6/11/13

Lãnh hải Việt Nam, luật biển và Biển Đông - những điều cần biết



Nhằm đưa đến cho độc giả một số kiến thức căn bản về lãnh hải, luật biển quốc tế, Tuần Việt Nam đăng tải một phần cuốn sách “Sổ tay pháp lý cho người đi biển”. Sách do Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới Chính phủ và NXB Chính trị Quốc gia phát hành, năm 2002.
Tên sách: SỔ TAY PHÁP LÝ CHO NGƯỜI ĐI BIỂN
Tác giả: Tập thể tác giả, Luật sư, TS Hoàng Ngọc Giao chủ biên
Phát hành: Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới, NXB Chính trị Quốc gia.


CHƯƠNG III. CÁC THỰC THỂ LIÊN QUAN ĐẾN BIỂN

Quốc gia ven biển là các quốc gia có bờ biển.
Quốc gia không có biển là các quốc gia không có bờ biển. Hiện trên thế giới có 42 quốc gia không có bờ biển. Lào, nước láng giềng của nước ta, là quốc gia không có bờ biển.
Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và đi từ biển vào để thực hiện các quyền mà những quốc gia này được hưởng theo Công ước Luật biển 1982 (quyền tự do trên biển cả, các quyền với vùng…), quyền có hạm đội treo cờ của nước mình, được khai thác số cá thừa tại vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển theo thỏa thuận với quốc gia ven biển.
Thực hiện các quyền này, các quốc gia không có biển có quyền quá cảnh các quốc gia khác thông qua thỏa thuận với các quốc gia đó. Việc quá cảnh được thực hiện trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của quốc gia không có biển và lợi ích chính đáng của quốc gia quá cảnh hữu quan.
Lào thực hiện quyền quá cảnh qua Việt Nam theo Hiệp ước năm 1959 giữa Lào và Nam Việt Nam, bảo đảm quyền tự do quá cảnh. Sau năm 1975, CHXHCN Việt Nam tạo điều kiện cho Lào quá cảnh qua cảng Đà Nẵng và cảng Cửa Lò. Ngoài ra, Việt Nam còn cho phép Lào đánh bắt lượng cá dư thừa trên vùng đặc quyền về kinh tế theo thỏa thuận giữa hai bên.
Quốc gia quần đảo là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần dảo và có thể bao gồm một số hòn đảo khác nữa. Ven bờ Biển Đông có hai quốc gia quần đảo thuộc loại lớn nhất trên thế giới là PhilippinesIndonesia. Nước ta tuy có nhiều đảo và quần đảo song vẫn không phải là quốc gia quần đảo mà chỉ là quốc gia ven biển.
Khái niệm quốc gia quần đảo lần đầu tiên được công nhận trong Công ước Luật biển 1982, tại Điều 46. Trên thế giới có nhiều quốc gia quần đảo, gần gũi với chúng ta có Indonesia, Philippines, hay Cabo Verde.

Đảo là gì?
Đảo theo cách hiểu thông thường là một vùng đất có nước bao quanh. Theo cách hiểu này, ta có đảo nằm trong các sông hồ và đảo nằm trong biển (hải đảo). Đối với người đi biển thì đảo được hiểu là các hải đảo nói chung, bao gồm các đảo, đá.
Theo nghĩa pháp lý:
Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. (trích Điều 121, Công ước Luật biển 1982)
Định nghĩa trên đã đưa ra các điều kiện pháp lý để một vùng đất có nước bao quanh được công nhận là đảo trước pháp luật:
1.     một đảo phải được hình thành một cách tự nhiên: “Vùng đất tự nhiên” này phải có sự gắn bó hữu cơ với đáy biển;
2.     có cùng độ nổi thường xuyên như đất liền, khi thủy triều lên vẫn ở trên mặt nước, ở trên mực triều cường và
3.     Đảo cần phải có nước bao bọc xung quanh. Tuy nhiên, khi một đảo được nối với đất liền bởi cây cầu hoặc đường hầm thì đương nhiên vẫn có giá trị như một đảo. Trong các quy định của luật pháp quốc tế cũng như thực tiễn đời sống quốc tế đã chứng minh thành phần vật chất cấu tạo nên đảo có thể từ bùn, san hô, cát, đất… mà không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của các đảo.
Chế độ pháp lý của đảo:
Với điều kiện phải tuân thủ Khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của một hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. (trích Điều 121 Công ước Luật biển 1982)
Quy định này khẳng định các đảo cũng có cùng các danh nghĩa và được đối xử ngang bằng như các vùng lãnh thổ đất liền. Có nghĩa là, các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.
Trên các đảo, quốc gia cũng có chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền (các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp). Điều này đã làm tăng thêm vai trò của các đảo. Năm 1955, Nữ hoàng Anh đã ra lệnh cho Hải quân cắm cờ, dựng bia chủ quyền trên Rock All rộng 3 m vuông, cao 21 m, để tuyên bố vùng đặc quyền về kinh tế xung quanh Rock All là 200 hải lý.
Đảo Cook rộng 243 km vuông có quyền nhận 352.240 km vuông vùng đặc quyền về kinh tế. Đảo Naru với 21 km vuông sẽ có 323.750 km vuông vùng đặc quyền về kinh tế. (1)
Phân loại
Mặc dù có một quy chế cho các đảo, nhưng Công ước Luật biển 1982 không đưa ra được các tiêu chuẩn để phân loại các đảo. Trước đây, trong dự thảo các điều khoản liên quan tới việc hoạch định quyền tài phán của quốc gia ven biển trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ đưa ra trong Hội nghị lần thứ III của LHQ về Luật biển ngày 17-7-1973 có đưa ra đề nghị đảo “là một diện tích tự nhiên có diện tích trên 1 km vuông” (2). Kiến nghị này có vẻ như giống các nỗ lực phân loại của Văn phòng Thủy văn Quốc tế và một số chuyên gia:
+ Đá (rocks) có diện tích nhỏ hơn 0,001 hải lý vuông
+ Đảo nhỏ (islets) có diện tích 0,001 - 1 hải lý vuông
+ Đảo vừa (isles) có diện tích 1 - 1.000 hải lý vuông
+ Đảo lớn (islands) có diện tích trên 1.000 hải lý vuông
Cho đến nay, vẫn chưa có sự phân loại các đảo một cách cụ thể chính xác của bất cứ cơ quan, tổ chức quốc tế nào.
Các đảo và các quy định của Việt Nam về các đảo?
Việt Nam là một quốc gia ven biển, với chiều dài bờ biển khoảng 3.620 km và rất nhiều các đảo ven bờ và xa bờ. Hệ thống đảo tiền tiêu phía Bắc có các đảo: đảo Trần (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Mát, Hòn Mê (Thanh Hóa)… Các đảo lớn ven bờ, giàu tiềm năng như: Phú Quốc, Phú Quý, Côn Đảo và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông… Các đảo của nước ta có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Việt Nam phê chuẩn Công ước Luật biển 1982. Theo quy định chung, Việt Nam phải có các quy định phù hợp với Công ước. Về các đảo, chúng ta cũng như các quốc gia khác thường không có các quy định cụ thể, chế độ pháp lý của các đảo. Chỉ trong trường hợp cụ thể (liên quan đến việc hoạch định quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển, quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong các vùng biển…) có thể sẽ có các quy định riêng.
Đá có phải là đảo không?
Đá là một dạng của đảo, thường được gọi là đảo đá hoặc bãi đá. Đây là những đảo được hình thành một cách tự nhiên từ đá. Các đảo này thường được cấu thành từ một khối liền nhất hoặc từ nhiều chỏm đá, diện tích nhỏ (thường nhỏ hơn 0,001 hải lý vuông).
Các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì chỉ được có vùng lãnh hải tối đa 12 hải lý, không được phép có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế (trích Khoản 3, điều 121 Công ước Luật biển 1982).
Trong điều 10 của Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 đã trao một lãnh hải cho tất cả các phần nhô lên một cách tự nhiên trên biển. Và theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982, đã không được hưởng quy chế của các đảo, có nghĩa là đá chỉ có được vùng lãnh hải 12 hải lý và vùng tiếp giáp lãnh hải 12 hải lý.
Trong thực tiễn quốc tế, có những trường hợp, bãi đá chỉ được 3, 6 hay 9 hải lý lãnh hải và vùng tiếp giáp, tùy vào sự thỏa thuận của các quốc gia liên quan hoặc phán quyết của Tòa án Quốc tế, Tòa Trọng tài hoặc các cơ quan tài phán quốc tế khác mà các bên liên quan chấp nhận đề nghị hoặc trưng cầu.
CÁC VÙNG BIỂN VÀ THỀM LỤC ĐỊA
Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 quy định về các vùng biển như thế nào?
Công ước Luật biển 1982 chính thức xác lập cơ sở pháp lý cho việc xác lập các vùng biển – một vấn đề vốn gây rất nhiều bất đồng giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Công ước quy định cụ thể về cách xác định, phạm vi, quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền của quốc gia, các vùng biển nằm ngòai phạm vi chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, theo đó:
Các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán hoặc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển gồm:
  • Nội thủy
  • Lãnh hải
  • Vùng tiếp giáp lãnh hải
  • Vùng đặc quyền về kinh tế
  • Thềm lục địa
Các vùng biển nằm ngoài phạm vi chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển gồm:
  • Biển cả
  • Vùng đáy đại dương – di sản chung của nhân loại
Đường cơ sở là gì ? Ý nghĩa của nó trong việc xác định không gian biển?
Đường cơ sở là cách nói ngắn của từ “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Tuy nhiên, do sau này đường cơ sở này còn là căn cứ để xác định ranh giới của tất cả các vùng biển còn lại nên người ta có xu hướng gọi tắt. Theo cách hiểu trực quan nhất, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải chính là đường ranh giới bên trong của lãnh hải. Theo Công ước Luật biển 1982, ta có hai loại đường cơ sở: đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng.
Đường cơ sở thông thường “… là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận” (Điều 5, Công ước Luật biển 1982).
Đường cơ sở thẳng là đường cơ sở nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở những nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác” (Điều 7, Công ước Luật biển 1982). Việc vạch đường cơ sở thẳng phải tuân thủ hai điều kiện:
1.     Tuyến đường cơ sở thẳng vạch phải đi theo xu hướng chung của bờ biển, và
2.     Các vùng biển ở bên trong đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế độ nội thủy, nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bờ.
Khi vạch ra đường cơ sở thẳng phải tuân thủ theo các hạn chế sau:
1.     Các bãi cạn lúc nổi lúc chìm không được chọn làm các điểm cơ sở trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước, hoặc việc kẻ đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế;
2.     Khi vạch đường cơ sở thẳng phải lưu ý không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hay một vùng đặc quyền về kinh tế.
Đường cơ sở quần đảo: là đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo. Đường cơ sở thẳng này phải bảo đảm các điều kiện:
  • Khu vực trong đường cơ sở quần đảo phải có tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, từ tỷ số 1/1 đến 9/1.
  • Chiều dài các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; có thể có tối đa 3% tổng số đường cơ sở dài quá 100 hải lý nhưng cũng không được quá 125 hải lý.
  • Tuyến đường cơ sở không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của hòn đảo.
  • Đường cơ sở quần đảo không được phép làm cho lãnh hải của một quốc gia khác tách rời khỏi biển cả hay vùng đặc quyền về kinh tế.
Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các vùng biển. Theo Công ước Luật biển 1982, đường cơ sở được dùng để xác định nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở), lãnh hải (12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp (24 hải lý tính từ đường cơ sở, vùng đặc quyền về kinh tế (200 hải lý tính từ đường cơ sở)…
Đường cơ sở của Việt Nam? Phao số 0 có phải là điểm mốc xác định ranh giới phía bên ngoài của lãnh hải nước ta không?
Việt Nam tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải vào ngày 22-11-1982. Theo Tuyên bố của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 1982 (sau đây gọi là Tuyên bố 82), hệ thống đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm có tọa độ xác định.
Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (của Campuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử; và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ là giao điểm đường cưa vịnh với đường phân dịnh biển trong vịnh Bắc Bộ.
Theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và CHND Trung Hoa ngày 25-12-2000, đường phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập. Tuy nhiên, đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ chỉ là đường phân định lãnh hải (các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy, theo tinh thần của Hiệp định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh lịch sử như trong các tuyên bố năm 1977 và 1982 của ta. Trong thời gian tới, ta sẽ phải xác lập hệ thống đường cơ sở trong vịnh để xác lập nội thủy và các vùng biển khác của ta trong Vịnh Bắc Bộ.
Đây là trường hợp hiếm thấy trong tiền lệ phân định biển: Đường cơ sở được xác lập sau đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vì thông thường các đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác lập sau khi đã xác lập được đường cơ sở.
Trong khi hoạt động trên biển, nhiều bà con thường thấy có phao số 0 và cho rằng đó là biên giới quốc gia trên biển. Sự thực phao số 0 không phải là điểm mốc của đường biên giới quốc gia trên biển. Nó chỉ là điểm đầu tiên của hệ thống mốc tiêu dẫn luồng vào cảng, được đặt theo quy định của Luật Hàng hải.
Đường cơ sở có phải là biên giới nước ta trên biển không?
Đường cơ sở không phải là đường biên giới quốc gia trên biển, nhưng nó là cơ sở để xác định đường biên giới đó. Đường biên giới quốc gia trên biển chính là đường song song với đường cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách vừa bằng chiều rộng của lãnh hải. Như vậy, đường biên giới của nước ta trên biển chính là ranh giới bên ngoài của lãnh hải, chạy song song với đường cơ sở và cách đường cơ sở 12 hải lý. Tại những vùng chồng lấn lãnh hải với Trung Quốc hay Campuchia, ranh giới bên ngoài của lãnh hải được xác lập theo thỏa thuận giữa ta và bạn.
Nội thủy là gì? Tàu thuyền khi hoạt động trong vùng nội thủy phải tuân thủ những hệ thống pháp luật nào?
Nội thủy là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, tối cao và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền. Nội thủy bao gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa sông, vịnh, các vùng nằm giữa đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải và lãnh thổ đất liền.
Trong nội thủy, quốc gia có chủ quyền không chỉ với vùng nước mà cả với vùng trời, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Theo nguyên tắc chủ quyền, luật quốc gia là luật áp dụng trong nội thủy. Tuy nhiên, vẫn có đôi chút khác biệt giữa chủ quyền trong nội thủy và chủ quyền với đất liền ở một số trường hợp cụ thể:
  • Vùng nước nội thủy tại các cảng biển quốc tế theo chế độ tự do thông thường cho tàu thuyền thương mại (Công ước Geneva 09-12-1923). Tàu chạy bằng năng lượng nguyên tử chỉ được vào cảng quốc tế khi có thỏa thuận giữa quốc gia ven biển và quốc gia tàu mang cờ.
  • Khi quốc gia ven biển áp dụng đường cơ sở thẳng làm cho những vùng nước trước đây chưa phải là nội thủy trở thành nội thủy, thì chế độ qua lại không gây hại vẫn áp dụng với vùng nước nội thủy đó.
  • Tàu thuyền nước ngoài được đặt dưới thẩm quyền tuyệt đối của quốc gia ven biển về trật tự, an ninh, cảnh sát, y tế, hàng hải. Quốc gia ven biển có quyền khám xét trên boong.
  • Tàu nhà nước dùng vào mục đích không thương mại và tàu quân sự nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ. Thẩm quyền tài phán hình sự của quốc gia cảng đối với các tàu này chỉ được thực hiện khi:
1.     Tội phạm xảy ra trên boong tàu, người thực hiện hành vi là người ngoài thủy thủ đoàn và nạn nhân là người thuộc thủy thủ đoàn. Trường hợp này, quốc gia cảng có thẩm quyền nhưng quốc gia tàu mang cờ cũng có thẩm quyền;
2.     Tội phạm xảy ra trên boong tàu, người thực hiện hành vi và nạn nhân đều không thuộc thủy thủ đoàn, thì quốc gia cảng có thẩm quyền tuyệt đối;
3.     Nếu thành viên thủy thủ đoàn phạm tội ngoài tàu thì quốc gia cảng có thể bắt giữ nhưng phải trao trả ngay cho thuyền trưởng nếu ông ta yêu cầu.
Vùng nước quần đảo có được hưởng quy chế của nội thủy không?
Vùng nước quần đảo là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở quần đảo. Vùng nước này không phải là nội thủy nhưng quốc gia quần đảo có chủ quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng như tài nguyên ở đó. Các quốc gia khác có quyền qua lại không gây hại trong vùng nước quần đảo theo đúng các quy định của Công ước về Luật biển 1982. Như vậy, vùng nước quần dảo có quy chế pháp lý gần giống với nội thủy, chỉ trừ quy chế qua lại không gây hại.
Vùng nước lịch sử là gì? Sao trong Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 lại không thấy có quy định về nó?
Đúng là trong Công ước Luật biển 1982 không có quy định về vùng nước lịch sử cũng như về vịnh lịch sử. Các khái niệm này được hình thành thông qua thực tiễn pháp lý, cụ thể là qua các phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế. Theo phán quyết ngày 18-12-1951 của Tòa án Công lý Quốc tế về vụ Ngư trường Anh - Na Uy, “Người ta gọi chung ‘vùng nước lịch sử’ là các vùng nước người ta đối xử như vùng nước nội thủy, trong khi nếu các vùng nước này thiếu một danh nghĩa lịch sử thì nó sẽ không có tính chất đó”. Các vùng nước lịch sử được đặt dưới quy chế của nội thủy và không tồn tại quyền qua lại không gây hại.
Nội thủy của Việt Nam gồm những khu vực nào?
Theo Tuyên bố 77, nội thủy của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm:
  • Vùng biển nằm phía trong đường cơ sở ven bờ lục địa VIệt Nam, gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa sông, các vịnh, các vùng nước nằm kẹp giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở.
  • Vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở của các đảo, quần đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
  • Vùng nước lịch sử của Việt Nam trong vịnh Thái Lan (xác định theo Hiệp định về vùng nước lịch sử chung Việt Nam - Campuchia 07-7-1982).
Lãnh hải và quy chế pháp lý của nó? Tàu biển khi hoạt động trong vùng lãnh hải phải tuân thủ theo những hệ thống pháp luật nào?
Lãnh hải là vùng biển nằm giữa vùng nước nội thủy và các vùng biển thuộc quyền tài phán của quốc gia. Các vùng đất ven biển của quốc gia và các đảo đáp ứng tiêu chuẩn của Điều 121 Công ước Luật biển 1982 đều có lãnh hải.
Bản chất pháp lý của lãnh hải: Từ lãnh hải lần đầu tiên được sử dụng chính thức tại Hội nghị của LHQ tại La Haye, đó là sự kết hợp thành công giữa hai từ lãnh thổ và biển. Biển theo luật quốc tế được cấu thành bởi vùng bề mặt biển phục vụ cho thông thương tự nhiên và vùng đáy biển cũng như lòng đất dưới đáy biển.
Lãnh thổ là khoảng không gian thuộc một quốc gia và được đặt dưới chủ quyền của quốc gia đó.

Hai khía cạnh trái ngược nhau này được kết hợp trong cùng một khái niệm pháp lý đã tạo ra bản chất pháp lý lưỡng cực của lãnh hải, trong đó chủ quyền của quốc gia ven biển thống trị và quyền tự do hàng hải được bảo đảm với một số điều kiện. Lãnh hải trở thành vùng đệm giữa một bên là lãnh thổ do quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ, bên kia là các vùng biển mà tại đó các quyền chủ quyền và tài phán của quốc gia ven biển bị hạn chế bởi các nguyên tắc tự do trên biển và nguyên tắc di sản chung của nhân loại.
Lãnh hải được coi như một bộ phận hữu cơ của lãnh thổ quốc gia, trên đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt về phòng thủ quốc gia, về cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống ô nhiễm như đối với lãnh thổ đất liền của mình. Tuy nhiên, trong lãnh hải, các tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại không gây hại.
Chiểu rộng của lãnh hải được chính thức xác lập là không quá 12 hải lý. Đường ranh giới phía trong của lãnh hải chính là đường cơ sở, và đường ranh giới phía ngoài chính là đường thẳng song song với đường cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách chính bằng chiều rộng của lãnh hải.
Khi đi trong lãnh hải của một quốc gia, tàu thuyền mang quốc tịch của quốc gia đó phải tuân thủ theo pháp luật của quốc gia đó. Các tàu thuyền nước ngoài được hưởng quyền qua lại không gây hại, nhưng phải tuân thủ theo pháp luật quốc gia ven biển về:
  • An toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển;
  • Bảo vệ các thiết bị công trình, đường dây cáp, ống dẫn ở biển;
  • Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, gìn giữ môi trường biển;
  • Hải quan, thuế khóa, y tế, nhập cư.

Các vùng biển theo luật biển quốc tế, nội thủy là vùng trong cùng, bản đồ không thể hiện các sông, suối chảy ra biển.
Vùng nội thủy của một quốc gia có chủ quyền là toàn bộ vùng nước và đường thủy trong phần đất liền, và được tính từ đường cơ sở mà quốc gia đó xác định vùng lãnh hải của mình trở vào. Nó bao gồm toàn bộ các dạng sông, suối và kênh dẫn nước, đôi khi bao gồm cả vùng nước trong phạm vi các vũng hay vịnh nhỏ. Theo Công ước Liên hiệp quốc về luật biển, các quốc gia có biển được tự do trong việc áp dụng luật pháp của mình trong việc điều chỉnh bất kỳ việc sử dụng nào liên quan tới nội thủy cũng như các nguồn tài nguyên trong đó. Tàu thuyền nước ngoài không có quyền tự do đi qua vùng nội thủy, kể cả qua lại không gây hại. Đây là điểm khác biệt chính giữa nội thủy và lãnh hải. Để đi vào vùng nội thủy, tàu thuyền nước ngoài phải xin phép cơ quan chức năng có thẩm quyền và chỉ được đi lại theo đúng hành trình đã được cấp phép.
Cách tính toán
Vùng nội thủy được tính toán và đo đạc dựa trên đường cơ sở. Các lưu ý khi tính toán nội thủy liên quan tới cửa sông hay các vũng, vịnh nhỏ chỉ thuộc về một quốc gia ven biển.
Nếu một con sông chảy trực tiếp ra biển thì đường cơ sở sẽ là đường thẳng đi ngang qua cửa sông, nối các điểm ở mực nước thấp nhất (trung bình nhiều năm) trên hai bờ của nó.
Nếu một vũng hay vịnh nhỏ có các bờ chỉ thuộc về một quốc gia thì người ta cần xác định xem nó là một vũng, vịnh "thật sự" hay chỉ là đoạn uốn cong lõm vào tự nhiên của bờ biển (theo khoản 2 điều 10 phần II của Công ước). Một vũng hay vịnh được coi là "thật sự" nếu diện tích của phần lõm vào, bị cắt bởi đường cơ sở, là bằng hoặc lớn hơn diện tích của hình bán nguyệt được tạo ra với đường kính bằng chính độ dài của phân đoạn đường cơ sở tại phần lõm vào đó. Nếu trong đoạn lõm vào này có một số đảo thì hình bán nguyệt tưởng tượng sẽ có đường kính bằng tổng độ dài các phân đoạn của các đường cơ sở. Ngoài ra, chiều dài của đường kính này phải không vượt quá 24 hải lý. Vùng nước bên trong của đường cơ sở tưởng tượng đó cũng được coi là nội thủy. Quy tắc này không áp dụng cho các vũng, vịnh đã thuộc chủ quyền của một quốc gia nào đó mang tính chất "lịch sử" hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà việc áp dụng đường cơ sở thẳng là hợp lý.

Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thuỷ, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa).
Phân loại
Nhằm làm phù hợp với địa hình thực tế của từng quốc gia và phù hợp với luật quốc tế, hiện nay đường cơ sở được phân ra làm hai loại phổ biến nhất, đó là:
  • Đường cơ sở thẳng
  • Đường cơ sở thông thường
Đường cơ sở thẳng
Được xác định theo phương pháp nối liền các điểm thích hợp được lựa chọn tại những điểm ngoài cùng nhất nhô ra biển tại mức nước thủy triều thấp nhất (trung bình nhiều năm). Trước khi được pháp điển hóa thành các điều khoản của các điều ước quốc tế thì nó là phương pháp tập quán phổ biến nhất của tập quán quốc tế. Cụ thể là phán quyết năm 1951 của Tòa án quốc tế trong vụ tranh chấp Anh - Na Uy về ngư trường. Công ước Liên hiệp quốc về luật biển năm 1958 đã pháp điển hóa và đưa nó vào điều 4 khi giải thích về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, cũng như trong điều 7 của Công ước 1982. Theo Công ước 1982 thì đường cơ sở thẳng phải tuân thủ quy định là không đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển và các vùng biển nằm bên trong các đường cơ sở này phải có liên quan đến phần đất liền đủ để có thể coi như vùng nằm dưới chế độ nội thủy (điều 7 khoản 7§1). Tuy nhiên, ở đây có một số ngoại lệ khi kẻ một số đường cơ sở thẳng. Cụ thể như sau:
  • Theo điều 7 khoản 7§5 của Công ước 1982 thì quốc gia ven biển có thể tính đến lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà tầm quan trọng của nó đã được chứng minh rõ ràng thông qua quá trình sử dụng lâu dài.
Với phương pháp này cần lưu ý đến việc lựa chọn các điểm xuất phát, không được chọn các điểm thuộc các bãi nửa nổi nửa chìm (các bãi nổi trên biển có đặc tính nổi khi thủy triều xuống, chìm khi thủy triều lên do địa hình không bằng phẳng hoặc thoải đều), trừ trường hợp ở đó có đèn biển hoặc các thiết bị hoa tiêu khác thường xuyên nhô lên trên mặt nước hay việc vạch đường cơ sở đó đã được thừa nhận chung của quốc tế. Việc này phải bảo đảm không làm cho lãnh hải của quốc gia khác bị tách ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của họ hay biển cả.
Đường cơ sở thông thường
Là ngấn nước thủy triều thấp nhất (trung bình nhiều năm) dọc theo bờ biển đã được thể hiện trên các hải đồtỷ lệ xích lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. Đối với các đảo san hô hay đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, phương pháp này cũng được áp dụng. Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh đúng đắn hơn đường bờ biển thực tế của các quốc gia, hạn chế sự mở rộng các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ. Hạn chế của nó là khó áp dụng trong thực tế, nhất là đối với các vùng có bờ biển khúc khuỷu.






Căng thẳng biển Đông và lựa chọn cho Việt Nam

TS. Nguyễn Trọng Bình bàn về căng thẳng đa quốc gia liên quan tới biển Đông và lựa chọn cho Việt Nam.

Căng thẳng biển Đông

Trong những ngày gần đây việc tranh chấp tại vùng biển Ðông và những quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa lại trở nên một đề tài nóng. Tàu không vũ trang Impeccable của Mỹ chạm trán với hải quân Trung Quốc và nay Mỹ phải điều động hạm đội đến vùng biển; Tổng thống Philippinnes vừa ban hành luật lãnh hải tuyên bố chủ quyền trên nhóm đảo Scarborough và Trung Quốc tổ chức các chuyến du lịch trên đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm toàn bộ quần đảo từ năm 1974 từ Việt Nam.


Hiện nay, trong ngôn ngữ gặp trên một số báo chí văn thư hay có thói quen gọi khu vực biển có tranh chấp ở Đông Nam Á là “biển Nam Trung Hoa” (South China Sea hay La Mer de Chine du Sud), có lẽ vì Trung Quốc được lấy làm vị trí chuẩn, chứ không mang ý nghĩa công pháp quốc tế là biển này thuộc Trung Quốc.
Vì vậy, Việt Nam đã gọi biển này là biển Đông cũng có ý nghĩa lấy Việt Nam làm vị trí chuẩn và biển này là cửa ngõ chính của Việt Nam nhìn ra biển lớn.

Biển Đông không những là nơi có nhiều nguồn tài nguyên về mỏ năng lượng (như dầu mỏ) mà còn cung cấp nguồn hải sản cho các nước quanh vùng.

Hơn thế nữa, biển Ðông còn là hành lang của các hải thuyền quốc tế qua lại tấp nập từ vùng biển Ấn Độ Dương lên Ðông Bắc châu Á.
Cho đến gần đây, theo luật và theo thông lệ quốc tế, các nước quanh vùng biển này được coi như có chủ quyền lãnh hải như vẽ trong bản đồ (lằn xanh) và khu hải phận quốc tế tàu bè vẫn được tự do qua lại. Tuy nhiên gần đây Trung Quốc công bố bản đồ chủ quyền là vùng lãnh hải hầu như độc quyền chiếm hết đảo và biển của vùng này (xem bản đồ, lằn đỏ) .
Click vào để xem ảnh lớn.

Lập trường các bên

Liên quan đến vùng biển Ðông, lập trường các quốc gia liên quan thuộc 2 nhóm chính như sau :
1. Sự việc hạn đăng ký chủ quyền hải phận quốc gia với Liên Hiệp Quốc có thời hạn là ngày 13/5/2009 nên các quốc gia đã phải lên tiếng về chủ quyền lãnh hải của mình. Việc Philippines nhảy vào tranh chấp mạnh và Tổng thống nước này ban hành luật lãnh hải là một hành động công bố chủ quyền biển của mình.
Mới đây Malaysia cũng đã lên tiếng. Phần lãnh hải họ chủ trương hầu hết ở những nơi gần lãnh hải hiện nay của họ mà Trung Quốc coi là của mình (xem bản đồ biển Trung Quốc vẽ "cái lưỡi bò" chiếm hết các đảo và vùng biển không kể gì đến các nước khác).
Việt Nam và các nước Ðông Nam Á khác hầu như chỉ tranh MỘT PHẦN BIỂN và ÐẢO. Riêng Trung Quốc với lợi thế của nước lớn (với sức mạnh của một siêu cường khu vực về kinh tế và quân sự) đã chủ trương chiếm TẤT CẢ VÙNG BIỂN và ÐẢO của khu vực này.

Trong các nước, Trung Quốc là nước siêu cường có ưu thế quân sự, kinh tế mạnh nhất, có thể chèn ép bất kỳ nước Ðông Nam Á nào trong cuộc tranh giành tay đôi với Trung Quốc.
2. Mỹ, Nhật và các quốc gia khác chủ trương đòi hỏi quyền tự do đi lại nơi hải phận quốc tế ở biển Đông. Các quốc gia này không chủ trương đòi chiếm hữu đảo và chủ quyền lãnh hải, chủ quyền khai thác kinh tế, tài nguyên tại khu vực; mà chỉ đòi hỏi quyền tự do đi lại nơi lãnh hải quốc tế. Họ muốn duy trì đường hải hành này để tránh cho tàu bè phải đi vòng ra biển Thái Bình Dương xa hơn, ngoài bờ Ðông của Philippines.
Việc Mỹ mang chiến hạm đến để bảo vệ tàu Impeccable được giải thích là Mỹ muốn duy trì con đường biển quốc tế này. Xung đột với hải quân Trung Quốc xảy ra vì toàn bộ vùng biển này bị Trung Quốc chủ trương chiếm hữu (mặc dù chủ trương của riêng Trung Quốc không được quốc tế thừa nhận).
Theo thông lệ quốc tế về đường biển, vùng biển này cần có khu hải phận quốc tế, có khu vực đặc quyền kinh tế của các nước có bờ biển và mọi người được tự do đi lại. Việc Mỹ chủ trương giữ quyền đi lại tự do trong khu vực lãnh hải quốc tế này là rất quan trọng đối với các nước Ðông Nam Á, vì nó giới hạn sự độc chiếm vùng biển này của Trung Quốc. Do đó các nước Đông Nam Á có bờ biển tại vùng biển này cần ủng hộ chủ trương giới hạn sự độc chiếm vùng biển này của Trung Quốc.

Khi Trung Quốc đã hoàn tất việc độc chiếm toàn bộ vùng biển Đông qua đường ranh giới của tấm bản đồ "lưỡi bò", thọc sâu xuống phía Nam và chiếm lĩnh toàn bộ khu vực biển, lúc đó họ sẽ bắt các nước đi qua, kể cả Việt Nam, phải xin phép Trung Quốc bằng sức ép kinh tế và quân sự.
Sự va chạm giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc đã xảy ra năm 2001 và nay lại xảy ra là một thời cơ cho các nước Đông Nam Á nhỏ yếu hơn Trung Quốc có cơ hội nói lên tiếng nói bảo vệ chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc mình.
Lựa chọn cho Việt Nam

Đứng trước tình thế mới hiện nay, để bảo vệ quyền lợi của mình, theo thiển ý của người viết, Việt Nam nên có suy nghĩ để hành động như sau:
Qua những phản ứng của các quốc gia khu vực biển Ðông và quốc tế đối với chủ trương của Trung Quốc cho ta thấy:
1. Việc tranh chấp này chứng tỏ rằng các nước không chấp nhận toàn bộ biển Đông là của Trung Quốc.
2. Vấn đề tranh chấp đang trở thành tranh chấp quốc tế.
3. Vấn đề tranh chấp biển Ðông phải là sự thảo luận và phân chia theo luật pháp quốc tế và được quốc tế bảo vệ .
4 .Tranh chấp vùng biển Ðông càng nhiều quốc gia càng làm cho cuộc tranh chấp trở thành một vấn đề quốc tế , đa phương, không là sự tranh chấp tay đôi giữa Việt Nam và Trung Quốc (hoặc nước khác với Trung Quốc), trong khi Trung Quốc giữ ưu thế về nhiều mặt.
Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Các hình tròn đen là lãnh hải 12 hải lý của các đảo trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Dựa trên bản đồ của PetroVietnam.

Sự tranh chấp hiện nay có thể có hai quan điểm đối với Việt Nam:
1. Nên ủng hộ quan điểm của Trung Quốc và một số ít các nước khác công nhận sự độc chiếm vùng biển này của Trung Quốc?
2. Nên ủng hộ tập quán quốc tế là các nước trên thế giới có quyền hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ven biển?
Thoạt nhìn, có thể có người nghĩ rằng quan điểm thứ nhất có lợi cho Việt Nam. Vì hiện nay Việt Nam không có nhiều khả năng hay nhu cầu để hoạt động quân sự bên trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác, nhất là bên ngoài biển Đông.

Ngược lại, nhiều nước trên thế giới có khả năng hoạt động quân sự bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Với cách nhìn này thì có vẻ quan điểm số 1 như của Trung Quốc sẽ cản trở những nước này hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và như vậy tốt cho quyền lợi của Việt Nam trong sự bảo vệ của Trung Quốc.
Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất này không phải là tối ưu vì những lý do sau:
Ngày nay, không có nước nào nước bên ngoài biển Đông đe doạ sự vẹn toàn lãnh thổ hay nền độc lập của Việt Nam. Ngay cả những nước Đông Nam Á trong tranh chấp Biển Đông cũng không có yêu sách trong vùng đặc quyền kinh tế tính từ đất liền Việt Nam, Côn Đảo, Phú Quý và các đảo ven bờ.

Vì vậy, nếu những nước này có hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế này mà không gây thiệt hại cho kinh tế và tài nguyên, như UNCLOS đòi hỏi, thì điều đó không gây thiệt hại cho Việt Nam.
Vì vậy, việc ủng hộ duy trì tập quán quốc tế không có hại cho Việt Nam.
Và nếu Việt Nam ủng hộ quan điểm là các nước khác không có quyền hoạt động quân sự, khảo sát, đo đạc, do thám trong vùng đặc quyền kinh tế của mình thì trên thực tế điều đó cũng không đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam.

Lý do là ranh giới lưỡi bò của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc sẽ không công nhận vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà sẽ cho rằng phần lớn vùng biển đó là của Trung Quốc, và họ vẫn sẽ có hoạt động quân sự trong phần lớn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Như vậy, sự ủng hộ quan điểm của Trung Quốc sẽ không có nhiều ích lợi cho Việt Nam hiện nay và lâu dài mà chỉ có ích cho Trung Quốc nhiều hơn.
Nguy hiểm hơn cho Việt Nam, nếu Trung Quốc thành công trong việc biến vùng đặc quyền kinh tế của họ thành vùng đặc quyền quân sự thì điều này sẽ tăng khả năng cho họ đòi hỏi là vùng biển bên trong ranh giới lưỡi bò cũng là vùng đặc quyền quân sự của họ, và tăng khả năng họ thành công trong đòi hỏi đó.
Như vậy, ủng hộ quan điểm 1 của Trung Quốc sẽ rất có hại cho Việt Nam.
Vì những lý do trên :
- Việt Nam tuyệt đối không nên ủng hộ quan điểm của Trung Quốc mà nên ủng hộ việc duy trì tập quán quốc tế, một giải pháp quốc tế cho vùng biển Ðông .
- Việt Nam cần mau chóng hoàn thành bản đồ lãnh hải vùng biển đông để đăng ký với LHQ trước ngày 13/5/2009, Việt Nam cương quyết khẳng định lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc mình trước công pháp quốc tế và LHQ, bảo vệ cửa ngõ ra khơi của con tàu Việt Nam đang tiến ra biển lớn.
  • TS Nguyễn Trọng Bình










Bảo vệ chủ quyền đất nước: Điểm tựa là dân tộc

 Năm 2008, Việt Nam đã củng cố bước đi hội nhập, vươn ra thế giới với vai trò lớn hơn, tích cực và chủ động hơn. Những thách thức hội nhập rộng mở đã đặt ra cho ngành ngoại giao những yêu cầu mới, đặc biệt vấn đề nhân lực - Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh chia sẻ với VietNamNet trong cuộc trò chuyện đầu năm.  
Khẳng định những thành tựu ngoại giao năm qua, Thứ trưởng Phạm Bình Minh nhận định Việt Nam đang vươn ra thế giới với vai trò lớn hơn, tích cực và chủ động hơn.
Nhìn lại tiến trình đổi mới và từng bước hội nhập trong hơn 20 năm qua, từ việc tham gia khu vực ASEAN, không ngừng mở rộng và củng cố quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, cho đến tham gia các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế và gần đây nhất đảm trách vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA), Việt Nam đã thực sự vươn ra môi trường toàn cầu.
“Nếu như trước đây, Việt Nam chỉ giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp hoặc các vấn đề trong phạm vi khu vực thì giờ đây, Việt Nam tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh toàn cầu, kể cả những khu vực xa xôi như  ở châu Phi. Sự ổn định hòa bình trong khu vực và trên thế giới tác động trực tiếp đến hòa bình của Việt Nam. Đó là thành tựu quan trọng”, ông Minh nói.
"Dĩ bất biến, ứng vạn biến" thời hội nhập
- Năm 2009, tình hình khu vực và thế giới được dự báo phức tạp, biến đổi nhanh chóng. Ngoại giao Việt Nam đã xác định cái bất biến ứng với những vạn biến của thế giới sắp tới như thế nào?
- Ngoại giao Việt Nam luôn phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong mọi thời đại. Suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam là nước nhỏ phải chịu nhiều ngoại xâm. Nhưng ít có dân tộc nào như dân tộc Việt Nam chịu đựng nhiều cuộc chiến tranh nhưng sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, xây dựng quan hệ với các nước. Đó là nền tảng để phát triển hòa bình, ổn định. Phong thái ngoại giao đó đã được xây đắp và ghi dấu ấn qua các hội nghị quốc tế đàm phán kết thúc chiến tranh ở Việt Nam như Hội nghị Genève, Hội nghị Paris.
Ngày nay, ứng dụng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong một thế giới thay đổi từng ngày, từng giờ với quá nhiều lợi ích, mâu thuẫn đan xen phức tạp quả là một gánh nặng đối với ngành ngoại giao. Dĩ bất biến, thời nào cũng vậy, là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc hướng tới dân giàu nước mạnh. Ứng vạn biến là muôn nghìn con đường, cách thức và ứng xử hết sức linh hoạt, đôi khi tinh tế, để đi tới mục tiêu thành công.
Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm "Việt Nam là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".  Nhưng chúng ta cũng luôn sẵn sàng đấu tranh, kiên quyết giữ nguyên tắc trong những vấn đề không thể nhân nhượng.

Thứ trưởng Phạm Bình Minh và lãnh đạo Phái đoàn Việt Nam tại cuộc họp HĐBA ngày 16/4/2008. Ảnh: UN Photo
Ngoại giao không đơn độc trong sứ mệnh bảo vệ chủ quyền
 - Trong quá khứ, khi sự phân biệt địch - ta, đồng minh - kẻ thù khá rõ ràng, ngoại giao đã góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả dân tộc. Hiện nay, vấn đề bảo vệ chủ quyền đất nước không căng thẳng như xưa nhưng lại có vẻ phức tạp hơn khi chúng ta phải đối mặt với những thách thức mới về chủ quyền vô cùng tinh vi, có lúc nhẹ nhàng đến mức ta không nhận thấy được. Ngoại giao sẽ đóng vai trò như thế nào trong sứ mệnh này?
- Thời nào cũng thế, ngoại giao là một phương thức quan trọng mang lại hòa bình. Ngoại giao đóng góp vào việc kết thúc các cuộc chiến tranh. Việt Nam đã từng ghi dấu ấn vào lịch sử với những nhà ngoại giao, nhà đàm phán lẫy lừng như Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ.
Để có thể mang lại sự yên bình cho người dân, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, chúng ta rất cần các cán bộ ngoại giao giỏi. Mà để trở thành một cán bộ giỏi, tôi thấy việc bản thân mỗi người phấn đấu vượt qua chính mình là điều khó nhất. Vai trò của người cán bộ ngoại giao trong thời bình cũng quan trọng như vai trò của người lính trong thời chiến. 
"Bảo vệ chủ quyền đất nước, tình yêu Tổ quốc, gìn giữ non sông chung cho tất cả là ngọn cờ tập hợp tất cả các tầng lớp nhân dân trong hay ngoài nước. Đó là sức mạnh lớn của chúng ta".
Vừa qua, chúng ta đã trải qua nhiều cuộc đàm phán khó khăn, phức tạp. Ngày cuối cùng của năm 2008, chúng ta đã hoàn thành phân giới cắm mốc trên bộ với Trung Quốc, đấy là sự kiện trọng đại đối với cả hai nước. Lần đầu tiên trong lịch sử giữa hai dân tộc, chúng ta phân định xong đường biên giới hòa bình trên bộ, góp phần quan trọng vào việc củng cố mối quan hệ hợp tác đối tác chiến lược giữa hai nước.
Trong hoạt động ngoại giao, đàm phán không chỉ để giải quyết tranh chấp, mà ngay cả đàm phán một hiệp định kinh tế cũng là mang lại lợi ích bảo vệ chủ quyền đất nước.
Giữ gìn độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, trong một thế giới đầy biến động với những giằng xé, ràng buộc về lợi ích đòi hỏi những ứng xử vô cùng linh hoạt, thậm chí phải tinh tế nhưng tỉnh táo, dựa trên sợi chỉ đỏ xuyên suốt: Chủ quyền đất nước là không thể nhân nhượng.
Những trả giá lớn lao bằng sinh mạng và xương máu của cha ông trong quá khứ nhắc nhở chúng ta ngày nay nỗ lực thông qua con đường hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền đất nước, đặc biệt trong vấn đề biển đảo. Ngoại giao phải đóng vai trò hàng đầu trong sứ mệnh đó.
Nhưng tôi tin rằng, ngành ngoại giao không đơn độc trong sứ mệnh ấy, bởi có điểm tựa phía sau là cả dân tộc. Bảo vệ chủ quyền đất nước, tình yêu Tổ quốc, gìn giữ non sông chung cho tất cả là ngọn cờ tập hợp tất cả các tầng lớp nhân dân trong hay ngoài nước. Đó là sức mạnh lớn của chúng ta.
- Những biến động trong năm qua đặt ra những bài học lớn về công tác dự báo cho tất cả mọi ngành, trong đó có ngành ngoại giao. Để tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, theo Thứ trưởng, công tác dự báo của ngành trong năm nay được đặt ra như thế nào?
- Bản thân công tác dự báo là khó, không thể ai dự báo đúng 100%. Cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua là một ví dụ. Nhiều nhà dự báo giỏi cũng khó dự đoán những biến động khó lường. Công tác dự báo chưa trúng một phần vì tình hình thế giới biến động quá nhanh và phức tạp.
Để nâng cao năng lực dự báo, tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, trong năm qua, Bộ đã thiết lập Viện Nghiên cứu chiến lược ngoại giao nằm trong Học viện Quan hệ quốc tế. Với việc tận dụng tri thức, kinh nghiệm của các nhà ngoại giao kỳ cựu, ngành hy vọng sẽ đóng góp cho công tác nghiên cứu dự báo chung của cả nước tốt hơn.
Làm thế nào để có chính sách đòn bẩy trong lĩnh vực này là điều mà chúng tôi đang trăn trở nhất. Không ai muốn ngồi im một chỗ nghiên cứu cả. Lãnh đạo Bộ đang cố gắng xây dựng chính sách lương, đãi ngộ phù hợp với điều kiện chung của đất nước nhưng chí ít phải khuyến khích, tạo thuận lợi cho cán bộ yên tâm nghiên cứu.
Tin vào người trẻ
- Lại nói về chuyện cán bộ, một câu nói rất cũ: Con người là yếu tố căn bản quyết định mọi thành công. Ông thấy đội ngũ cán bộ ngoại giao hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu chưa?
- Nếu đặt câu hỏi đội ngũ cán bộ ngoại giao hiện nay đã đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu chưa, thì phải thẳng thắn thừa nhận là chưa. Bởi lẽ, yêu cầu luôn ngày càng cao. Nhưng mặt bằng chung, thế hệ cán bộ ngoại giao ngày nay có lợi thế dễ dàng bồi đắp tri thức, ngoại ngữ, đi ra ngoài mở mang, học hỏi kinh nghiệm. Đường lối đối ngoại đa dạng, rộng mở cũng tạo điều kiện cho thế hệ làm công tác đối ngoại trẻ được cọ xát nhiều với thực tế. 

"Chúng ta nên tin vào lớp cán bộ trẻ. Nếu được tin tưởng và trao trách nhiệm, chắc chắn thế hệ trẻ cũng sẽ làm nên được rất nhiều". Ảnh: XL
- Rõ ràng, như ông nói, những người làm ngoại giao hiện nay có cơ hội học hỏi và trưởng thành nhanh hơn thế hệ đi trước. Nhưng tại sao chúng ta lại thiếu vắng những tên tuổi ghi dấu ấn như lớp thế hệ ngoại giao kỳ cựu thời kỳ trước, những người đã ghi tên mình vào lịch sử, được thế giới nể trọng như Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Mai…? Có phải ngành ngoại giao đang đối mặt với thách thức “khủng hoảng thế hệ” như nhận định của một số nhà ngoại giao lão thành?
- Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, đặc biệt thời kỳ chiến tranh, bao vây cấm vận khó khăn, đã có những con người kiệt xuất, ghi dấu ấn. Thời thế tạo anh hùng, những thách thức tạo cơ hội nên trong khó khăn có nhiều con người tỏa sáng. Giai đoạn ngoại giao thời kỳ hội nhập của Việt Nam, không phải không có những tên tuổi sáng chói, ghi dấu ấn, mà nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan là một trong số đó.
Nếu nhận định khủng hoảng thế hệ với nghĩa bi quan quá thì không hẳn. Như tôi đã nói, mặt bằng cán bộ ngoại giao hiện nay có trình độ đồng đều về ngoại ngữ, kiến thức có điều kiện phát huy rộng và tốt hơn trước. Tôi đã công tác trong ngành gần 30 năm, được đào tạo khá bài bản nhưng phải thừa nhận đào tạo trước đây không thể bằng bây giờ.
Thế hệ cán bộ ngoại giao hiện nay nhiều cơ hội nhưng điều đáng lo là trong cơ chế thị trường, họ có nhiều lựa chọn. Ngày xưa, ngành ngoại giao gần như là ngành duy nhất được đi nước ngoài nhiều và phải người giỏi mới được đi. Nhưng đất nước mở cửa, hội nhập, đó không còn là đặc cách của ngành ngoại giao. Ở lĩnh vực nào, ai cũng có cơ hội đi đây đó để học tập, làm việc và mở rộng quan hệ.
- Phải chăng, như điều ông nói, thế hệ đi trước, dù có ít cơ hội tiếp cận tri thức toàn cầu nhưng thừa lý tưởng và hoài bão để bù đắp mọi khiếm khuyết, còn hiện nay, cơ hội rộng mở, lựa chọn nhiều hơn nhưng lý tưởng và bản lĩnh với người trẻ lại trở thành xa xỉ?
- Giáo dục lý tưởng, hoài bão cho thanh niên là vấn đề lớn của ngành ngoại giao. Thực tiễn đã nảy sinh những yêu cầu nhiệm vụ mới, những địa bàn hoạt động khó khăn hơn nhưng Bộ lại gặp khó về nguồn cán bộ. Cơ chế kinh tế thị trường có nhiều lựa chọn. Không phải sinh viên, thanh niên nào cũng thích những môn học về chính trị, ngoại giao thuần túy. Đây là một trong những vấn đề mà Bộ trăn trở về những giải pháp lâu dài.
- Được biết, năm vừa qua, Bộ Ngoại giao đã mạnh dạn sử dụng cán bộ trẻ để đảm nhiệm trực tiếp công việc ngoại giao đa phương tại HĐBA, nơi Việt Nam lần đầu tiên giữ vai trò Ủy viên không thường trực. Là người trực tiếp nắm việc này, ông đánh giá thế nào?
- Kết quả rất rõ ràng. Những cán bộ trẻ làm ngoại giao đa phương tại HĐBA trong năm qua đã trưởng thành nhanh chóng và có nhiều kinh nghiệm. Đây không phải đánh giá chủ quan của cá nhân tôi mà kết quả được cán bộ ngoại giao của các nước trong HĐBA thừa nhận về thành quả chung trong một năm đảm nhiệm công việc tại HĐBA của Việt Nam.
Ngoại trừ Đại sứ, Trưởng phái đoàn và các vị phó, cán bộ làm trực tiếp đều là các bạn trẻ mới có 3-4 năm trong nghề. Dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, Phái đoàn, các cán bộ trẻ đã bắt nhịp công việc rất tốt.
Tôi không cho rằng việc sử dụng cán bộ trẻ trong nhiệm vụ đầy thử thách mới là mạo hiểm. Để vào cuộc chính thức, Bộ đã có quá trình chuẩn bị cán bộ, nhân lực với chủ trương đào tạo và thực tập bài bản. Không chỉ tại Phái đoàn, các cán bộ hậu phương cũng đều là những người trẻ. Khi có chủ trương, việc sử dụng cán bộ trẻ trong công việc rất hiệu quả.
Tôi nghĩ, dù thế nào, chúng ta cũng nên tin vào lớp cán bộ trẻ. Nếu được tin tưởng và trao trách nhiệm, chắc chắn thế hệ trẻ cũng sẽ làm nên được rất nhiều.
Ông Phạm Bình Minh, 49 tuổi, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, vừa được bầu làm Ủy viên chính thức Ban chấp hành TƯ Đảng X. Điều ít người biết, ông chính là con trai của cố Bộ trưởng ngoại giao kiệt xuất Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương).
Vào nghề từ năm 1981, nhưng ông Minh tỏ ra kín đáo và ngại nói về cá nhân mình. Cũng chính vì sự kín tiếng này mà chỉ đến khi ông Minh chính thức trúng cử ủy viên dự khuyết TƯ Đảng khóa X tháng 4/2006, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng, nhiều người mới biết rằng Bộ trưởng Thạch có một người con nối nghiệp làm ngoại giao.
Ông Minh kể: “Tôi vốn học khá các môn tự nhiên. Cả hai anh chị của tôi cũng đều theo học tự nhiên và không làm việc gì liên quan tới ngoại giao cả. Khi tôi quyết định thi vào Đại học Bách khoa, cha tôi tìm tôi tâm sự. Cha tôi nói rằng ông rất tâm huyết với nghề ngoại giao và mong mỏi có một người con nối nghiệp. Nghe lời ông, tôi đã chuyển sang thi vào trường ngoại giao. Tôi thật sự biết ơn cha tôi vì đã hướng tôi vào một công việc nhiều ý nghĩa”.
“Vậy con đường thăng tiến trong nghề nghiệp của ông có nhiều ảnh hưởng từ cha mình không?”
“Vâng, có lẽ đó cũng là suy nghĩ của nhiều người. Cha tôi nghỉ việc ở ngành ngoại giao từ năm 1991 và mất cách đây đã lâu nên không thể nói tôi nhờ ông can thiệp này nọ vào công tác tổ chức nhân sự. Nhưng những kết quả tôi đạt được ngày nay phần nhiều nhờ tôi học từ cha mình. Ông vừa là người cha vừa là người thầy của tôi và ảnh hưởng rất lớn tới phong cách làm việc của tôi”.
Những điều ông Thứ trưởng học được từ người cha tài giỏi là sự miệt mài, say mê công việc, là việc tư duy bằng phương pháp luận trong mổ xẻ, phân tích các vấn đề, là tinh thần học hỏi không ngừng từ các đồng nghiệp, các đối tác làm việc và những người xung quanh.
 “Cha tôi luôn dạy tôi phải học từ chính thực tế. Và quan trọng hơn, cha dạy tôi cách đứng vững trên đôi chân bằng kinh nghiệm và vốn sống của chính mình”, ông Minh tâm sự.
  • Xuân Linh - Việt Lâm





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét