Theo Wikipedia
Ngày 1 tháng 6 năm 1968 được chọn là ngày khởi đầu tiến trình
tham gia ký kết Hiệp ước Cấm
phổ biến Vũ khí Hạt nhân (Nuclear
Non-Proliferation Treaty - NPT hoặc NNPT). Hiệp ước này được
thiết lập nhằm mục đích hạn chế việc sở hữu các loại vũ khí hạt nhân.
Đại đa số các quốc
gia có chủ quyền (187 nước) đều tham gia hiệp ước. Tuy nhiên, hai trong số bảy
cường quốc hạt nhân và một vài quốc gia có thể đang có vũ khí hạt nhân không
chịu phê chuẩn hiệp ước. Ireland là
quốc gia soạn thảo hiệp ước, cònPhần Lan là quốc gia đầu tiên ký kết hiệp ước.
Ngày11 tháng 5 năm 1995, tại Thành phố New York, hơn 170 quốc gia quyết định
mở rộng hiệp ước không giới hạn và không điều kiện.
Hiệp ước thường được
tóm tắt thành ba Nguyên tắc trụ cột: Không phổ biến, Giải giới và Quyền sử dụng
kỹ thuật hạt nhân cho mục đích hoà bình.
Chiếu theo hiệp ước,
có năm quốc gia được phép sở hữu vũ khí hạt nhân: Pháp (ký năm 1992), Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1992), Liên Xô (1968; nghĩa vụ và quyền lợi nay được
chuyển cho Liên bang Nga), Anh (1968) và Hoa Kỳ (1968). Đây là các nước đang sở hữu vũ
khí hạt nhân vào thời điểm hiệp ước được ký kết, cũng là các quốc gia thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm nước
này thoả thuận không chuyển giao kỹ thuật hạt nhân cho các nước khác, và các
quốc gia không có vũ khí hạt nhân cũng đồng ý không mưu cầu có vũ khí hạt nhân.
Năm quốc gia có vũ
khí hạt nhân (VKHN) cam kết không sử dụng chúng để chống lại các nước không có
VKHN trừ khi phải đánh trả một cuộc tấn công hạt nhân hoặc một cuộc tấn công
qui ước có liên minh với quốc gia có VKHN. Tuy vậy, những cam kết này không
được chính thức đưa vào hiệp ước, trong khi các chi tiết chính xác lại thường
thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn như Hoa Kỳ từng ra chỉ dấu rằng nước này có
thể sử dụng VKHN để đáp trả một cuộc tấn công phi qui ước bởi các "nước
lưu manh" (rogue state). Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Anh, Geoff Hoon, công khai nói đến khả năng sử
dụng VKHN nhằm đáp trả các cuộc tấn công không qui ước bởi các "nước lưu
manh". Tháng 1 năm 2006, Tổng thống Pháp,Jacques Chirac,
ngụ ý rằng các cuộc tấn công khủng bố được những quốc gia khác bảo trợ, nếu xảy
ra trên đất Pháp, có thể dẫn đến những cuộc tấn công trả đũa bằng VKHN cỡ nhỏ
nhắm vào những trung tâm của các "nước lưu manh".
Điều VI và lời nói
đầu chỉ ra rằng các nước có VKHN theo đuổi mục tiêu cắt giảm và loại bỏ kho vũ
khí của họ; điều khoản này của hiệp ước cũng kêu gọi tiến đến "... một
hiệp ước giải giới toàn diện được đặt dưới sự kiểm soát quốc tế nghiêm ngặt và
hiệu quả". Trong Điều I, các nước có VKHN tuyên bố không "xúi giục
các nước không có VKNH tìm cách sở hữu loại vũ khí này". Chủ thuyết tấn
công để ngăn chặn và các động thái đe doạ khác có thể được hiểu bởi các nước
không có VKHN là hành động xúi giục. Điều X công bố rằng bất kỳ quốc gia nào
cũng có thể rút khỏi hiệp ước nếu họ cảm thấy có những "biến động bất
thường", thí dụ như một sự đe doạ hiển nhiên, buộc họ phải đi đến quyết
định ấy.
Vì chỉ có rất ít quốc
gia đang sử dụng lò phản ứng hạt nhân để sản xuất năng lượng tự nguyện hoàn
toàn từ bỏ nhiên liệu hạt nhân, nên trọng tâm thứ ba của hiệp ước là cung ứng
cho các quốc gia khác khả năng sản xuất năng lượng hạt nhân, với điều kiện không sử
dụng kỹ thuật này để phát triển vũ khí hạt nhân.
Song đối với một vài
quốc gia, nguyên tắc này của hiệp ước, cho phép làm giàu urani để sản xuất năng lượng, xem ra là một
kẽ hở lớn. Mặc dù hiệp ước dành cho mọi quốc gia quyền sử dụng năng lượng hạt
nhân cho mục đích hoà bình, và khi trên thị trường đang có những thiết kế cho
nhà máy năng lượng hạt nhân dùng lò phản ứng nước nhẹ sử dụng nhiên liệu urani
làm giàu, các quốc gia này cần phải được cấp phép để làm giàu urani hoặc để mua
loại hàng hoá này trên thị trường quốc tế. Kiểm soát tiến trình làm giàu urani
có thể được xem như là một phần trong biện pháp ngăn cản sự phát triển đầu đạn hạt nhân để nếu nước nào muốn làm điều này thì
phải rút lui khỏi hiệp ước. Không quốc gia nào có thể bí mật chế tạo vũ khí hạt
nhân trong khi còn bị ràng buộc chịu sự thanh tra của hiệp ước.
Các quốc gia ký kết
và hiện duy trì hiệp ước đều có thành tích tốt trong việc tuân thủ hiệp ước.
Trong một số khu vực, yếu tố tất cả quốc gia trong vùng đều không có vũ khí hạt
nhân giúp mỗi quốc gia đơn lẻ không cảm thấy có nhu cầu phải chế tạo vũ khí hạt
nhân. Đây là một trong những mong đợi khi hiệp ước được thiết lập.
Mohamed ElBaradei,
người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, nói rằng có đến 40 quốc gia có
thể phát triển bom hạt nhân nếu họ muốn.
Hiệp ước được đề xuất
bởi Ireland, bắt đầu được ký kết năm 1968, và Phần Lan là quốc
gia đầu tiên thực hiện việc ký kết. Năm 1992, cả năm quốc gia có
vũ khí hạt nhân đều tham gia ký hiệp ước. Hiệp ước được canh tân năm 1995, bổ sung với Hiệp ước Cấm Thử
nghiệm Toàn diện năm 1996. Một vài quốc gia ký
kết hiệp ước đã loại bỏ vũ khí hạt nhân hoặc từ bỏ các chương trình sản xuất vũ
khí hạt nhân. Cộng hòa Nam Phi đã xúc tiến chương trình chế tạo vũ
khí hạt nhân, được cho là với sự trợ giúp của Israel, và có thể đã
tiến hành thử nghiệm trên Đại Tây Dương, nhưng đã từ bỏ chương trình hạt nhân và tham
gia ký hiệp ước năm1991 sau khi phá huỷ kho hạt nhân của mình. Ukraina và một vài nước khác thuộc Liên Xô cũ
cũng đã phá huỷ hoặc chuyển giao cho Nga các loại vũ khí hạt nhân mà họ thừa
hưởng từ Liên Xô.
Vào lúc đang thương
thảo về hiệp ước, NATO đã có thoả thuận theo đó Hoa Kỳ cung
cấp vũ khí hạt nhân để các quốc gia thành viên của NATO phát triển và tồn trữ
chúng. Điều này xem ra đang vi phạm Điều I và II của hiệp ước. Các quốc gia
NATO lập luận rằng Hoa Kỳ đang kiểm soát kho vũ khí và không hề có sự chuyển
giao vũ khí hoặc quyền kiểm soát cho họ "trừ khi và cho đến khi xảy ra
chiến tranh, mà khi ấy thì hiệp ước không còn có giá trị nữa". Tóm lại,
không có sự vi phạm hiệp ước ở đây. Mặc dù thoả thuận giữa các nước thuộc NATO
được tiết lộ cho một vài quốc gia, kể cả Liên Xô, khi đang thương thảo về hiệp
ước, hầu hết các nước ký vào năm 1968 không biết gì về thoả thuận này cùng cung
cách giải thích vào thời điểm ấy.
Đến năm 2005, Hoa Kỳ cung cấp
khoảng 180 quả bom hạt nhân chiến thuật B61 cho Bỉ, Đức,Ý, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ chiếu
theo thoả thuận này của NATO. Nhiều quốc gia, cùng vớiPhong trào không liên kết, cho rằng điều
này vi phạm Điều I và II của hiệp ước, và đang gia tăng áp lực nhằm chấm dứt
thoả thuận này. Họ chỉ ra rằng phi công và nhân viên của các quốc gia NATO
"phi hạt nhân" đang thực hành điều khiển và chuyển giao bom hạt nhân
của Hoa Kỳ, và máy bay chiến đấu không phải của Hoa Kỳ cũng được chỉnh sửa để
chuyển vận bom hạt nhân Mỹ, tức là đã có chuyển giao một số thông tin kỹ thuật
vũ khí hạt nhân.
Ngay cả trong trường
hợp thoả thuận của NATO là hợp pháp thì trong thời bình những động thái như thế
là mâu thuẫn với tinh thần và mục tiêu của Hiệp ước. NATO tin rằng "lực
lượng hạt nhân của NATO sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nỗ lực ngăn
chặn chiến tranh, nhưng vai trò hiện nay của lực lượng này đang phục vụ những
mục tiêu chính trị".
Ba nước này - Ấn Độ, Pakistan, Israel - từ chối tham gia Hiệp ước. Ấn Độ và
Pakistan đã được xác nhận là cường quốc hạt nhân, trong khi nhiều người tin
rằng Israel đã có vũ khí hạt nhân, dù chưa có xác nhận nước này đã tiến hành
các vụ thử hạt nhân (xem Danh sách các Quốc
gia có Vũ khí Hạt nhân). Ba quốc gia này lập luận rằng Hiệp ước đã
dựng lên một câu lạc bộ các nước có vũ khí hạt nhân, để phân biệt với một nhóm
đông hơn, gồm nhiều các quốc gia không có vũ khí hạt nhân, nhằm mục đích hạn
chế quyền sở hữu hợp pháp vũ khí hạt nhân dành riêng cho các nước đã có các
cuộc thử nghiệm trước năm 1967, nhưng Hiệp ước chưa bao giờ giải thích trên nền
tảng đạo đức nào để chứng minh sự phân biệt ấy là đúng đắn.
Ấn Độ và Pakistan đã
công khai tuyên bố đã sở hữu vũ khí hạt nhân cũng như đã cho kích nổ chúng
trong các cuộc thử nghiệm, Ấn Độ tiến hành thử nghiệm lần đầu năm 1974 và Pakistan năm 1998. Ước tính Ấn Độ tồn
trữ nguyên liệu đủ để chế tạo 100–150 đầu đạn, còn Pakistan đủ cho 60–100 đầu
đạn. Israel vẫn đang phát triển vũ khí hạt nhân tại căn cứDimona trong sa mạc Negev kể từ năm 1958. Người ta tin rằng
nước này đang tồn trữ 100–200 đầu đạn hạt nhân. Chính phủ Israel từ chối xác
nhận hoặc bác bỏ nguồn tin này, mặc dù điều này được xem là một sự bí mật mà ai
cũng biết sau khi được kỹ thuật gia hạt nhân của Israel, Mordechai Vanunu, tiết lộ
trên tờ Sunday Times của Anh năm 1986.
Bắc Triều Tiên đã phê
chuẩn Hiệp ước, nhưng lại rút khỏi hiệp ước ngày 10 tháng 1 năm2003, sau những cáo buộc
của Hoa Kỳ cho rằng Bắc Triều Tiên đã khởi động chương trình làm giàu urani;
khi ấy Hoa Kỳ đình chỉ việc vận chuyển dầu nhiên liệu đến Bắc Triều Tiên trong
khuôn khổ Khung Thoả thuận năm 1994 nhằm giải quyết các vấn đề vũ khí plutoni.
Ngày 10 tháng 2 năm 2005, Bắc Triều Tiên công
bố sở hữu vũ khí hạt nhân và tuyên bố rút khỏi những cuộc đàm phán sáu bên do Trung Quốc đứng ra tổ chức nhằm tìm kiếm một giải
pháp ngoại giao cho vấn đề. "Chúng tôi đã rút khỏi Hiệp ước Cấm Phổ biến
Vũ khí Hạt nhân và đã chế tạo vũ khí hạt nhân cho mục đích phòng vệ để đối phó
với chính sách trắng trợn của chính phủ Bush nhằm cô lập và bóp nghẹt nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên", lời của một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Bắc
Triều Tiên. Những cuộc đàm phán sáu bên được tái tục vào tháng 7 năm
2005, nhưng lại ngưng vào ngày 7 tháng 8 mà không có tiến bộ nào. Các bên đã
lại gặp nhau ngày 29 tháng 8.
Ngày 19 tháng 9 năm 2005, Bắc Triều Tiên tuyên bố chấp
nhận thoả ước sơ bộ, theo đó nước này sẽ huỷ bỏ các loại vũ khí hạt nhân hiện
có cũng như các cơ sở sản xuất, tái gia nhập hiệp ước và tái chấp nhận đoàn
thanh tra của IAEA. Vấn đề cung cấp lò phản ứng nước nhẹ để thay thế chương
trình nhà máy điện hạt nhân của Bắc Triều Tiên, theo Khung Thoả thuận năm 1994,
sẽ được giải quyết sau. Nhưng ngày hôm sau Bắc Triều Tiên lặp lại quan điểm cũ
của mình rằng chỉ khi nào nước này được cung cấp lò phản ứng nước nhẹ thì mới
huỷ bỏ kho hạt nhân và gia nhập hiệp ước.
Iran đã tham gia Hiệp
ước, nhưng từ năm 2004 bị Hoa Kỳ nghi ngờ vi phạm hiệp ước vì xúc tiến chương
trình phát triển vũ khí hạt nhân. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế tiến
hành điều tra. Iran cho biết chỉ muốn phát triển năng lượng hạt nhân. Đến năm
2006, một vài nước Âu châu như Anh, Pháp và Đức cũng chia sẻ với
Hoa Kỳ mối nghi ngờ về chủ đích của Iran, nhất là sau một loạt những động thái
cứng rắn của tổng thống tân cử, Mahmoud Ahmadinejad, tuyên bố rằng Israel nên
bị "xoá khỏi bản đồ".
Ngày 9 tháng 8 năm 2005, Ayatollah Ali Khamenei đã ban hành một giáo lệnh (fatwa)
cấm sản xuất, tàng trữ và sử dụng vũ khí hạt nhân. Toàn văn giáo lệnh đã được
công bố trong một tuyên bố chính thức tại một buổi họp ở trụ sở của IAEA tại Viên.
Điều X cho phép một
quốc gia rời bỏ hiệp ước khi có "những biến cố bất thường, liên quan đến
hiệp ước, gây thiệt hại cho những quyền lợi tối thượng của quốc gia này",
sau khi thông báo trong vòng ba tháng. Trong thông báo cần ghi rõ lý do rời bỏ
hiệp ước.
Các nước thuộc NATO
lập luận rằng khi một quốc gia quyết định tiến hành chiến tranh thì hiệp ước sẽ
không còn có giá trị; trong thực tế nước này sẽ rời bỏ hiệp ước mà không cần
thông báo. Lập luận này là cần thiết nhằm chống đỡ chính sách chia sẻ vũ khí
hạt nhân của NATO, nhưng lại gây hại cho tính chính đáng của hiệp ước.
Vấn đề năng lượng hạt
nhân dân dụng, khi được đem vào Thoả ước Hợp tác
Châu Á-Thái Bình Dương vì Khí hậu và Phát triển sạch (Asia-Pacific Partnership for Clean
Development and Climate) vào tháng 7 năm 2005, đã trở nên một vấn đề chính
trị nhạy cảm khi Ấn Độ, tiến hành thử nghiệm bom nguyên tử lần đầu năm 1974, từ
chối ký Hiệp ước Cấm Phổ biến Vũ khí Hạt nhân. Trước đó, ngày 18 tháng 7 năm 2005, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush,
sau khi gặp Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh,
tuyên bố sẽ vận động sửa đổi luật lệ Hoa Kỳ và quốc tế nhằm cho phép Hoa Kỳ bán
kỹ thuật hạt nhân dân dụng cho Ấn Độ. Nhiều người e ngại rằng trong khi đó Hoa
Kỳ vẫn từ chối bán kỹ thuật hạt nhân dân dụng cho Iran (có tham gia hiệp ước),
sẽ có thể gây nguy hại nghiêm trọng cho hiệp ước.
Hội nghị Thẩm định
Hiệp ước được triệu
tập 5 năm một lần. Vào Hội nghị lần thứ bảy tổ chức vào tháng 5 năm 2005, xuất
hiện những dị biệt gay gắt giữa một bên là Hoa Kỳ, muốn hội nghị tập chú vào
việc phổ biến vũ khí hạt nhân đặc biệt là những cáo buộc chống Iran, và phía
bên kia gồm hầu hết các quốc gia còn lại, muốn nhấn mạnh vào thái độ thiếu
thiện chí của các cường quốc hạt nhân trong tiến trình giải giới kho vũ khí hạt
nhân của họ. Các quốc gia phi liên kết tái khẳng định lập trường của họ cho
rằng thoả thuận chia sẻ hạt nhân của NATO là vi phạm hiệp ước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét