei Agna hay
Thành phố vĩ đại, như người ta từng gán cho nó từ 120 năm về trước.
Những danh xưng to tát nhiều màu sắc tưởng
tượng hơn khả năng phản ánh thực tại này vốn dĩ được tạo ra
bởi một gã phiêu lưu quốc tế người Pháp có tên là Charles Marie
David de Mayréna. Đây là tên chính thức được nhắc đến trong "Tập san Đô
thành hiếu cổ" (Bulletin des Amis du Vieux Hue) số 14, ấn hành tháng 6/1927
và một số văn bản, giấy tờ, thư tín còn được lưu trữ tại Pháp và Bỉ,
được nhắc lại bởi cái gọi là "Hội đồng Hoàng gia Sedang" năm 1998.
Còn trong tài liệu của một số nhà nghiên cứu
khác, gã lại mang những cái tên khác, lúc loằng ngoằng là Charles Marie
David, AKA de Mayréna, lúc lại là David Auguste Jean Baptiste Marie Charles,
hay Marie de Mayréna, và thậm chí rất sai là Nam tước Henry Mayréna. Gã sinh
tại thành Toulon
nước Pháp ngày 31/1/1842. Năm 1861, mới 19 tuổi, trong biên chế của
một đơn vị lính viễn chinh, gã đã có mặt và tham gia đánh chiếm xứ Nam
Kỳ.
Quãng đời 10 năm tiếp theo đó của Mayréna là
một chuỗi hư hư thực thực. Có giả thuyết cho rằng gã tiếp tục cuộc đời binh
nghiệp, trở thành một đại úy trong quân đội viễn chinh Pháp, từng có mặt trên
nhiều chiến trường cả Âu lẫn Á. Một số tài liệu khẳng định, chỉ sau một thời
gian ngắn tham gia quân ngũ, gã quay về Pháp, trở thành một nhân viên Ngân
hàng ở Paris. Một số kết quả nghiên cứu khác lại mô tả David de Mayréna như
một tay giang hồ phiêu lưu, nay lang thang khắp nước Phổ (Đức), mai lại sang
Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó lưu lạc sang tận xứ Java, Sumatra (Indonesia)
lúc này đang là thuộc địa của Hà Lan. Ngay từ xuất xứ, David de Mayréna
đã là một con người kỳ lạ, pha trộn giữa máu phiêu lưu và những hành vi bịp
bợm.
Ngày 3/3/1869, lúc đang là một nhân viên ngân
hàng, Mayréna kết hôn lần đầu tiên với cô Maria Francisa Avron. Cuộc hôn nhân
này lần lượt đem lại cho gã hai mặt con, một trai, một gái, tên là Albert và
Marie Louise. Cuộc đời viên chức với gánh trách nhiệm với gia đình dường như
quá nặng và không phù hợp với gã phiêu lưu.
Tháng 6/1883, gã trốn khỏi Paris và mò sang xứ Java, mục đích là để
tránh bị truy tố vì tội biển thủ tiền bạc. Ở Java chưa đầy một năm, David de
Mayréna lại gây ra một vụ lừa cả tình lẫn tiền con gái một vị quan chức Hà
Lan cho nên lại bị trục xuất, phải quay lại nước Pháp. Chẳng hiểu móc nối thế
nào, gã đã từ Pháp tổ chức được cả một chuyến tàu chở vũ khí đến tỉnh Aceh
thuộc Đông Ấn. Vụ buôn lậu này bị bại lộ và ngăn chặn khiến David de Mayréna
không thể theo tàu đặt chân trở lại Đông Ấn.
Năm 1885, sau suýt soát một phần tư thế kỷ, gã
lại tạt ngang vào xứ Nam Kỳ lần thứ hai, tậu một đồn điền, định
an cư lạc nghiệp. Không cưới hỏi, nhưng gã cũng kịp có thêm hai người vợ bản
địa, trong khi vẫn chưa hề ly dị với Maria Francisa Avron. Người thứ nhất tên
là Anahia, một cô gái Chăm con nhà quí tộc sa sút, làm nghề đốn củi. Cô thứ
hai người Kinh tên khai sinh là Lê Thị Bến. Để chắc ăn, gã tuyên bố từ
bỏ đạo Thiên Chúa và gia nhập đạo Hồi, việc có nhiều vợ xem như không hề phạm
luật!
Tuy nhiên, một đồ đệ của chủ nghĩa xê dịch như
gã thì chẳng vùng đất nào, bà vợ nào níu chân được lâu. Trong thời gian khai
thác đồn điền, Mayréna đã tiếp xúc với các nhà truyền giáo thuộc Hội thừa sai
Paris, kịp tìm hiểu và bổ sung cho mình một số kiến thức về xứ An Nam
đã hoàn toàn bị nước Pháp đô hộ kể từ sau sự kiện kinh thành Huế thất thủ năm
1885. Gã nhận ra rằng, bất lực và nhu nhược, triều đình Huế gần như đã quên
lãng cả một vùng cao nguyên rộng lớn, bị cô lập hoàn toàn với đồng bằng duyên
hải Trung Kỳ bởi đường sá cách trở.
Với mục đích thực dân và tận khai thác thuộc
địa, nhà nước bảo hộ Pháp cũng chưa thực sự áp đặt được quyền lực lên vùng
đất này. Xung đột giữa các tộc người Thượng trên miền cao nguyên vẫn diễn ra
liên miên. Chỉ có những nhà truyền giáo, cả người Pháp lẫn người Kinh thuộc
Hội Thừa sai Paris là thực sự có ảnh hưởng
nhất định đối với những tộc người sinh sống suốt một vùng sơn cước rộng lớn
phía Tây miền Trung xứ An Nam.
Trong khi đó, vua Xiêm, sau khi thâu tóm quyền lực ở vùng Hạ Lào cũng đang
rắp ranh thò tay sang Tây Nguyên. Thậm chí, gã còn nhìn thấy cả
quyền lực của vua Phổ cũng lăm le mở rộng đến tận phía Đông rặng Trường Sơn.
Ngay cả nguy cơ bành trướng của thực dân Anh từ hướng miền Nam Burma
(Myanmar ngày nay), xuống Bắc, Trung rồi Nam Lào, từ đó mở rộng xuống Tây
Nguyên cũng là điều không thể loại trừ.
Với những lập luận này, gã phiêu lưu đã tìm
cách thuyết phục chính quyền bảo hộ Pháp về việc cần thiết lập một đoàn thám
hiểm lên phía Bắc Tây Nguyên, thỏa thuận với các bộ tộc đang sinh sống trên
vùng đất này nhằm mở một con đường lên những vùng đất miền Thượng, từ đó vươn
dài lên cao nguyên Attopeu và lưu vực sông Champasac phía Nam Lào. Nói
cách khác, đó là việc tìm kiếm một con đường từ duyên hải Trung Kỳ, xuyên qua
dãy Trường Sơn và nối đến sông Mê Kông.
|
|
Cho đến thời điểm đó, công thức của chủ nghĩa
thực dân vẫn chưa hề thay đổi, thường bắt đầu từ các hoạt động truyền giáo,
tiếp đến là phần việc của các nhà thám hiểm, thăm dò - thực chất là
hoạt động gián điệp - và cuối cùng là việc thiết lập quyền lực bằng vũ
lực của súng trường và đại bác. Mục tiêu thám hiểm do David de Mayréna vẽ ra
và xung phong đảm nhận vai trò tiên phong đã nhanh chóng nhận được sự đồng
thuận của cả Toàn quyền Đông Dương Ernest Constans lẫn Tổng Thư ký
Klobukowski.
Qua sự giới thiệu của hai nhân vật chóp bu này,
ngày 16/3/1888, Mayréna đã liên lạc với Công sứ Qui Nhơn Lemire và các linh
mục Thiên Chúa giáo để bàn định kế hoạch. Giám mục Qui Nhơn đã có thư giới
thiệu gã phiêu lưu với các Cha Jean-Baptiste Guerlach, Irigoyen... những nhà
truyền giáo dòng Thừa sai ở Kon Tum, bảo đảm cho gã một sự hỗ trợ chắc chắn
từ phía các linh mục Thiên Chúa giáo.
|
Quốc
huy "Vương quốc Sedang".
|
Sau hơn một tháng chuẩn bị, ngày
21/4/1888, đoàn thám hiểm lên đường. Cùng đi với Mayréna còn có một người bạn
của ông ta tên là Alphonse Mercurol, một thông dịch viên, một đầu bếp, bốn
phụ tá người Trung Quốc và 80 phu khuân vác kiêm vệ sĩ do Tòa Công sứ Qui
Nhơn điều động.
Đầu tiên, Mayréna đặt chân đến làng Kon Jari
Tul, một làng Bana nơi Cha Jean-Baptiste Guerlach quản hạt, sau đó dừng lại ở
làng Kon Trang, địa phận truyền đạo của Cha Irigoyen... Mỗi nơi,
Mayréna chỉ dừng chân dăm ba ngày, đủ thời gian để được các cha giới thiệu
làm quen với các trưởng làng và giúp một vài người dân cắt cơn sốt rét.
Sau khoảng một tháng rong ruổi, đoàn chinh phục dừng lại ở thung lũng sông
Đăk Bla vùng Đăk Tô. Nơi đây là một bình nguyên tương đối bằng phẳng so với
cả vùng Tây Nguyên lắm đèo nhiều dốc. Vùng Đăk Tô còn là ngã ba gặp gỡ của
hai dòng chảy lớn là sông Pô Cô và sông Đăk Bla để từ đó đổ nước vào
sông Sê San, khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và đi lại.
Xuất thân binh nghiệp, lại quen phiêu lưu,
David de Mayréna luôn tỏ ra là một tay kiếm cự phách và một tay súng
thiện xạ. Với thân hình to lớn lực lưỡng của một người Âu, chiếm ưu thế vượt
trội về thể lực so với những người bản xứ có thân hình nhỏ bé hơn nhiều, gã
đã trở thành nhà vô địch tuyệt đối trong các cuộc giao đấu. Kiến thức y khoa
và số thuốc men Tây phương mang theo còn giúp gã một cách đắc lực trong việc
chữa lành một số bệnh nhiệt đới, nhất là bệnh sốt rét, vốn rất phổ
biến, cho người dân một số nơi mà đoàn thám hiểm ruổi qua. Chẳng bao lâu, hầu
hết các làng bản người Bana, Rongaos và Sedang trên đường đi đều bị gã thuyết
phục.
Sự mông muội, lạc hậu của Tây Nguyên cuối thế
kỷ XIX đã trở thành cơ hội vàng của tay bịp bợm. Đồng bào các dân tộc xem
David de Mayréna như một... vị thần, nhất loạt bầu gã làm trưởng làng.
Trong "tư duy hoang dã" (sovage minds, chữ dùng của nhà
dân tộc học Levis Strauss) của những tộc người ít có cơ hội tiếp xúc với thế
giới bên ngoài, chỉ có Thần mới to lớn hơn người, mới... râu rậm, mắt xanh và
đầy lông lá như thế! Cũng chỉ có thần mới có sức khỏe kinh người, có thể hạ
gục nhiều người rất nhanh, lại có thể chữa bệnh đưa người chết sống lại như
gã!
Mặt khác, do sự xúi giục, lũng đoạn của các thế
lực thống trị đại diện cho nhiều hướng quyền lợi khác nhau, các làng, các tộc
người Tây Nguyên thời điểm ấy thường có những xung đột, hiềm khích. Từ chỗ
yếu thế, nhờ có sự giúp đỡ của các giáo sĩ Thiên Chúa giáo dòng Thừa sai,
những làng người Bana đã mạnh dần lên. Đây là bộ tộc Tây Nguyên đầu
tiên có chữ viết theo mẫu tự Latin. Người Bana lại được các giáo sĩ hướng dẫn
kỹ thật trồng lúa nước, hoa màu và chăn nuôi một số gia súc, gia cầm nên đời
sống khấm khá hơn so với người Sedang và một số dân tộc khác vẫn đang giữ
khuynh hướng bài Thiên Chúa giáo quyết liệt.
Từ năm 1883, các làng người Bana ở Kon Tum đã
tập hợp được cả một đạo quân lên đến 1.200 người, chiếm ưu thế trong các cuộc
tranh chấp, xung đột với người Sedang, người Rongaos. Với sự xuất hiện của
David de Mayréna và đoàn tuỳ tùng có nhiều... phép lạ, người Sedang vùng Cao
nguyên Đăk Tô, Kon Tum tin rằng họ đã tìm được một chỗ dựa, một cơ hội để cân
bằng quyền lực. Lợi dụng điểm này, Mayréna đã đứng ra thuyết phục các già
làng Sedang, Bana, Rong Gao trong khu vực hình thành nên một liên minh hoà
bình nhằm chấm dứt xung đột. Uy tín do những hành động trực quan của gã đã
tạo ra sức nặng thuyết phục. Hầu hết các bộ tộc vùng Đăk Tô đã đồng ý ký thoả
thuận liên minh và nhất trí bầu Charles Marie David de Mayréna làm
người đứng đầu.
Ngày 3/6/1888, "Hợp bang Mọi
(Moi)" được thành lập. Do lãnh thổ người Sedang lớn nhất nên một
tháng sau, ngày 1/7/1888, hợp bang này đổi tên thành Vương quốc Sedang.
Mayréna tự tôn mình lên làm vua, lấy hiệu là "Marie đệ nhất, vua của
(người) Sedang", có quyền lực tuyệt đối và thế tập. Ngày 21/8
cùng năm, Mayréna tuyên bố chấm dứt quan hệ hôn nhân với Maria
Francisa Avron. Bà Lê Thị Bến được chính thức tấn phong, trở thành Hoàng hậu
Marie. Tuy nhiên, ông ta vẫn giữ nguyên "quyền thừa kế tước hiệu hoàng
gia" đối với hai người con của cô Avron đang sống với mẹ tít tận bên Pháp
và chẳng hề có khái niệm gì về cả Vương quốc Sedang xa xôi lẫn ông bố
hoàng đế tự phong của họ. Cậu Albert và cô Marie Louise chính thức được công
nhận là Hoàng tử và Công chúa của triều đại Marie, vua Sedang!
Dưới vua còn có một người Sedang đảm nhiệm chức
tể tướng. Dưới tể tướng gồm có nhiều taoule, tức là các trưởng
làng, có quyền quyết định trong việc chuyển nhượng đất đai. Làng Kon Gung (xã
Đăk Mar ngày nay) được chọn làm nơi đặt kinh đô, gọi là Pelei Agna (thành phố
vĩ đại) hoặc bằng tên gọi khác là Maria Pelei. Gần như đã chuẩn bị sẵn,
chỉ hai ngày sau, Marie đệ nhất cho công bố bản "Hiến pháp Sedang"
gồm 15 điều. Trong đó, điều 5 qui định "quốc kỳ màu xanh tuyền, có một
hình chữ thập gắn ngôi sao ở giữa". Hiến pháp cũng "nghiêm cấm hiến
tế người" (điều 10) và cho phép "được tự do tôn giáo trong vương
quốc" (điều 11).
Bản hiến pháp hình thành vội vã này đã được Cha
Jean Baptiste Guerlach chứng thực. Đó là bằng chứng không thể chối cãi, chứng
tỏ những nhà truyền giáo của Hội Thừa sai Paris đã từng nhúng tay, hoặc tiếp
tay vào một âm mưu bịp bợm ở miền Tây Nguyên Việt Nam, không ngoài mục đích
thúc đẩy sự chia rẽ các dân tộc ít người ly khai với toàn
thể lãnh thổ Việt Nam thống nhất.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét