Charlie Nguyễn
Đối với
đại khối các dân tộc Ả Rập, nguyên bản bằng ngôn ngữ Arabic của kinh Koran là
một kiệt tác phẩm thi văn. Kinh Koran không hẳn là một cuốn thơ trường thiên
nhưng là một tác phẩm văn xuôi có vần có điệu (poetic rhymed prose) rất thích
hợp với khẩu vị văn chương của những người du mục ở nơi hoang dã. Chính vì vậy
mà kinh Koran đã mau chóng được truyền bá qua truyền khẩu rộng khắp bán đảo Ả
Rập (lớn gấp 8 lần Việt Nam ).
Về phương
diện tâm linh, kinh Koran là sự nối kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo độc
thần khởi đầu từ tổ phụ Abraham, qua Mai-sen (Moses) qua Jesus đến thiên sứ
cuối cùng là Muhammad. Từ 2000 năm trước Công Nguyên, những người Ả Rập đã biết
đến Thiên Chúa của Abraham mà họ gọi là Allah. Điều đó có nghĩa là họ đã thờ
Allah từ 27 thế kỷ trước khi có Muhammad và đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc
với văn hóa Do Thái, người Ả Rập đã rất quen thuộc với các nhân vật của kinh
Thánh Cựu Ước. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7, người Ả Rập tiếp xúc với những người Ki
Tô Giáo thuộc đế quốc Byzantine rộng lớn và từ những nước lân bang như Syria,
Ai Cập và Ethiopia... Mặc dù rất ít người Ả Rập lúc đó theo Ki Tô Giáo nhưng
cũng không cảm thấy xa lạ với Jesus và Gioan Baotixita.
Đọc kinh
Koran, chúng ta sẽ thấy những nhân vật quan trọng của hai đạo Do Thái và Ki Tô
được Muhammad thường xuyên nhắc tới. Kinh Koran là một tổng hợp những kiến thức
tôn giáo đã tiềm tàng sẵn trong đại khối các dân tộc Ả Rập. Sự tổng hợp đó được
gọi là Islam, có nghĩa là sự tuân phục tuyệt đối vào Thiên Chúa. (Islam means
the absolute submission to God). Người Trung Quốc phiên âm "Islam"
thành "Hui" (Hồi) và gọi đạo này là "Hui-jao" tức Hồi Giáo.
Kinh Koran trở thành Thánh Kinh (The Holy Book) hoặc sách Mặc Khải (Book of
Revelation) của Hồi Giáo.
Đáng lẽ ra
đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo Hồi đều cùng thờ chung một Chúa thì phải có chung
một Kinh Thánh duy nhất mới phải. Trong thực tế, mỗi đạo đều có Thánh Kinh
riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh Kinh của mình mới là chân lý tuyệt đối. Cả 3
đạo đều tự cho Thánh Kinh của mình là những "sách Mặc Khải".
- Kinh
Torah (Cựu Ước) được Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Mai-sen (Moses) khoảng năm
1250 TCN trên núi Sinai.
- Các sách
Tân Ước/Phúc Âm là các sách Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Phao Lô và bốn vị
Thánh Sử: Matthew, Mark, Luke và John trong thế kỷ 1.
- Kinh
Koran là sách Thiên Chúa mặc khải cho tiên tri Muhammad qua trung gian của
thiên thần Gabriel trong 22 năm liên tục (610-632).
Trước khi
có kinh Koran, người Ả Rập có mặc cảm là một chủng tộc thiếu văn hóa và họ tỏ
ra trọng nể người Do Thái và Ki Tô. Cho nên, trong ngôn ngữ Ả Rập có danh từ
"Dhimmi" để gọi chung cho Do Thái và Ki Tô. Danh từ này có nghĩa là
"những người có sách Thánh Kinh" (People of the Books).
Sự xuất
hiện kinh Koran vào đầu thế kỷ 7 đã đem lại cho các dân tộc Ả Rập một niềm tự
hào vì từ nay họ có Thánh Kinh viết bằng tiếng Ả Rập. Họ đón nhận đạo Hồi là
đạo của dân tộc chứ không phải là đạo ngoại lai. Kinh Koran và đạo Hồi là hai
yếu tố quan trọng đem lại sự hứng khởi tinh thần và là chất keo văn hóa nối kết
các bộ lạc Ả Rập lại với nhau và biến đại khối Ả Rập thành một lực lượng chính
trị và quân sự hùng mạnh trong nhiều thế kỷ.
I . Công việc biên soạn Kinh Koran
Khác với
Cựu Ước được viết theo lối văn lịch sử kinh Koran được viết theo lối văn kể
chuyện thông thường (oral recitation). Tổng cộng có 114 chương (suras/chapters)
gồm 6616 câu thơ (verses).
Sự phân
phối các câu thơ trong các chương không đều nhau. Chương dài nhất có 287 câu
thơ, chương ngắn nhất chỉ có 3 câu mà thôi. Mỗi câu thơ cũng dài ngắn bất
thường: Câu thơ dài nhất chiếm tới nửa trang sách, câu ngắn nhất chỉ có 2 chữ!
Phần lớn kinh Koran (85 chương) được Muhammad viết tại Mecca ,
còn lại 29 chương viết tại Medina .
Muhammad viết Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật phơi khô.
Sau khi
Muhammad chết vào năm 632, phần lớn các bản chép tay nói trên bị thất lạc hoặc
phân tán rải rác nhiều nơi. Mọi người cảm thấy nguy cơ có thể làm cho cuốn
Thánh Kinh của họ bị tiêu vong nếu không gấp rút sưu tầm và thu hồi các nguyên
bản của Muhammad. Sau đó, cần phải có người tài giỏi biên tập tất cả các nguyên
bản thành một cuốn Thánh Kinh duy nhất.
Để đáp ứng
nhu cầu của các tín đồ Hồi Giáo, người có thẩm quyền đầu tiên đứng ra lo việc
này là Abu Bakr (632-634). Ông vừa là cha vợ vừa là người đầu tiên kế vị
Muhammad (the first caliph) và cũng là vị vua Hồi Giáo đầu tiên thống nhất bán
đảo Ả Rập để biến nơi này thành điểm xuất phát bành trướng Hồi Giáo ra khắp thế
giới. Abu Bakr giao cho một thanh niên 22 tuổi tên Zayd đi sưu tầm và gom góp
các thủ bản của kinh Koran do Muhammad viết tập trung tại Medina .
Công việc
đang được tiến hành tốt đẹp thì Abu Bakr qua đời. Các tài liệu do Zayd thu thập
đều được chuyển giao cho vị vua Hồi Giáo kế nhiệm là Umar Khattab. Vị vua này
là một nhà quân sự đại tài, chỉ trong 10 năm (634-644) đã mở rộng lãnh thổ của
Hồi Giáo ra toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi. Vì quá mải mê lo việc quân sự nên
vị vua này đã bỏ quên công việc biên tập kinh Koran. Hậu quả nghiêm trọng là ở
những địa phương khác nhau người ta truyền miệng những câu thơ của Kinh Koran
khác nhau và sự tranh cãi về tính trung thực của kinh Koran càng ngày càng trở
nên gay gắt và hổn loạn. Các cuộc tranh cãi này đã dẫn đến cuộc "thánh
chiến" giữa hai phe Hồi Giáo tại Nehavand, gây cảnh thịt rơi máu đổ trong
7 năm (650-657).
Vị vua kế
nghiệp thứ ba (the third caliph) là Uthman (644-657) chú tâm đến việc phục hồi
kinh Koran. Năm 652, Uthman giao cho Zayd và 3 người phụ tá nhiệm vụ biên tập
các bản thảo của Muhammad thu hồi được thành một cuốn sách duy nhất. Sau 5 năm,
nhóm biên tập của Zayd hoàn thành nhiệm vụ. Năm 657, tức 25 năm sau khi
Muhammad qua đời, vua Uthman công bố bản kinh Koran do Zayd biên tập và gọi nó
là "MUSHAF" có nghĩa là "Kinh Thánh chính thức của mọi người Hồi
Giáo" (The Official Codex for all Muslims).
Ban biên
tập của Zayd chép cuốn Kinh Thánh này thành 4 bản giống nhau để lưu trữ tại 4
thành phố: Medina , Basra
và Kufa (Iraq ) và tại
Damacus (Syria ).
Sau đó,
Uthman ra lệnh tiêu hủy toàn bộ các bản viết tay của Muhammad trên lá cọ và da
thú vật. Công việc này tương tự như hành động của Hoàng Đế La Mã Constantine ra
lệnh thiêu hủy toàn bộ các sách thánh kinh và các di tích thật của Jesus sau
Công Đồng Nicaea
năm 325.
Do sự
thiêu hủy các bản viết tay của Muhammad theo lệnh của vua Uthman đã không được
thi hành triệt để nên ngày nay người ta đã thu thập được 5 bản chính viết trên
da súc vật:
-2 bản
hiện lưu trữ tại thư viện Taskhent ở Uzebekistan.
-1 bản lưu
trữ tại thư viện Tpokabi Thổ Nhĩ Kỳ.
-1 bản tại
bảo tàng viện London .
-1 bản mới
tìm thấy tại Yemen
năm 1979.
So sánh
các bản chính nói trên với Kinh Koran do Uthman công bố năm 657, người ta đã
phát giác có nhiều sự khác biệt. Các học giả nghiên cứu về Hồi Giáo xác nhận:
Việc Uthman ra lệnh tiêu hủy các bản viết tay của Muhammad là một tổn thất hết
sức nặng nề cho Hồi Giáo. Năm bản viết tay trên da súc vật mà ngành khảo cổ đã
thu thập được cũng đủ xác minh một sự thật đáng buồn: Zayd và ban biên tập của
ông ta có thể đã không thu thập đầy đủ các thủ bản của Muhammad, khi chép lại
có thể đã bỏ sót một số câu thơ của kinh Koran và cuối cùng không có gì bảo đảm
là Zayd và ban biên tập đã không tự ý sửa đổi Kinh Koran theo ý riêng của mình.
Tuy nhiên,
hầu hết các tín đồ Hồi Giáo hiện nay đã không nêu lên những vấn đề nói trên. Họ
vẫn tin rằng bản kinh Koran bằng tiếng Arabic do vua Uthman công bố năm 657 là
kinh Koran do Thiên Chúa Allah mặc khải cho Muhammad.
II . Sơ lược nội dung Kinh Koran
Những
chương đầu tiên của Kinh Koran nói về Thiên Chúa Allah với những đặc tính siêu
việt của Ngài. Vì đạo Hồi là đạo Thiên Chúa thứ ba, xuất hiện sau đạo Do Thái
và đạo Ki Tô nên đạo Hồi đã in đậm những dấu ấn đức tin của hai đạo Thiên Chúa
đàn anh. Tôi đã trình bày đầy đủ vấn đề này trong bài "Ảnh hưởng thần học
Do Thái -Ki Tô trong đức tin Hồi Giáo". (Xin đọc "Thực chất đạo Công
Giáo và các đạo Chúa", Giao Điểm xuất bản - Xuân 2003, trang 201-232).
Ngoài Thiên Chúa ra, Kinh Koran dạy phải tin có các thiên thần và ma quỉ
(Satan), tin các sách Mặc Khải của đạo Do Thái và Ki Tô cùng các vị thiên sứ,
tin có ngày tận thế và ngày phán xét cuối cùng, tin mọi kẻ chết đều được sống
lại, tin có Thiên Đàng Hỏa Ngục, tin mọi việc do Thiên Chúa Allah tiền định
nhưng mọi người có ý chí tự do.
Tất cả các
điều này đã được trình bày đầy đủ qua 32 trang sách dẫn chiếu, vậy tôi xin miễn
nhắc lại ở đây.
Khác với
Cựu Ước và Tân Ước chỉ đề cập đến vấn đề thiêng liêng hoặc lịch sử, Kinh Koran
đồng thời cũng là một bộ luật đầu tiên và cao nhất của Hồi Giáo. Thí dụ:
- Cấm cho
vay nặng lãi (Koran 2:275)
- Cấm ăn
thịt heo, thịt đã cúng các thần khác, cấm ăn máu (tiết canh, huyết) Koran 5:3.
- Cấm cờ
bạc, Koran 5:90
- Cấm săn
bắn trong thời gian hành hương Mecca
(Koran 5:93).
- Phải ăn
chay trong tháng Ramadan (Koran 2:182).
- Phải rửa
chân tay sạch sẽ trước khi cầu nguyện (Koran 5:6).
- Cấm giao
hợp với đàn bà có tháng (Koran 2:221).
Trước khi
có kinh Koran, phụ nữ Ả Rập giàu có thường lấy nhiều chồng và đa số là những
người đàn ông trẻ khỏe. Kinh Koran khẳng định quyền ưu thắng của đàn ông (Koran
4:34) và chính thức bãi bỏ tục đa phu (polyandre).
Bất cứ
người đàn bà nào có chồng bị cáo buộc về tội ngoại tình đều bị đem ra cho công
chúng ném đá đến chết (Koran 4:15).
Kinh Koran
qui định án phạt hết sức nặng nề chống lại bất cứ ai bị kết án: "Chống
Thiên Chúa Allah" hoặc "chống Thiên Sứ Muhammad". Người đó sẽ bị
đóng đinh vào thập giá hoặc bị chặt hết chân tay (Sura 5).
Tội trộm
cũng có thể bị phạt rất nặng. Dù đàn ông hay đàn bà tùy theo nặng nhẹ nếu bị
kết án về tội trộm sẽ bị chặt một tay hay hai tay (Koran 5: 3)
III. Những điều nên biết về HADITH, SUNNA và SHARIA
Vì lý do
kinh Koran không phải là sách dễ đọc nên trong các xứ Hồi Giáo, các tín đồ đọc
kinh Koran đều cần có người hướng dẫn. Những người hướng dẫn không phải là tu
sĩ nhưng là những người học thức chuyên nghiên cứu về kinh Koran. Những bài
giảng của họ được gọi là HADITH, có nghĩa là một bài phúc trình (report). Qua
nhiều thế kỷ, số bài phúc trình giảng giải về Kinh Koran đạt tới con số rất
lớn. Các học sĩ Hồi Giáo chọn lựa các bài hay tập trung lại thành một cuốn sách
gọi là SUNNA, có nghĩa là "Tuyển tập các phúc trình" (Collection of
Reports). Từ đó, sách SUNNA trở thành một cuốn sách bổ túc cho kinh Koran về
mặt tín lý, giáo điều.
Các chính
quyền của các nước Hồi Giáo chiếu theo tinh thần và luật pháp nêu trong kinh
Koran và sách SUNNA để làm ra bộ luật gọi là SHARIA. Danh từ này được dịch sang
Anh Ngữ là "Islamic Holly Law" có nghĩa là "Thánh Luật Hồi Giáo".
Tất cả các
sách Sunna và Sharia đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ 9 và đã được viết thành
nhiều bản khác nhau tại nhiều nơi khác nhau. Do vậy, các sách này chứa đựng
nhiều điều mâu thuẫn, nhất là những giai thoại khác biệt nhau về cuộc đời và
lời nói của giáo chủ Muhammad. Đây là một trong những nguyên nhân chính yếu gây
ra tệ nạn phân hóa trong đạo Hồi: Giáo phái Sunni chỉ công nhận những Hadiths
(reports) của Bukkhari. Giáo phái Shiite công nhận Hadiths của Kulayni và giáo
phái Khariji chỉ công nhận Ibn Habib. Giáo phái này kết án giáo phái kia là
xuyên tạc hoặc giả mạo Thánh Kinh Koran và gọi nhau là những kẻ tà đạo
(mukhtalaq)! Kết quả là những cuộc thánh chiến đẫm máu giữa các giáo phái này
trong nhiều thế kỷ qua.
IV. Các bản dịch kinh Koran
Do nhu cầu
truyền bá đạo Hồi trong 14 thế kỷ qua, đến nay kinh Koran đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng trên thế giới. Riêng một mình nhà xuất bản Takrike Tarsile
Qu'ran, Inc. ở New York
đã sưu tập được trên 600 bản dịch khác nhau!
Lịch sử
Hồi Giáo ghi nhận bản dịch kinh Koran đầu tiên trên thế giới là bản dịch từ
tiếng Ả Rập sang tiếng La Tinh do một người Ý tên là Peter Venerable thực hiện
năm 1143. Điều đáng chú ý là bản dịch viết tay của ông hiện vẫn được lưu giữ
tại tu viện Kluny (Ý). Đúng 300 năm sau, tức vào năm 1543, bản dịch viết tay
duy nhất này được đem in và xuất bản tại Rome .
Nhờ có bản
dịch kinh Koran bằng tiếng La Tinh này, Âu Châu mới biết đến cuốn kinh Thánh
của đạo Hồi.
- Năm
1616, tại Nuremberg
xuất hiện kinh Koran bằng tiếng Hòa Lan dịch từ bản La Tinh.
- Năm
1647, kinh Koran bằng tiếng Pháp được xuất bản tại Paris cũng dịch từ bản La Tinh.
- Năm
1776, tại Petersburg
cuốn kinh Koran bằng Nga ngữ được xuất bản, dịch từ tiếng Pháp.
- Đầu thế
kỷ 18, một người Anh tên là A.Ross dịch kinh Koran từ tiếng Pháp sang tiếng Anh
và xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1737.
Cho tới
nay, có nhiều bản dịch khác nhau bằng tiếng Anh. Mặc dầu lối hành văn khác nhau
nhưng nội dung vẫn tương tự. Điều đặc biệt là Kinh Koran được xuất bản nhiều
triệu cuốn một lúc nên giá bán rất rẻ. Phần lớn các bản kinh Koran được in dưới
hình thức sách bỏ túi (pocket books) có giá bán thông thường là 5 Mỹ Kim. Với
giá này ai cũng có thể mua về đọc chơi hoặc để tham khảo. Số trang trung bình
của sách loại này là 500 trang, chữ in cở nhỏ.
V. Nên đọc sách kinh Koran bằng Anh ngữ như thế nào?
Đối với
những ai đã từng quen đọc Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước bằng Anh ngữ thì khi
chuyển sang đọc kinh Koran qua bản dịch Anh ngữ sẽ cảm thấy không mấy khó khăn.
Tuy nhiên, trong nhiều bản dịch Anh ngữ lại có rất nhiều những danh từ chung và
danh từ riêng được phiên âm theo tiếng Ả Rập. Nếu không tìm hiểu ý nghĩa của
những danh từ này trước khi đọc sách Koran chúng ta sẽ lâm vào tình trạng lúng
túng không thể hiểu được nội dung của sách và cũng không biết các nhân vật được
nói tới trong Kinh Koran là ai. Lấy một thí dụ điển hình: một nhân vật có tên Ả
Rập là ISA được nhắc tới 114 lần trong kinh Koran và nhân vật Myriam được nhắc
tới trên 50 lần. Thực ra họ chẳng phải là ai xa lạ: ISA chính là Jesus và Myriam
chính là bà Maria, mẹ của ngài.
Để giải
quyết khó khăn về các từ ngữ phiên âm theo tiếng Arabic, tôi đề nghị quí vị hãy
tìm các bảng GLOSSARY OF ARABIC TERMS thường được in cuối các sách Anh ngữ nói
về Hồi Giáo. Quí vị chọn một số từ ngữ quí vị cho là quan trọng để học thuộc
lòng trước khi bắt đầu đọc kinh Koran hay các sách viết về Hồi Giáo.
Sau đây là
bảng danh sách đối chiếu các tên riêng của Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước được
nhắc lại trong kinh Koran theo phiên âm Arabic. Các tên riêng này được xếp theo
nhóm gia đình (chứ không theo thứ tự Alphabet)
NHÓM
|
Phiên âm ARABIC
|
Phiên âm ANH NGỮ
|
Phiên âm VIỆT NGỮ
|
Thiên Chúa
|
ALLAH
|
Jehovah Elohim/God
|
Thiên Chúa
|
Tổ tông loài người
|
ADAM
|
ADAM
|
Ông A-dong
|
HAWAA
|
EVE
|
bà E-và
|
|
Gia đình Abraham
|
AZAR
|
TERAH
|
Cha của
Abraham
|
IBRAHIM
|
ABRAHAM
|
Ông
Áp-ra-ham
|
|
SARA
|
SARAH
|
Vợ của Áp-ra-ham
|
|
ISHAAQ
|
ISAAC
|
Con trai
của Abraham và bà Sarah, tổ tiên Do Thái
|
|
AGAR
|
HAJAR
|
Vợ bé, đầy tớ của Abraham
|
|
ISMAHIL
|
ISMAEL
|
Con của Abraham và Agar, tổ tiên các giống dân Ả Rập
(Ismael là vai anh của Isaac) |
|
Gia Đình Jesus
|
ISA
|
JESUS
|
Chúa Giê-xu
|
MYRIAM
|
MARY
|
Đức bà Maria
|
|
Yusuf
|
Joseph
|
Thánh Giuse
|
|
Zakariya
|
Zakariah
|
Thánh Gio-a-Kim, cha của Gioan Baotixita
|
|
Yahya
|
John Baptist
|
Thánh Gioan Baotixita (cậu họ của Giê-xu)
|
|
Các tiên tri Do Thái cũng là các thiên sứ trong đạo Hồi
|
Al-Yasa
|
Elisha
|
Tiên tri Ê-li-sa
|
Dawood
|
David
|
Vua Thánh Đavit
|
|
Dhulkiit
|
Ezekiel
|
||
Haroon
|
Aaron
|
Anh của Mai-sen
|
|
Musa
|
Moses
|
Thánh Mai-sen
|
|
Idriis
|
Enoch
|
||
Luut
|
Ông Lot (cháu gọi Abraham bằng bác ruột)
|
||
Nuh
|
NOAH
|
Ông No-e
|
|
Sulayman
|
Solomon
|
Vua Slomon (con David)
|
|
Yaquub
|
Jacob
|
Cha của 12 con trai, tổ tiên 12 bộ lạc Do Thái
|
|
Yunus
|
Jonah
|
||
Ayyoub
|
Job
|
||
Thánh Kinh
|
Tawrah
|
Torah/Old
|
Kinh Thánh của đạoDo Thái
|
Taurat
|
Testament
|
Cựu Ước của đạo Ki Tô
|
|
Injil
|
Gospel/New
|
Phúc âm/Thánh Kinh Tân Ước
|
|
Al-injil
|
Testament
|
||
Qur'an
|
Koran
|
Thánh Kinh Hồi Giáo
|
|
Thiên thần, ma quỉ Jibril
|
Jibreel
|
Gabriel
|
Thiên thần truyền tin
|
Meekaeel
|
Micheal
|
Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e
|
|
Buraq
|
Buraq
|
Con ngựa đầu người có cánh đưa Mohammad về trời tại
|
|
Shaitan / Iblis
|
Satan
|
Quỉ Sa tăng
|
Ngoài ra,
xin chú ý đến một số chi tiết sau đây:
1. Một số
đại danh từ trong các sách Thánh Kinh thường được viết theo cổ ngữ của tiếng
Anh. Thí dụ:
You được
viết thành Thou
Your được
viết thành Thy...
2. Các quá
khứ phân từ, thay vì viết là ED lại được viết thành TH. Thí dụ
- He
opened He openeth
- He
called He calleth
- You will
Thou shalt
- You have
Thou hast
3. Các
kinh Koran Anh ngữ thường đánh số các chương (sura/chapter) bằng số La Mã ở góc
trái trên đầu trang sách. Thí dụ: Sura XXXVII: chương 37, Sura CVIII chương
108, LXXIX: chương 79 v.v...
Khi tra
cứu một câu trong kinh Koran, thí dụ:
"Muhammad
is not the father of any of your men but he is the Apostle of Allah and the
last of the prophets. Koran 33:40". Xin nhớ số ghi trước là số chương
(sura/chapter) số ghi sau là câu thơ (verse). Vậy trước hết xin hãy tìm chương
33 sau đó tìm câu thơ số 40 trong chương này, quí vị sẽ gặp đúng câu thơ được
trích dẫn.
Khi đọc
các sách về đạo Hồi, chúng ta thường gặp những câu trích dẫn từ kinh Koran, nếu
có sẵn một cuốn Koran trong tay để kiểm chứng tính chính xác của sự trích dẫn
và sự trung thực của người dịch, thiết tưởng cũng là một điều thích thú.
Để kết thúc bài
viết này, tôi xin mượn lời giới thiệu của nhà xuất bản Tahrike Tarsile Qur'. Ind. New York nói về kinh Koran: "Kinh Koran
có khả năng đem lại cho những người ngoại giáo những điều bổ ích và mang lại
tất cả mọi thứ cho các tín đồ Hồi Giáo". (The Qur'an offers at least
something to non-believers and everything to believers).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét