Kỳ 1: Nhục
thân cụ sư Rau
LTS: Trải qua hàng trăm năm với bao biến động dâu bể, làm thế nào mà nhục thân các thiền sư vẫn còn lại đến ngày nay?
Từ những phát hiện về nhục thân các thiền sư Vũ Khắc
Trường, Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, thiền sư Chuyết Chuyết ở chùa Phật Tích,
PGS-TS Nguyễn Lân Cường đã hé mở phần nào những bí ẩn về nghệ thuật táng tượng
và thiền táng độc đáo của người Việt trong công trình khoa học “Phía sau nhục
thân của các vị thiền sư” vừa được phát hành. Xin giới thiệu đến bạn đọc loạt
bài của PGS-TS Nguyễn Lân Cường dành riêng cho Thanh Niên.
Ngày 3.5.1983, theo yêu cầu của Văn phòng 10 Hội đồng Bộ
trưởng, Viện Khảo cổ học cử một đoàn cán bộ xuống chùa Đậu, thuộc huyện Thường
Tín (Hà Tây cũ) để kiểm tra tình trạng xuống cấp của gác chuông. Trong đoàn có
tôi. Lang thang vòng ra bên phải, sau dãy hành lang, tôi thấy một chiếc am nhỏ,
rêu phong mà bên ngoài cửa phủ mành tre. Nhìn vào bên trong, tôi chợt giật mình
vì thấy một nhà sư ngồi thiền, đôi mắt “lim dim” như đang suy tư về cõi Phật.
Từ lâu, nhân dân quanh vùng đã truyền tụng với nhau rằng ở
chùa Đậu, có hai am nằm ở bên phải và bên trái của chùa. Am bên phải là của
thiền sư Vũ Khắc Minh, bên trái là am thiền sư Vũ Khắc Trường. Chuyện kể rằng,
khoảng thế kỷ XVII, vào một ngày nọ, thiền sư Vũ Khắc Minh (mà nhân dân trong
vùng quen gọi ngài là cụ sư Rau - nhà sư thường chỉ ăn rau trừ bữa) bước vào
trong am và nói với các đệ tử rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một
chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể
của ta đã hỏng, thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta bả lên
thi thể...”. Dứt lời, cụ bước vào am tọa thiền và chỉ còn nghe vẳng ra
tiếng mõ tụng kinh suốt ngày này qua ngày khác. Tròn trăm ngày, các đệ tử không
nghe thấy tiếng mõ nữa, vội mở cửa am ra thì thấy ngài vẫn ngồi đấy như đang
trong lúc tọa thiền. Hai chân ken vào nhau đúng vị trí của thiền, còn hai tay
hơi bị xệ xuống. Nhớ lời thầy dặn, họ vội lấy sơn ta bả lên thi hài.
Trong cuốn Những chùa, đình và nhà thờ của Hà Đông -
Phong cảnh Hà Đông xuất bản năm 1932 (tiếng Pháp), tác giả cho rằng đó là
những “momies” (xác ướp) kiểu Ai Cập. Thật sai lầm! Tệ hại hơn, trong một bài
báo đăng trên tờ Thời Mới vào năm 1957 lại có tiêu đề khá giật gân Xác
ướp chùa Đậu hàng trăm năm vẫn còn giữ nguyên bộ phận sinh dục!
Bằng con mắt nghề nghiệp, tôi phát hiện qua vết nứt ở trên
trán có xương sọ ở bên trong, và thế là tôi nảy ra ý định chụp phim X-quang để
chứng minh đây là một nhục thân nguyên dạng. Nếu chứng minh được thì rõ ràng
phương thức táng này nằm ngoài 5 táng thức đã có trước đây trên thế giới: địa
táng hay thổ táng (chôn trong đất); hỏa táng (đốt thi hài); hải táng hay thủy
táng (thả xuống nước); thiên táng hay điểu táng (cho chim ăn để được bay lên
trời); huyền táng hay táng treo.
Chiều 25.5.1983, tôi chuyển nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh
về khoa X-quang Bệnh viện Bạch Mai. Với sự giúp đỡ tận tình của PGS - bác sĩ
Đặng Văn Ấn, bác sĩ Nguyễn Trọng Đức và các kỹ thuật viên, tôi đã tiến hành soi
phần sọ, ổ ngực và ổ bụng. Qua màn hình, tôi thấy toàn bộ xương sườn, xương đốt
sống đổ sập xuống nằm gọn trong khoang bụng. Rõ ràng, không có chất dính giữa
các xương đốt sống. Hộp sọ còn nguyên vẹn, phần xương lá mía không bị đục vỡ
như trên sọ vua Ai Cập Ramsès V để lấy não ra. Từ đó, có thể suy ra não và các
nội tạng - về mặt lý thuyết - là vẫn còn nguyên trong nhục thân. Kết hợp giữa
chiếu và phim chụp, có thể thấy rõ các xương dưới sọ như xương cánh tay, cổ và
bàn tay, xương chậu hông, đùi, xương chày, mác và xương cổ chân, bàn chân đều
nằm đúng với vị trí giải phẫu. Trong các xương không có cốt bằng kim loại, rõ
ràng đây là một nhục thân nguyên dạng.
Bằng phương pháp quang phổ phát xạ vùng tử ngoại và chiếu
xạ tia rơn-ghen khi phân tích chất bồi của nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh,
tiến sĩ Lê Nguyên Sóc cũng đã có kết luận phù hợp với ý kiến của chúng tôi về
chất bồi. Đó là hỗn hợp của sơn ta, mùn cưa, giấy dó và đất...
Tôi mừng quá, vì như vậy là đã chứng minh được đây là một
táng thức mới mà tôi đặt tên là tượng táng (táng theo kiểu làm thành tượng) hay
thiền táng (táng theo kiểu ngồi thiền). Sau này tôi mới biết nét văn hóa trên
cũng có ở Trung Quốc. Vào thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên, kỹ thuật “Giáp trữ
tất” (sơn ta bó lụa) đã được thực hiện khi Lục tổ Huệ Năng (638 - 713) viên
tịch. Hiện nay, chân thân còn nguyên vẹn để tại Nam Hoa Tự, nằm ở phía tây tỉnh
Quảng Đông của Trung Quốc, thuộc thôn Nam Hoa, huyện Khúc Giang, cách TP Quảng
Châu về phía tây hơn 230 km. (Còn tiếp)
PGS-TS Nguyễn
Lân Cường
Kỳ 2: Nhục
thân thiền sư Vũ Khắc Trường
Trong chùa còn có pho tượng cổ thứ hai: Thiền sư Vũ Khắc
Trường - người trụ trì chùa Đậu kế tục ngay sau Vũ Khắc Minh, không có tài liệu
nào nói đây là “chú, cháu” như một số báo đã đưa tin. Năm 1893, chùa bị lụt,
tượng Vũ Khắc Trường nằm ở vị trí thấp hơn nên bị nước tràn vào và bị hỏng. Các
cụ trong làng đã làm lại một pho tượng khác bằng sơn ta có cốt dựng bằng tre và
gỗ rồi xếp xương vào bên trong.
Tại Viện Thông tin khoa học xã hội VN ở Hà Nội, chúng tôi
tìm thấy hai bức ảnh chụp tượng thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường còn
bóng nước sơn, không hề có vết nứt nào.
Nhưng chỉ sau vài chục năm, do tượng để trong am cạnh chùa
rất ẩm ướt nên đã làm cho cả hai pho tượng xuống cấp trầm trọng. Pho tượng Vũ
Khắc Minh bị nứt ở đầu gối và phần mặt. Pho tượng Vũ Khắc Trường, hỏng trầm
trọng ở phần chõn, hầu như không còn ngồi được ngay ngắn, nếu không có những
miếng gỗ kê ở phía dưới.
Tôi bắt tay viết dự án Tu bổ, bảo quản tượng hai vị thiền
sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu (Hà Tây) ngay vào đầu năm 2000.
Nhóm công tác gồm: PGS-TS Nguyễn Lân Cường (Chủ nhiệm dự án), họa sĩ sơn mài
Đào Ngọc Hân, các nhà điêu khắc Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Ngọc Lâm, kỹ sư Nguyễn
Mạnh Hà. Ngoài ra, còn có 6 cơ quan cùng kết hợp để thực hiện dự án, một hội
đồng cố vấn và Ban quản lý dự án được thành lập. Điều khó khăn nhất với chúng
tôi là các phương án nêu ra không thể mắc sai lầm vì hai pho tượng này là độc
bản, chỉ cần mắc một lỗi nhỏ là không thể sửa chữa được. Chúng tôi là những
người hiểu nhất điều này vì các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước lúc đó
như ông Nguyễn Khoa Điềm - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm,
Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin Phạm Quang Nghị... đã tới tận chùa để nghe chúng
tôi trình bày phương án tu bổ - bảo quản hai nhục thân.
Ngày 18 tháng 4 năm 2003 (tức 17 tháng 3 năm Quý Mùi) sau
vài tháng tranh luận quyết liệt xem tu bổ nhục thân ở đâu, lễ khởi công dự án
tu bổ - bảo quản nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu được tổ chức ngay tại chùa.
Và thế là bắt đầu những ngày lao động trong suốt 6 tháng trời...
Bằng kỹ thuật truyền thống: bó, hom, lót, thí, mài và
thếp với các nguyên liệu như: sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất, chúng
tôi đã tiến hành sơn 14 lớp và thếp vàng đối với tượng gốc Vũ Khắc Minh, còn
nhục thân Vũ Khắc Trường thì thếp bạc. Sau mỗi lớp sơn lại tiến hành mài, khiến
bề mặt là các lớp sơn đan ken, xoắn quyện với nhau. Đến lớp cuối khi phủ quang
dầu xong, chúng tôi phát hiện bề mặt pho tượng không nhẵn. Những hạt bụi lơ
lửng trong không trung đã bám vào bề mặt tượng. Chúng tôi quyết định làm lại và
thực hiện khâu này trong... màn. Trời nóng, mấy anh em phải xoay trần suốt cả
buổi chiều. Thật tuyệt vời, 2 ngày sau kiểm tra trên mình thiền sư mịn bóng,
không một gợn bụi...
![]() |
|
Họa sĩ sơn mài Đào
Ngọc Hân đang thếp vàng tượng gốc thiền sư Vũ Khắc Minh
|
Với pho tượng của thiền sư Vũ Khắc Trường, vốn là pho tượng
đã được dựng lại năm 1893, nên có nhiều chi tiết sai lệch về mặt giải phẫu.
Trong dự án soạn thảo đầu tiên, tôi có ý định dỡ ra, thu thập xương cốt rồi dựa
theo xương sọ để phục nguyên lại đúng với vẻ mặt ban đầu của thiền sư. Đây là
phương pháp của Gherasimov (người Nga) mà tôi là người VN đầu tiên và duy nhất
được học tập tại nước ngoài. Nhưng nhà chùa và cơ quan văn hóa thông tin địa
phương không tán thành, vì cho rằng nhân dân địa phương hơn trăm năm nay đã in
đậm trong tâm khảm hình ảnh của cụ Vũ Khắc Trường hiện tại rồi. Dù phục dựng
pho tượng mới có giống với hình hài thật của cụ, họ cũng sẽ không chấp nhận.
Tôi đành phải theo ý họ, mặc dầu vẫn ấm ức!
Pho tượng bị hỏng trầm trọng, bề mặt tượng lớp sơn bị mủn
nát. Chỉ cần một tác động nhẹ là cả pho tượng sẽ bị đổ sập xuống. Do đó không
thể đổ thạch cao làm khuôn trên chính pho tượng gốc để làm tượng đối chứng.
Nhóm chúng tôi quyết định giao cho nhà điêu khắc trẻ Nguyễn Ngọc Lâm làm một
pho tượng bằng đất sét có kích thước, hình dáng giống hệt tượng gốc và tiến
hành đổ khuôn để tu bổ phần chân và pho tượng đối chứng.
Vào một buổi chiều mùa hè, tôi ngồi ngắm pho tượng gốc của
Vũ Khắc Trường và cứ suy nghĩ mãi không hiểu tại sao vị thiền sư này có cánh
tay dài thế, khi so sánh với tỷ lệ chung của pho tượng. Tôi bàn bạc với họa sĩ
sơn mài Đào Ngọc Hân và quyết định “bí mật” khoét bốn ô nhỏ ở vùng gần đầu
xương cánh tay và khuỷu tay. Điều này cấp trên không tán đồng, nhưng chúng tôi
cứ “liều” vì biết đâu có thể phát hiện ra một chân lý nào đó... Ước mơ ấy của
chúng tôi đã thành sự thật. Trong hố khoét của cánh tay phải ở phía trên gần
vai, tôi phát hiện ra ròng rọc và chỏm của xương cánh tay (đã bị đặt lộn
ngược), bên cạnh nó là xương mác của xương ống chân được ghép vào xương cánh
tay và cũng bị lộn đầu. Đây chính là nguyên nhân làm cánh tay của thiền sư dài
quá cỡ. Chúng tôi đã tiến hành phủ sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và
thếp bạc mà chỗ dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng thiền sư Vũ Khắc Trường
nặng 31 kg.
Ngày nay ai tới chùa Đậu cũng thấy có 2 cụ Minh, 2 cụ
Trường, từng cặp giống nhau như hệt. Thật ra chỉ có 2 pho tượng gốc là đặt
trong nhà tổ. Hai pho còn lại được làm bằng thạch cao để đặt trong am ở hai bên
cạnh chùa. (Còn tiếp)
Bí ẩn nhục thân
các thiền sư - Kỳ 3: Chuyện lạ từ làng Phật Tích
![]() |
|
Nhà điêu khắc Bùi Đình Quang (trái) và
nhà nhân chủng học Nguyễn Lân Cường tái tạo hình dạng của nhục thân thiền sư
Chuyết Chuyết dựa vào di cốt còn lại - Ảnh tác giả cung cấp
|
Chùa Phật Tích - ngôi chùa thời Lý nghìn năm tuổi còn giữ
được pho tượng đá lớn nhất và những con thú bằng đá, nằm trên lưng chừng núi
Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Nhưng tại sao lại có tên
Lạn Kha, Tiên Du và Phật Tích?
Chuyện xưa
Trèo lên đỉnh núi phía sau chùa, chúng ta sẽ bắt gặp mấy
khối đá vuông, mặt phẳng. Các cụ già trong làng bảo đấy là bàn cờ tiên. Tương
truyền, trong làng lúc đó có một chàng tiều phu tên gọi là Vương Chất. Một hôm,
nhân lên núi đốn củi, Vương Chất thấy hai cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh
cờ trên tảng đá bằng phẳng. Hai cụ vừa đánh cờ vừa ăn đào và vứt hột sang bên.
Vương Chất vừa xem cờ, vừa nhặt hạt đào để ngậm tiếp. Ván cờ vừa xong, nhìn
xuống chân, thấy chiếc cán rìu đã mục và cũng là lúc hai cụ biến vào sau hàng
thông hiu quạnh... Soi mình trong bóng nước thấy râu tóc bạc trắng, chàng mới
chợt hiểu rằng mình đã lạm sống một thời gian dài ở cõi tiên - một năm bằng
sáu, bảy mươi năm ở cõi trần. Thế là, vì có tiên xuống chơi mà người ta gọi là Tiên
Du và cũng vì “cán rìu mục nát” mà núi ở đây cũng còn có tên là Lạn
Kha...
Truyện kể lại, chùa xưa rộng rãi khang trang có tới 300 tòa
nhà. Chỉ riêng công việc dọn dẹp đã cần tới 70 người. Đặc biệt ngọn tháp của
chùa cao vời vợi, nhòa lẫn trong mây, đến nỗi ở tận kinh thành Thăng Long vẫn
còn nhìn rõ. Nhà vua ngạc nhiên hỏi cận thần cớ sao ở nơi thôn dã mà lại có cây
tháp cao hơn cả cung điện trong hoàng thành? Sau lời “quở” đó, cây tháp thần kỳ
bị đổ dọc theo sườn núi, gạch đổ xuống tới tận đầu làng dài gần cây số, nơi ấy
nay còn tên là “Ngõ Gạch”. Dưới lòng đáy tháp lộ ra một pho tượng Phật sừng
sững. Pho tượng ấy nay vẫn còn, gọi là tượng Phật A Di Đà. Để ghi lại tích Phật
ấy, làng đổi tên là Phật Tích và dời lên sườn núi.
Bí ẩn tháp Báo Nghiêm
Vào một đêm cuối tháng 8.1989, trời mưa tầm tã, những tia
sét cuối hè xé ngang bầu trời tối đen như mực, liếm sang cả phía sau sườn núi
Lạn Kha. Chính trong cái đêm mưa bão ấy, kẻ gian đã lẻn lên sau chùa phá ô cửa
nhỏ bằng đá của tháp Báo Nghiêm, hòng tìm kiếm vàng bạc, hay tượng đồng đen
trong tháp. Tháp Báo Nghiêm, dựng năm Chính Hòa thứ 13 (1692), cao bốn tầng.
Mặt tháp có chạm tượng Phật, ngồi trên tòa sen. Bọn trộm có ngờ đâu, trong lòng
tháp chỉ vỏn vẹn có một vại sành, trong đó đựng xương và những mảnh vỡ của một
pho tượng cổ. Ngày hôm sau, đoàn tham quan gồm bảy nhà sư do Thượng tọa Thích
Thanh Quang - trụ trì chùa Quỳnh Lâm (tỉnh Quảng Ninh) dẫn đầu lên thăm khu
tháp bỗng nhìn thấy các mảnh xương, mảnh bồi nằm tung tóe dưới chân tháp.
Thượng tọa vội báo cho Ban di tích “Tìm thấy di hài của Phật Tổ rồi!...”.
Ông Trần Xuân Trường và Ban di tích của chùa vội gom lại xương và các mảnh bồi
vào trong một hòm kính đặt ở chùa. Chẳng mấy chốc, cái tin tìm thấy thi hài của
“Phật Tổ” lan đi rất nhanh. Đúng vào thời gian này, tôi đang nghiên cứu tại
Viện Khảo cổ học Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Liên bang Nga (Liên Xô cũ) ở
Moscow. Về nước vào đầu tháng 3.1991, thì giữa tháng 4, tôi được Ban di tích
của chùa Phật Tích mời lên nghiên cứu nhục thân của thiền sư.
Ngày 26.4.1991, trở lại chùa Phật Tích lần thứ hai, suốt cả
một ngày trời tôi loay hoay chắp gắn và khớp được ống chân phải với phần dưới
của đùi, tạo thành một góc nhọn, chúng tôi khẳng định tư thế hai chân ngồi xếp
bằng tròn của pho tượng. Chúng tôi đã phát hiện ra 209 mảnh bồi và 133 mảnh
xương. Nghiên cứu góc xương mu, khuyết ngồi lớn, mỏm chũm... chiều dài xương
đùi, chúng tôi cho rằng đây là di hài của một người đàn ông chừng 65-70 tuổi,
cao 1,59m. Đặc biệt chúng tôi tìm được bảy đoạn dây đồng nằm lọt giữa mảnh
bồi. Như vậy, chắc chắn người ta đã dựng khung xương trước nhờ những đoạn
dây đồng và bồi ra bên ngoài để tạo tượng. Chất bồi cũng là sơn ta, vải màn,
mạt cưa, đất... giống chất bồi của thiền sư Vũ Khắc Minh, nhưng cách tạo tượng
thì khác hẳn vì không bồi trực tiếp lên thi hài.
Nhìn chiếc vại đựng thi hài, chúng tôi thấy nét vẽ rồng
bằng phẩm màu rất sơ sài, nên tôi và nhà khảo cổ học Trịnh Cao Tưởng đều cho
rằng đây là chiếc vại có niên đại rất muộn - chỉ cách ngày nay vài chục năm,
không thể so sánh với niên đại của tháp. Thế thì có đúng đây là di hài của
thiền sư Chuyết Chuyết hay không? Tại sao bức tượng có xương cốt của ngài lại
bị đập vỡ và để trong vại đặt trong tháp Báo Nghiêm của chùa Phật Tích? Tất cả
những câu hỏi trên mãi sau này chúng tôi mới có lời giải đáp...
(Lược trích từ cuốn Bí mật phía sau nhục thân của các vị
thiền sư của PGS-TS Nguyễn Lân Cường)
PGS-TS Nguyễn Lân Cường


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét