Theo Nghiên cứu lịch sử
http://nghiencuulichsu.com/2014/11/13/lich-su-phat-trien-cua-vu-khi-hat-nhan/
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Ngày nay, năng lượng hạt nhân là một khái niệm
không còn quá xa lạ với mỗi người. Cùng với năng lượng nhiệt hạch, năng lượng
Mặt Trời, năng lượng gió,… đây được dự đoán sẽ là một nguồn năng lượng hiệu
suất cao của tương lai nhằm thay thế cho các loại nhiên liệu hóa thạch nhằm hạn
chế lượng khí thải nhà kính, giảm lượng khói bụi,… Trong lịch sử phát triển,
năng lượng hạt nhân có nhiều ứng dụng đa dạng, từ sản xuất năng lượng, chế tạo
vũ khí thậm chí là phục vụ cho các nghiên cứu khoa học khác. Bây giờ hãy cùng
quay trở lại năm 1789 cùng với nhà hóa học người Đức, Martin Klaproth…
Phát
hiện ra các nguyên tử uranium ngoài tự nhiên
Uranium được phát hiện lần đầu tiên vào năm
1789 bởi nhà hóa học người Đức, Martin Klaproth và được đặt tên dựa theo tên
sao Thiên Vương (Uranus).
Bức xạ ion được phát hiện vào năm 1895 bởi
Wilhelm Rontgen trong thí nghiệm cho một dòng điện chạy qua một ống chân không
thủy tinh và tạo nên các tia X liên tục. Tiếp theo vào năm 1896, Henri
Becquerel phát hiện ra rằng quặng pecblen (một loại quặng khoáng sản chứa
radium và uranium) có khả năng làm tối kính ảnh. Ông đã nghiên cứu hiện tượng
trên và chứng minh được rằng đó là do bức xạ beta (electron) và các hạt alpha
(hạt nhân Heli) được phát xạ ra.
Sau đó, nhà vật lý người Pháp Paul Villard đã
phát hiện thêm 1 dạng bức xạ thứ 3 của quặng pecblen: tia gamma, loại tia tương
tự như tia X. Năm 1896, Pierre
và Marie Curie đã đặt tên “phóng xạ” (radioactivity) để diễn tả cho hiện tượng
này. 2 năm sau đó vào năm 1898, họ đã tách được Polonium và radium từ quặng
pecblen. Năm 1898, Samuel Prescott đã phát hiện ra các bức xạ có thể tiêu hủy
vi khuẩn trong thực phẩm.
Vào năm 1902, nhà vật lý học người New
Zealand, Ernest Rutherford (1871-1937) đã chứng minh được rằng phóng xạ là một
sự kiện tự phát, các hạt alpha hoặc beta phát xạ ra từ hạt nhân có thể tạo ra
nhiều nguyên tố khác nhau. Ông (cùng với Soddy) đã đưa ra thuyết phân rã phóng
xạ và chứng minh sự tạo thành heli trong quá trình phóng xạ. Ông được coi là
“cha đẻ” của vật lý hạt nhân khi đưa ra mô hình hành tinh nguyên tử và đặt cơ
sở cho các học thuyết hiện đại về cấu tạo nguyên tử sau này. Từ năm 1919, ông
làm việc tại Cambridge .
Tại đây, ông đã thực hiện thành công thí nghiệm bắn một hạt alpha vào phân tử
nito. Ông nhận thấy rằng hạt nhân Nito có sự sắp xếp lại và biến thành Oxy.
Niels Bohr (1885-1962), nhà vật lý người Đan
Mạch cũng có nhiều đóng góp cho sự hiểu biết về nguyên tử và sự phân bố của các
electron quanh hạt nhân vào những năm 1940. Bohr được trao giải thưởng Nobel
vào năm 1922 về những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu nguyên tử và cơ học
lượng tử. Ông được coi là một trong những nhà vật lý học nổi tiếng nhất trong
thế kỷ 20.
Đến năm 1911, nhà vật lý người
Anh Frederick Soddy (1877-1956) đã phát hiện ra rằng các nguyên tố phóng xạ
trong tự nhiên có một số đồng vị khác nhau (nuclit phóng xạ). Cũng trong năm
1911, nhà hóa học người Hungary George Charles de Hevesy (1885-1966) đã sử dụng
các đồng vị là nguyên tử đánh dấu để nghiên cứu về các quá trình hóa học. Trong
sự nghiệp hóa học của Hevesy cũng có một điểm thú vị khi Đức xâm chiếm Đan
Mạch, ông đã hòa tan huân chương Nobel bằng vàng của James Franck và Max von
Laue vào nước cường toan để chúng không bị rơi vào tay của phát xít. Sau khi
chiến tranh kết thúc, ông đã trở lại và dùng dung dịch cất giữ được, tìm cách
kết tủa lại lượng vàng đã bị hòa tan. Số vàng này đã đuọc giao lại cho Viên hàn
lâm khoa học Thụy Điển để họ đúc lại huân chương mới gởi tặng Franck và Laue.
Vào năm 1932, James Chadwick phát hiện ra sự
tồn tại của nơ tron. Cũng vào năm 1932, Cockcroft và Walton đã tạo ra hạt nhân
biến đổi bằng cách bắn phá nguyên tử bằng các proton được tăng tốc. Sau đó, vào
năm 1934, Irene Curie và Frederic Joliot đã phát hiện ra các biến đổi của hạt
nhân trong quá trình bắn phá đã tạo ra các đồng vị phóng xạ nhân tạo. Một năm
sau, nhà vật lý học người Ý Enrico Fermi (1901-1954) phát hiện ra rằng nếu dùng
nơ tron để bắn phá thay cho proton có thể tạo ra được nhiều đồng vi phóng xạ
nhân tạo hơn. Fermi có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển của phân rã
bêta, phát triển lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của loài người.
Vào cuối năm 1938, 2 nhà hóa học người Đức
Otto Hahn (1879-1968) và Fritz Strassmann (1902-1980), trong thí nghiệm chứng
minh phản ứng phân hạch đã chỉ ra rằng đã tạo ra được phân tử Bari có khối
lượng bằng một nửa so với khối lượng ban đầu của Uranium. Sau đó, nữ vật lý học
người Thụy Điển Lise Meitner (1878-1968) cùng cháu của bà là Otto Frisch đã
chứng minh được bản chất của quá trình phân hạch là do hạt nhân đã giữ lại các
nơ tron, các nơ tron này gây ra sự rung động mạnh trong hạt nhân khiến nó vỡ ra
thành 2 phần không bằng nhau. Đồng thời, 2 nhà nghiên cứu cũng ước tính được
rằng năng lượng giải phóng từ quá trình phân hạch hạt nhân lên tới khoảng 200
triệu Volt. Sau đó, Frisch đã tiếp tục nghiên cứu kiểm chứng và xác nhận con số
trên vào tháng 1 năm 1939.
Đồng thời, kiểm chứng của Frisch cũng đã xác
nhận dự đoán của Albert Einstein về mối liên hệ giữa khối lượng và năng lượng
công bố từ hơn 30 năm trước đó, vào năm 1905.
Khai
thác năng lượng từ phân hạch hạt nhân
Những thành công trong thí nghiệm về phân hạch
hạt nhân do Frisch cùng các nhà khoa học khác thực hiện vào năm 1939 đã gây nên
sự hấp dẫn cho nhiều nhà khoa học khác để thực hiện nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm. Trong các nghiên cứu tiếp theo do Hahn và Strassmann thực hiện đã chỉ
ra rằng, trong quá trình phân hạch hạt nhân không chỉ giải phóng rất nhiều năng
lượng mà còn sản sinh ra các nơ tron bổ sung. Các nơ tron này có thể tiếp tục
tạo nên sự phân hạch các hạt nhân uranium khác từ đó hình thành nên một phản
ứng dây chuyền tự duy trì nhằm tạo nên một nguồn năng lượng vô cùng lớn theo
cấp số nhân. Tính chất trên ngay sau đó đã được kiểm chứng và xác nhận bởi
nhiều nhà khoa học khác bao gồm Joliot cùng các đồng nghiệp tại Paris cũng như Leo Szilard và Fermi tại New York .
Ngay từ những nghiên cứu đầu tiên, Bohr đã sớm
nhận định rằng quá trình phân hạch hạt nhân gần như xảy ra trong đồng vị
urani-235 hơn so với đồng vị U-238. Đồng thời, ông cũng dự đoán rằng quá trình
phân hạt diễn ra hiệu quả hơn khi dùng các nơ tron di chuyển chậm thay vì các
nơ tron tốc độ cao. Quan điểm này sau đó đã được xác nhận bởi Szilard và Fermi,
2 nhà nghiên cứu cũng đã đề xuất sử dụng “thiết bị điều tiết” nhằm làm chậm các
nơ tron được phóng thích ra. Bohr và Wheeler sau đó đã mở rộng ý tưởng trên, từ
đó hình thành nên thành phần quan trọng nhất trong hệ thống thực hiện phản ứng
phân hạch hạt nhân. Các văn bản về nghiên cứu của Bohr được công bố chỉ 2 ngày
trước khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra vào năm 1939.
Trong giai đoạn này, các nhà
nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng đồng vị U-235 chỉ chiếm 0,7% Uranium trong tự
nhiên. 99,3% còn lại là đồng vị U-238 với tính chất hóa học tương tự. Với sự
khác biệt lớn về tỷ lệ như trên, việc tách quặng urani thiên nhiên để thu được
U-235 tinh khiết không phải là một điều đơn giản vì yêu cầu cần phải sử dụng
các phương pháp vật lý hoàn toàn khác nhau. Việc gia tăng tỷ lệ của đồng vị
U-235 chính là khái niệm “làm giàu Uranium” mà chúng ta vẫn thường được nghe
nói đến.
Một nghiên cứu khác trong sự phát triển của
năng lượng hạt nhân trong giai đoạn này chính là ý tưởng về bom phân hạch (bom
nguyên tử) do nhà vật lý người Pháp Francis Perrin (1901-1992) đưa ra vào năm
1939. Perrin là người đã đề xuất khối lượng Urani cần thiết để sản xuất một hệ
thống phân hạch hạt nhân tự duy trì và giải phóng năng lượng. Học thuyết của
Perrin đã được mở rộng bởi Rudolf Peierls tại Đại học Birmingham và các kết quả tính toán được đã
đóng góp một phần không nhỏ cho việc chế tạo bom nguyên tử sau đó.
Tại Paris, nhóm của Perrin đã
tiếp tục thực hiện nghiên cứu và chứng minh được rằng có thể thực hiện các phản
ứng tự duy trì trong môi trường nước (nhằm làm chậm các nơ tron). Việc đưa các
nơ tron từ bên ngoài vào hệ thống phản ứng cũng được thực hiện trong môi trường
nước. Đồng thời, nhóm nghiên cứu cũng đã chứng minh được rằng có thể dùng các
loại vật liệu hấp thu nơ tron nhằm kiểm soát quá trình thực hiện phản ứng hạt
nhân. Tất cả những điều trên chính là những thành phần quan trọng cho hoạt động
của một lò phản ứng hạt nhân điển hình.
Từ tháng 4 năm 1939, Nhà vật lý
học người Đức Werner Heisenberg (1901-1976) cùng học trò của mình đã bắt đầu
thực hiện dự án năng lượng hạt nhân dưới sự giám sát của Ủy ban bom mìn Đức
quốc xã. Ban đầu, dự án được khởi động với mục tiêu chế tạo vũ khí hạt nhân
nhưng đến năm 1942, dự án chính thức đóng cửa với kết luận về tính bất khả thi
khi áp dụng năng lượng hạt nhân vào trong mục đích quan sự.
Dù vậy, sự tồn tại của dự án đã thúc đẩy sự
phát triển của bom nguyên tử tại Anh và Mỹ trong thời chiến. Werner Heisenberg
được coi là một trong những nhà vật lý học nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và có đóng
góp vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên thuyết cơ học lượng tử. Werner
Heisenberg được trao tặng giải thưởng Nobel vào năm 1932 và nếu các bạn chú ý,
cái tên Heisenberg đã được nhân vật White trong phim Breaking Bad chọn làm biệt
danh cho hoạt động thế giới ngầm của mình.
Vật
lý hạt nhân không thể không kể đến sự đóng góp của Nga
Sự phát triển của vật lý hạt nhân tại Nga đã
bắt đầu nhen nhóm từ hơn 1 thập kỷ trước khi cuộc Cách mạng Bolshevik nổ ra.
Các nghiên cứu đã được thực hiện dựa trên các quặng phóng xạ được tìm thấy ở
Trung Á từ năm 1900. Năm 1909, Viện hàn lâm khoa học St Petersburg bắt đầu thực hiện những nghiên
cứu trên quy mô lớn.
Sau đó, cuộc cách mạng Nga năm 1917 đã thúc
đẩy mạnh mẽ các nghiên cứu về vật lý hạt nhân và kết quả là hơn 10 viện nghiên
cứu đã được thành lập tại các thành phố lớn ở Nga trong những năm tiếp theo.
Trong những năm 1920 và đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, nước Nga đã cô bố hàng
loạt những chính sách mới kêu gọi các nhà nghiên cứu đang hoạt động ở nước
ngoài trở về Nga nhằm nâng cao trình độ chuyên môn trong lĩnh vực vật lý hạt
nhân một cách nhanh chóng. Các nhà khoa học lớn đã hưởng ứng lời kêu gọi bao
gồm cả Kirill Sinelnikov, Pyotr Kapitsa và Vladimir Vernadsky.
Từ đầu những năm 1930, có nhiều trung tâm
nghiên cứu chuyên về vật lý hạt nhân đã đuọc thành lập và đi vào hoạt động.
Kirill Sinelnikov quay trở về từ Cambridge vào năm 1931 để thành lập một khoa
nghiên cứu hạt nhân tại Viện kỹ thuật Vật lý Ukrainian (FTI) được thành lập từ
năm 1928 tại Kharkov. Nhà vật lý nổi tiếng Abram Ioffe cũng đã thành lập một
nhóm nghiên cứu tại Viện kỹ thuật vật lý Leningrad ,
sau đó phát triển thành viện khoa học vật lý hạt nhân do Kurchatov lãnh đạo vào
năm 1933 với 4 phòng thí nghiệm riêng biệt.
Vào cuối thập kỷ, đã có nhiều máy gia tốc cộng
hưởng từ được lắp đặt tại viện nghiên cứu hạt nhân Leningrad . Đây chính là phòng thí nghiệm hạt
nhân lớn nhất châu Âu trong thời bấy giờ. Dù vậy, công việc nghiên cứu phần nào
bị gián đoạn do cuộc thanh trừng của chính quyền Stalin vào những năm 1939. Tuy
nhiên, năm 1940 đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc trong việc hiểu biết và
thực hiện các phản ứng phân hạch dây chuyền.
Sau đó là sự hình thành của “Ủy ban các vấn đề
về năng lượng hạt nhân” dưới sự chủ trì của Kurchatov vào năm 1940 đồng thời
tiến hành thăm dò, khai thác các mỏ quặng nguyên liệu hạt nhân tại Trung Á. Sau
đó, cuộc xăm lược của quân Đức vào nước Nga từ năm 1941 đã biến phần lớn nghiên
cứu này thành những ứng dụng quân sự đầy tiềm năng.
Quá
trình thai nghén những quả bom nguyên tử đầu tiên
Trong giai đoạn chiến trang, các nhà khoa học
Anh đã chịu áp lực lớn của chính phủ trong việc nghiên cứu khai thác vũ khí hạt
nhân. 2 nhà vật lý tị nạn sang Anh là Peierls và Fisch đã góp phần không nhỏ
trong việc quân sự hóa năng lượng hạt nhân với bản ghi chép nổi tiếng dài 3
trang giấy về các khái niệm chính trong hoạt động của bom nguyên tử.
Trong ghi chép, các nhà nghiên
cứu ước tính rằng 5 kg U-235 tinh khiết dùng để chế tạo bom nguyên tử có thể
tạo nên một vụ nổ tương đương với vài nghìn tấn thuốc nổ. Trong văn bản ghi
chép, nhóm 2 nhà vật lý cũng đã đề xuất cho tiết cách kích nổ một quả bom
nguyên tử, làm thế nào để tinh chế U-235 và các tác động của bức xạ sau vụ nổ
diễn ra. Bấy giờ, phương pháp được đề xuất để làm giàu U-235 từ quặng thiên
nhiên chính là biện pháp nhiệt. Chính bản ghi chép của 2 nhà nghiên cứu đã kích
thích sự phản triển của việc chế tạo bom nguyên tử không chỉ tại Anh mà còn ở
Mỹ trong những năm sau đó.
Một nhóm các nhà khoa học nổi tiếng thành lập
ủy ban mang tên MAUD tại Anh và thực hiện các nghiên cứu dưới sự giám sát bởi
các Đại học Birmingham, Bristol, Cambridge, Liverpool và Oxford. Các vấn đề về
chế tạo hợp chất khí uranium cũng như kim loại uranium tinh khiết đã được
nghiên cứu thành công tại Đại học Birmingham
và Viện công nghiệp hóa chất hoàng gia Anh (ICI). Tiến sĩ Philip Baxter tại ICI
đã điều chế thành công một lượng nhỏ khí Urunium Hexaflorua vào năm 1940. Ngay
sau đó, ICI đã nhận được một hợp đồng chính thức chế tạo 3 kg loại vật liệu này
cho các hoạt động nghiên cứu trong tương lai.
Trong giai đoạn này, Đại học Cambridge cũng đã đóng góp 2 nghiên cứu quan
trọng khác. Nghiên cứu đầu tiên đã chứng minh được rằng dây chuyền phản ứng có
thể được thực hiện trong hỗn hợp urani oxit và nước nặng nhằm làm chậm các nơ
tron, tức là các nơ trọn đầu ra nhiều hơn các nơ tron đầu vào. Nghiên cứu thứ 2
không kém phần quan trọng được thực hiện bởi Bretscher và Feather dựa trên công
trình trước đó bởi Halban và Kowarski. Khi U-235 và U-238 hấp thụ các nơ tron
chậm, khả năng thực hiện phân hạch của U-235 lớn hơn nhiều so với U-238.
Đồng thời, U-238 có nhiều khả năng tạo thành
nên một đồng vị mới là U-239, đồng vị này nhanh chóng phát xạ ra các electron
để tạo nên một nguyên tố mới có nguyên tử khối là 239 và mang số hiệu là 94
đồng thời có chu kỳ bán rã lớn hơn. Từ đó, Bretscher và Feather đã hình thành
nên lý thuyết về nguyên tố số 94 rằng nó có thể dễ dàng bị phân hạch bởi các nơ
tron chậm lẫn nơ tron nhanh. Điều này đã bổ sung thêm các lợi thế về mặt hóa
học so với uranium trong việc tách chiết từ quặng mỏ với những tính chất ưu thế
hơn.
Khám phá mới này cũng được xác nhận dựa trên
một nghiên cứu độc lập bởi nhóm 2 nhà khoa học Mỹ McMillan và Abelson vào năm
1940. Nhóm nghiên cứu tại Cambridge đã đặt tên cho các nguyên tố mới là
Neptunium số hiệu 93 và Plutonium số hiệu 94 dựa theo tên của các hành tinh Hải
Vương và Diêm Vương. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên là nhóm nghiên cứu tại Mỹ cũng
đã đề xuất các tên gọi tương tự cho 2 nguyên tố mới nói trên vào năm 1941.
Mô
hình đầu tiên được phát triển
Vào tháng 3 năm 1941, quá trình
phân hạch U-235 đầu tiên đã chính thức được kiểm chứng một cách đáng tin cậy.
Điều này đã kiểm chứng dự đoán ban đầu của Peierls và Frisch hồi năm 1940 rằng
hầu hết các sự va chạm giữa nơ tron và nguyên tử U-235 đều có kết quả là sự
phân hạch, bất kể đó là nơ tron chậm hay nhanh đều có hiệu ứng như nhau. Sau đó
trong thí nghiệm kiểm chứng, các nhà nghiên cứu đã nhận thức rõ ràng rằng những
nơ tron chậm có hiệu quả phản ứng tốt hơn nhiều. Điều này đã đóng góp rất nhiều
củng cố cho sự phát triển của các lò phản ứng hạt nhân. Dù vậy, giai đoạn này,
nghiên cứu kiểm chứng trên đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của bom nguyên tử.
Peierls tuyên bố rằng không còn nghi ngờ gì về
giả thuyết của mình khi có thể dùng U-235 tinh khiết để chế tạo bom nguyên tử.
Peierls đề xuất mô hình quả bom nguyên tử với khối U-235 nặng 8 kg được chế tạo
theo dạng hình cầu. Tuy nhiên, ông cho rằng có thể giảm được trọng lượng của
quả bom nếu dùng một loại vật liệu phản xạ nơ tron thích hợp. Tuy nhiên, các
phép đo lường thực tế để tìm ra các thông số chính xác vẫn cần được tiếp tục
nghiên cứu. Dù vậy, chính phủ Anh vẫn liên tục thúc ép cho ra đời mô hình chính
thức trong thời gian nhanh nhất.
Kết quả cuối cùng là 2 bản báo
cáo được MAUD công bố vào tháng 7 năm 1941 mang tên “Sử dụng uranium cho bom
nguyên tử” và “Sử dụng uranium như một nguồn năng lượng.” Báo cáo đầu tien chỉ
ra hoàn toàn khả thi khi chế tạo một quả bom nguyên tử nặng 12 kg với khả năng
tạo ra một vụ nổ tương đương với 1800 tấn thuốc nổ TNT và giải phóng một lượng
lớn chất phóng xạ có khả năng ảnh hưởng tại nơi xảy ra vụ nổ trong một khoảng
thời gian dài. Theo ước tính, cần phải sử dụng khoảng chi phí 5 triệu đô la mỗi
ngày và một lượng lớn lao động có kỹ năng để tạo nên 1 kg U-235 mỗi ngày. Với
lo ngại rằng người Đức cũng có thể tạo ra loại vũ khí tương tự, Anh ngay lập
tức muốn ưu tiên cộng tác với Mỹ nhằm nhanh chóng chế tạo bom nguyên tử để phục
vụ cho nhu cầu cấp thiết của chiến tranh.
Báo cáo thứ 2 của MAUD đã chỉ ra rằng hoàn
toàn có thể sử dụng nhiệt lượng để cung cấp năng lượng ban đầu cho quá trình
phân hạch trong bom nguyên tử đồng thời có thể bổ sung thêm một lượng lớn các
đồng vị phóng xạ khác để thay thế cho uranium trong phản ứng hạt nhân. Báo cáo
cũng chỉ ra rằng có thể sử dụng hỗn hợp nước nặng và than chì để kiểm soát quá
trình thực hiện phản ứng. Thậm chí có thể dùng nước thường nếu sử dụng U-235
tinh khiết. Đây chính là mô hình lò hơi uranium đầu tiên vẫn còn được sử dụng
để khai thác năng lượng nguyên tử cho đến ngày nay. Đồng thời, MAUD đã yêu cầu
Halban và Kowarski di chuyển đến Mỹ để phối hợp chế tạo nước nặng trên quy mô
lớn trong khi đó, tại Anh, Bretscher và Feather tiếp tục nghiên cứu tính khả
thi của việc sử dụng Plutonium để sử dụng cho bom nguyên tử thay thế cho U-235.
2 báo cáo trên đã định hình cho việc chế tạo
thành công bom nguyên tử cũng như các lò hơi hạt nhân. 2 báo cáo nghiên cứu
trên đồng thời đã đưa Anh lên dẫn đầu trong công nghệ năng lượng hạt nhân trong
bối cảnh bấy giờ và được gọi là “phương pháp hữu hiệu nhất từng được tồn tại để
sử dụng năng lượng hạt nhân.” Dĩ nhiên, phía Mỹ đánh giá cao thành quả nghiên
cứu của các nhà khoa học Anh, bấy giờ, các mục tiêu nghiên cứu của Viện khoa
học quốc gia Hoa Kỳ và nhiều nhà nghiên cứu đều chuyển sang theo đuổi mục tiêu
năng lượng hạt nhân.
Sau đó, việc Mỹ cần phải nhanh chóng sở hữu vũ
khí hạt nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết sau khi Nhật tấn công Trân Châu
Cảng và Mỹ chính thức tham chiến vào tháng 7 năm 1941 nhằm tạo bước ngoặc cho
cuộc chiến. Tất cả các nguồn lực của Mỹ đều dành cho việc phát triển bom nguyên
tử.
II. SỨC
MẠNH HẠT NHÂN CỦA MỸ, ANH
Dự
án Manhattan
Những người Mỹ ngày đêm lao vào nghiên cứu chế
tạo với tất cả nguồn lực và kết quả dĩ nhiên là họ nhanh chóng vượt mặt người
Anh. Công tác nghiên cứu tiếp tục được mở rộng và thường xuyên được trao đổi
giữa 2 quốc gia. Vào năm 1942, một số nhà khoa học quan trọng của Anh đã đến
thăm Hoa Kỳ và được cho phép truy cập tất cả các thông tin về công tác nghiên
cứu do Mỹ thực hiện.
Bấy giờ, phía Mỹ đang thực hiện nghiên cứu
song song 3 mô hình phản ứng hạt nhân khác nhau: giáo sư Lawrence đến từ Đại
học California đề xuất sử dụng kỹ thuật phân ly điện từ, E. V. Murphree đề xuất
phương pháp ly tâm dưới sự đóng góp của giáo sư Beams, và cuối cùng là phương
pháp phối hợp khuếch tán khí được nghiên cứu bởi giáo sư Urey đến từ Đại học
Columbia. Đồng thời, trách nhiệm nghiên cứu xây dựng lò phản ứng hạt nhân phân
hạch Plutonium được trao cho Arthur Compton tại Đại học Chicago . Phía các nhà khoa học Anh chỉ chú ý
đến khả năng sử dụng phương pháp khuyếch tán khí.
Vào tháng 6 năm 1942, quân đội
Mỹ đã thực hiện phát triển, thiết kế mô hình, thu mua vật liệu và lựa chọn mạng
lưới các nhà máy để thực hiện thí điểm cả 4 phương pháp do các nhà khoa học đề
xuất nhằm sản xuất nước nặng quy mô lớn (do vẫn chưa có nghiên cứu nào chính
minh được tính khả thi và hoàn toàn vượt trội). Điều này đã đã gây không ít trở
ngại cho các nhà khoa học Anh và Canada vốn đang đồng nghiên cứu một
số khía cạnh trong quá trình sản xuất nước nặng. Sau đó, thủ tướng Anh đương
thời là Churchill đã đề xuất những thông tin về chi phí xây dựng một nhà máy
nước nặng, một lò phản ứng hạt nhân tại Anh.
Sau nhiều tháng đàm phán, 1 thỏa thuận đã được
Churchill ký kết với tổng thống Mỹ Roosevelt tại Quebec vào tháng 8 năm 1943. Theo đó, người
Anh trao toàn bộ các báo cáo về nghiên cứu hạt nhân của họ cho Mỹ, đổi lại, Anh
sẽ nhận được một bản sao báo cáo tiến độ trong nghiên cứu vũ khí hạt nhân của
tướng Groves. Các báo cáo tiếp theo cho thấy Mỹ đã chi số tiền khổng lồ lên tới
1000 triệu đô la chỉ riêng cho bom nguyên tử mà không hề có một ứng dụng nào
khác.
Vào tháng 12 năm 1942, Fermi đã
thực hiện một thử nghiệm dùng than chì để điều khiển quá trình thực hiện phản
ứng hạt nhân tại Đại học Chicago .
Sự thành công của thí nghiệm đã đánh dấu lần đầu tiên có thể kiểm soát được
phản ứng hạt nhân dây chuyền.
Đồng thời, một lò phản ứng phân hạch plutonium
đã được xây dựng tại Argonne, tiếp theo đó là các lò khác tại Oak
Ridge và Hanford
cùng với một nhà máy khác được xây dựng có thêm chu trình tái trích xuất
plutonium. Bên cạnh đó, 4 nhà máy sản xuất nước nặng đã được xây dựng, 1 tại
Canada và 3 nhà máy còn lại tại Mỹ. Giám đốc dự án Manhattan, nhà vật lý Robert
Oppenheimer đã chủ trì nhóm nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm bí mật ở Los
Alamos, New Mexico nhằm thiết kế và chế tạo cả bom U-235 lẫn Pu-239. Kết quả
của tất cả những nỗ lực nghiên cứu, cùng với sự đóng góp của các nhà nghiên cứu
Anh, một lượng lớn U-235 và Pu-239 với độ tinh khiết cao đã được làm giàu thành
công. Phần lớn lượng quặng urani đều có nguồn gốc từ Congo .
Thiết bị hạt nhân đầu tiên được thử nghiệm
thành công tại Alamagodro, bang New
Mexico vào ngày 16 tháng 7 năm 1945. Thiết bị đã sử
dụng plutonium tạo ra trong một ống hạt nhân. Nhóm quyết định không cần thử
nghiệm mô hình bom U-235 do nguyên lý hoạt động đơn giản hơn. Quả bom nguyên tử
đầu tiên, chứa U-235, đã được thả xuống HIroshima
vào ngày 6 tháng 8 năm 1945. Quả bom thứ 2, chứa Pu-239, đã được thả xuống Nagasaki vào ngày 9 tháng
8 cùng năm. Cùng ngày hôm đó, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và cuối cùng,
ngày 10 tháng 8 năm 1945, chính phủ Nhật Bản đầu hàng.
III. SỨC
MẠNH HẠT NHÂN CỦA LIÊN XÔ
Ban đầu, Stalin không dành nhiều sự chú ý để
tập trung phát triển vũ khí hạt nhân cũng như bom nguyên tử cho đến khi có tin
tình báo về hoạt động nghiên cứu của Đức, Anh và Mỹ. Vào năm 1942, cùng sự tham
vấn của các tướng lĩnh, cuối cùng Stalin chấp nhận phát triển loại vũ khí hạt
nhân với ước tính thời gian không quá dài và không tốn nhiều nguồn lực. Igor
Kurchatov, một nhà nghiên cứu trẻ tuổi và chưa được biết đến đã được chọn để
theo đuổi dự án vào năm 1943 và trở thành giám đốc phòng thí nghiệm số 2 thành
lập tại vùng ngoại ô Moscow .
Sau đó, phòng thí nghiệm được đổi tên thành Viện năng lượng nguyên tử Kurchatov
với trách nhiệm tổng thể là nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử.
Nghiên cứu được thực hiện trên 3 phương diện
chính: kiểm soát được phản ứng dây chuyền, tìm phương pháp tách đồng vị và
thiết kế nên các quả bom từ Uranium và plutonium đã được làm giàu. Các nỗ lực
ban đầu đã chế tạo thành công dây chuyền phản ứng dùng các thanh graphite và
nước nặng để điều tiết phản ứng. Các phương pháp tách đồng vị được thử nghiệm
bao gồm: khuyếch tán nhiệt, khuyếch tán khí và tách điện từ.
Sau khi phát xít đầu hàng vào
tháng 5 năm 1945, các nhà khoa học Đức đã được tuyển dụng để trong chương trình
chế tạo bom nguyên tử nhằm tìm cách hữu hiệu để tách các đồng vị trong quá
trình làm giàu uranium. Ngoài 3 phương pháp được nghiên cứu trước đó, các nhà
khoa học đã đề xuất thêm phương pháp tách ly tâm trong quá trình làm giàu
uranium. Tuy nhiên, sau thử nghiệm thành công bom nguyên tử của Mỹ vào tháng 7
năm 1945 đã ít nhiều ảnh hưởng đến các nỗ lực của Liên Xô. Bấy giờ, Kurchatov
vẫn đang trên một tiến độ khá lạc quan với việc chế tạo bom uranium và
Plutonium. Ông bắt đầu thiết kế một lò phản ứng sản xuất plutonium quy mô công
nghiệp trong khi các nhà khoa học khác nghiên cứu tách đồng vị U-235 dựa trên
các tiến bộ của phương pháp khuyếch tán khí.
Dựa trên các thành công của công nghệ làm giàu
uranium từ năm 1945, Liên Xô quyết định xây dựng các nhà máy làm giàu công nghệ
khuyếch tán khí đầu tiên tại Verkh-Neyvinsk cách Yekaterinburg 50 km. Sau đó,
cục thiết kế vũ khí hạt nhân và hàng loạt các nhà máy được xây dựng và được sự
hỗ trợ của nhiều nhà khoa học của Nga lẫn Đức. Vào tháng 4 năm 1946, công việc
thiết kế bom đã được chuyển đến cục thiết kế 11 có trụ sở cách Moscow 400 km.
Nhiều chuyên gia đã được chỉ thị tham gia chương trình bao gồm cả nhà luyện kim
Yefim Slavsky với nhiệm vụ là ngay lập tức chế tạo than chì tinh khiết để làm
công cụ điều tiết trong lò phản ứng hạt nhân. Các thanh điều tiết đầu tiên đã
được chính thức sử dụng vào tháng 12 năm 1946 tại phòng thí nghiệm số 2 và số 3
tại Moscow (hiện nay là viện vật lý học thực nghiệm).
Dựa trên các thông tin tình báo, nghiên cứu
quả bom tại Nagasaki kết hợp với các nghiên cứu trước đó, cuối cùng vào tháng 8
năm 1947, một mô hình quả bom thử nghiệm đã được thiết lập tại Semipalatinsk
Kazakhstan và sẵn sàng cho một vụ nổ thử nghiệm. Tuy nhiên, 2 năm sau đó, quả
bom đầu tiên mang tên RSD-1 chính thức được thử nghiệm tại đây. Dù vậy, ngay từ
tháng 8 năm 1949, nhóm các nhà khoa học lãnh đạo vởi Igor Tamm và cả Andrei
Sakharov đã bắt đầu thực hiện các nghiên cứu nhằm chế tạo ra thế hệ tiếp theo:
bom hydro.
IV.
SỨC MẠNH HẠT NHÂN CỦA PHÁP
Ít
ai biết rằng, nước Pháp – đồng minh thân cận của Mỹ, trong chương trình phát
triển hạt nhân gần như phải “tự lực cánh sinh” 100%.
Ngày
13/2/1960, thiết bị phân hạch AN-11 phát nổ ở Sahara đã đưa Pháp thành quốc gia
thứ 4 sở hữu vũ khí hạt nhân, 8 năm sau họ thử nghiệm thành công vũ khí nhiệt
hạch. Hiện tại, ước tính Paris
đang có trong kho dự trữ hơn 400 vũ khí nhiệt hạch, không bao gồm vũ khí chiến
thuật. Đáng chú ý là việc phát triển khả năng hạt nhân của Pháp không có sự
giúp đỡ của các đồng minh.
1. Bị Mỹ quay lưng
Người
Pháp đã có một vai trò quan trọng trong việc mở ra “Kỷ nguyên Hạt nhân” với
những nhà khoa học vĩ đại tiên phong như Henri Becquerel, Pierre và Marie
Curie…Tuy nhiên, sau chiến tranh Thế giới 2, nước Pháp lại tỏ ra tụt hậu so với
Mỹ, Liên Xô, Anh và thậm trí là Canada trong lĩnh vực này. Nguyên nhân bởi các
nghiên cứu đã bị gián đoạn khi nước Pháp “nằm dưới gót giày” của quân phát xít
Đức và quan trọng hơn là sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa Paris và
Washington vào những năm 1950.
Thời
điểm đó, chính quyền của Tướng de Gaulle không được lòng người Mỹ. Hệ quả là
trong khi Mỹ đã giúp đỡ Vương quốc Anh trong việc chế tạo bom hạt nhân thì Pháp
phải làm lại mọi thứ từ đầu. Sau thất bại đau đớn tại Điện Biên Phủ năm 1954,
nước Pháp đặt hi vọng vào chương trình hạt nhân để khôi phục lại danh dự cho
quốc gia. Ngày 26/12/1954, Thủ tướng Pierre
Mendes France
đã nhóm họp nội các và đưa ra quyết định phải có bằng được bom nguyên tử.
Tuy
vào năm 1959, Lầu Năm Góc có hỗ trợ cho ngành công nghiệp quốc phòng Pháp 440kg
Uranium làm giàu cao, nhưng số vật liệu này chỉ đủ cho một vài cuộc thử nghiệm
mặt đất trong khi Pháp muốn hướng tới chế tạo vũ khí hạt nhân trang bị cho tàu
ngầm.
Để
có đủ số nhiên liệu hạt nhân trang bị cho tàu ngầm và chế đạo đầu đạn cho các
tên lửa, năm 1960, Pháp xây dựng một nhà máy làm giàu Uranium theo công nghệ
khuếch tán khí mang tên Pierrelatte.
Cơ
sở thử nghiệm đầu tiên cũng được hình thành ở Reggane, một ốc đảo nằm giữa đại
sa mạc Sahara trong lãnh thổ Algeria .
Đây là một khu vực thuận lợi vì có sân bay quân sự và không gian rộng lớn giúp
tiêu tán các sản phẩm phóng xạ. Tại Reggane và In Eker cùng thuộc Algeria, Pháp
đã thực hiện tổng cộng 17 vụ thử hạt nhân tai đây (4 trên mặt đất, 13 dưới lòng
đất) cho tới năm 1966. Paris còn có một “bãi thử” lớn hơn tại quốc đảo
Polynesia ở Thái Bình Dương, nơi đây đã diễn ra 193 vụ thử, trong đó có cả vũ
khí nhiệt hạch. Hiện nay, Pháp thử hạt nhân trên các…siêu máy tính.
2. Tàu ngầm hạt nhân
Chính
vì không có được sự trợ giúp trong chương trình phát triển vũ khí hạt nhân từ
Mỹ nên dù có ý tưởng về phát triển tàu ngầm hạt nhân mang phóng tên lửa đạn từ
năm 1957 nhưng Pháp phải mất 6 năm mới hiện thực hóa. Con tàu đầu tiên thuộc
lớp Redoutable hạ thủy năm 1967 và chính thức biên chế 2 năm sau đó.
Redoutable lớn hơn so với tàu ngầm cùng loại đầu tiên của Mỹ
George Washington. Nguyên nhân chủ yếu cho việc này là người Pháp muốn có một
tàu ngầm “thân thiện” tối đa với thủy thủ đoàn 126 người. Các khoảng không gian
bên trong tàu khá lớn và thoải mái cho các hoạt động. Điều hòa nhiệt độ được
gắn ở mọi chỗ và các sĩ quan có khoang riêng biệt của mình. Việc sử dụng nước
ngọt không bị giới hạn, thậm trí không bị cấm hút thuốc. Một lợi thế quý giá
của tàu ngầm Pháp là nó có độ ồn thấp.
Chiếc
cuối cùng thuộc lớp tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Pháp là L’Inflexible đi vào
phục vụ năm 1985. L’Inflexible mang nhiều đặc điểm vượt trội, vì vậy sau đó Hải
quân Pháo đã nâng cấp những chiếc tàu trước đó theo chuẩn “L’Inflexible”.
Ngày
nay, 6 tàu ngầm Redoutable/ L’Inflexible đã được thay thế bằng 4 tàu ngầm hạt
nhân chiến lược lớp Triomphant, chế tạo trong giai đoạn 1986-2009. Đây cũng là
tàu ngầm hạt nhân hàng đầu Tây Âu vào thời điểm này.
Trong mọi thời điểm luôn có ít
nhất một chiếc Triomphant tuần tra ngoài Đại Tây Dương. Ngoài ra, Pháp còn duy
trì một lực lượng 6 tàu ngầm Rubis – lớp tàu ngầm hạt nhân nhỏ nhất thế giới
với lượng giãn nước 2.600 tấn, trang bị 4 ống phóng ngư lôi 533mm.
V.
TRUNG QUỐC
Ngay từ những năm đầu thành lập nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị
nước này đã ý thức rằng, Trung Quốc cần phải có một lực lượng vũ
trang mạnh với vũ khí hiện đại, bao gồm vũ khí hạt nhân.
Mao Trạch Đông từng tuyên bố: “Trong thế
giới ngày nay chúng tôi không thể bằng lòng khi không có nó (vũ khí hạt
nhân)…, thế giới phương Tây tỏ thái độ coi thường Trung Quốc bởi vì
chúng tôi không có bom nguyên tử, chỉ có lựu đạn”.
Để thực hiện tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân,
đầu năm 1950, Trung Quốc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Tiền Tam Cường
trở thành Phó Giám đốc đầu tiên của Viện này. Ông này được coi là cha
đẻ của bom nguyên tử Trung Quốc.
Vậy, Tiền Tam Cường là ai? mùa hè năm 1937,
Tiền Tam Cường được Bắc Kinh đưa đi nghiên cứu sinh ở Viện radium, ĐH Paris. Sự
nghiệp nghiên cứu khoa học của ông được nhà khoa học Frederic Joliot-Curie dẫn
dắt.
Năm 1940, Tiền Tam Cường đã bảo vệ thành
công luận án của mình và tiếp tục làm việc ở Pháp. Từ những thành
tích xuất sắc của mình, năm 1947, nhà khoa học này đã được trao giải
thưởng của Viện Hàn Lâm Khoa học Pháp. Năm sau ông trở về Trung Quốc.
Ngoài Tiền Tam Cường, dự án phát triển
hạt nhân của Trung Quốc cũng có sự tham gia của hàng trăm nhân tài hoa
kiều. Trong số họ phải kể đến hai nhà vật lý Ganpan Wang và Zhao Zhongyang
từ ĐH Illionois, sau nhiều năm sinh sống ở nước ngoài đã có mặt tại
Trung Quốc trong thời kỳ đầu của dự án phát triển hạt nhân. Chính họ
đã mang rất nhiều bí mật hạt nhân và những kinh nghiệm đúc rút từ
thực tế ở nước ngoài về cho quê hương.
Mùa xuân năm 1953, đoàn đại biểu của Viện
hàn lâm Khoa học Trung Quốc có chuyến “công du” đến Liên Xô để mở rộng
kiến thức về công nghệ hạt nhân.
Chuẩn bị đón đoàn khách Trung Quốc, Chủ
tịch Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô, Viện sĩ Alexamder Nesmeyanov đã
khuyên các cơ quan có thẩm quyền phải cận trọng khi làm việc với phái
đoàn Trung Quốc và Tiền Tam Cường, chỉ giới thiệu một số công trình khoa
học có tính chất chung chung mà không giới thiệu vấn đề định hướng.
Tháng 10/1954, lần đầu tiên Mao Trạch Đông
đề nghị Moscow
giúp Bắc Kinh chế tạo vũ khí hạt nhân nhân dịp Nikita Khushchev viếng
thăm Bắc Kinh. Khi đó, Khushchev đã không đưa ra bất kỳ lời hứa đảm bảo
nào, hơn nữa Nikita Khushchev còn khuyên Mao Trạch Đông nên từ bỏ dự án
hạt nhân vì Trung Quốc chưa có nền tảng khoa học kỹ thuật, công nghiệp
và tiềm lực kinh tế cần thiết.
Cũng trong thời gian ấy, niềm tin của
các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc về sự cần thiết
sở hữu vũ khí hạt nhân ngày càng lên cao, nhất là trong bối cảnh nước này
tham gia cuộc chiến ở Triều Tiên (1950-1953) và xung đột Trung – Mỹ leo
thang ở eo biển Đài Loan (năm 1958).
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận
thức mối đe dọa từ phía Mỹ khi họ có thể sử dụng bom nguyên tử, chính vì
thế, tại cuộc họp mở rộng của ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
ngày 15/1/1955, Mao Trạch Đông đã đưa ra chỉ thị: Trung Quốc phải phát triển
bom nguyên tử với sự giúp đỡ của Liên Xô hoặc là không có sự tham gia của Liên
Xô.
Nhằm tăng cường nguồn tài nguyên uranium thô
(sẽ nhận được theo cam kết từ phía Trung Quốc trong trao đổi để giúp đỡ về việc
thăm dò uranium) ngày 20/1/1955, Liên Xô nhất trí ký thỏa thuận với Trung Quốc
về kế hoạch cùng nhau nghiên cứu địa chất ở Tân Cương và phát triển mỏ uranium.
Việc tìm kiếm mỏ uranium, ngoài sự tham gia
của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc còn có một số nhà khoa học đến từ Đông
Âu. Địa điểm đầu tiên tìm thấy nguồn trữ lượng uranium là ở khu vực Tây – Bắc
Trung Quốc (Tân Cương) và nơi đây cũng đã bắt đầu triển khai công tác khai thác
mỏ từ năm 1957.
Tiếp theo, ngày 7/4/1956, hai bên đã ký một
thỏa thuận. Theo đó, Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ để xây dựng các công trình
dân sinh và quân sự, gồm tuyến đường sắt từ Aktoga đến Lanzhuo (Lan Châu) để
chuyên chở các trang thiết bị của Trung tâm thử nghiệm vũ khí nguyên tử đầu
tiên ở Lop Nor.
Mùa đông 1956, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết
định “phát triển năng lượng hạt nhân”. Trong dự án này có hai lĩnh vực cơ bản,
chế tạo tên lửa chiến lược và vũ khí nguyên tử. Từ năm 1956-1967, tất cả các
tinh hoa của nền khoa họcTrung Quốc và hơn 600 nhà khoa học Liên Xô đã làm việc
theo kế hoạch phát triển khoa học đầy tham vọng này.
Kế hoạch này gồm phát triển ứng dụng năng
lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, nghiên cứu công nghệ phản lực, chế tạo
công nghệ bán dẫn và phát triển máy tính …Để thực hiện những kế hoạch này, Bắc
Kinh yêu cầu Liên Xô và các nước “hỗ trợ một cách toàn diện và nhanh chóng”.
Ngoài ra, thời gian đó, Liên Xô đã cam kết xây
dựng hàng trăm nhà máy công nghiệp Quốc phòng ở Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà
Bắc Kinh muốn Liên Xô giúp đỡ đầu tiên đó là việc phát triển trong lĩnh vực hạt
nhân và quốc phòng. Tình hình bất ổn ở Ba Lan và Hungary xảy ra năm 1956 cũng
khiến cho Khrushchev rất cần sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc về mặt chính trị, do
đó đã quyết định mở rộng hợp tác với Trung Quốc. Trước đó Khrushchev vừa trải
qua cuộc “sàng lọc” nội bộ với Molotov và những người thân cận, chính vì thế
Khrushchev muốn Mao có mặt trong Đại hội Đảng Cộng Sản tại Moscow năm 1957. Khrushchev muốn thành công
trong quan hệ với Trung quốc để tăng cường vị thế của mình ở Liên Xô, và nhà
lãnh đạo Trung Quốc đã rất khôn khéo sử dụng tình thế này. Mao tuyên bố sẽ đến
Liên Xô chỉ sau khi ký kết thỏa thuận kỹ thuật – quân sự, bao gồm cả việc
chuyển giao nguyên liệu và mô hình để Trung quốc sản xuất vũ khí nguyên tử. Vì
thế, ngày 15/10/1957, Trung – Xô đã đặt bút ký thỏa thuận chuyển giao công nghệ
sản xuất vũ khí hạt nhân cho Trung Quốc. Moscow
chỉ từ chối chuyển giao các tài liệu liên quan đến xây dựng tầu ngầm hạt nhân.
Theo phương tiện truyền thông Trung Quốc, khi
đó Liên Xô cũng đã cung cấp hai mẫu tên lửa tầm ngắn đất đối đất cho phía Trung
Quốc. Đây là cách mà người Trung Quốc đạt được mục đích tiếp cận với công nghệ
chế tạo vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Cũng từ đó, bắt đầu từ năm 1958, Trung
Quốc sẽ là nơi đến của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Trong giai đoạn
1950-1960, đã có khoảng 10.000 các chuyên gia ngành công nghiệp hạt nhân Liên
Xô đến làm việc tại Trung Quốc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, đã lựa
chọn, xây dựng bãi thử nghiệm hạt nhân Lop Nor.
Vào tháng 9/1958, các nhà khoa học Liên Xô đã
giúp đỡ để khởi động lò phản ứng thí nghiệm hạt nhân nước nặng đầu tiên của
Trung Quốc và xây dựng máy gia tốc thực nghiệm. Đồng thời Liên Xô đã tiếp nhận
và đào tạo 11.000 chuyên gia và 1.000 nhà bác học cho Trung Quốc.
Phải nói rằng, Khrushchev không
nghi ngờ về quyết định trang bị vũ khí nguyên tử cho Trung Quốc. Tuy nhiên, các
nhà khoa học Liên Xô, theo hồi ký của Viện sĩ hàn lâm Abram Loffe, đã cố tình
“phá hoại” các quyết định này. Họ chỉ muốn chuyển cho người Trung Quốc những dự
án cũ nhằm mục đích làm chậm chương trình hạt nhân này.
Cố vấn Liên Xô về vấn đề hạt
nhân cho Chính phủ Trung Quốc, ông Zadikyan đã phát hiện được sự việc này và
báo cáo lên cấp trên. Kết quả là Liên Xô đã chuyển giao công nghệ hạt nhân tiên
tiến nhất và gây ra “khoảng cách” đầu tiên trong quan hệ Liên Xô – Trung Quốc.
Năm 1958, lại một lần nữa Bắc
Kinh yêu cầu Liên Xô giúp đỡ để phát triển một hải quân hiện đại được trang bị
tàu ngầm hạt nhân. Tại cuộc họp với Mao Trạch Đông diễn ra ở Bắc Kinh (ngày
1/7/1958), đại sứ Liên Xô ở Trung Quốc, Paul Yudin cho biết, vấn đề này đã được
thảo luận ở Moscow nhưng việc xây dựng hạm đội tàu ngầm hiện đại là một việc
hoàn toàn mới và rất đắt tiền, ngay cả với Liên Xô.
Đại sứ nói thêm rằng, ở Liên Xô
đưa ra một phương án khả thi và mong muốn xây dựng một lực lượng hải quân liên
minh hiện đại với Trung Quốc. Đại sứ còn cho biết, bờ biển bao bọc Trung Quốc
là vị trí cực kỳ quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động lực lượng Hải
quân ở khu vực Thái Bình Dương.
Ngày hôm sau, đại sứ Yudin đã
được mời tham dự cuộc họp với Mao Chủ tịch cùng các ủy viên Bộ chính trị Trung
Quốc. Tại đây, Mao Trạch Đông nói rằng, Bắc Kinh sẽ không thành lập căn cứ hải
quân của Liên Xô trong thời bình, ông mời liên minh để hỗ trợ việc xây dựng hạm
đội mà “chúng ta sẽ làm chủ” và như thế là đề xuất việc viếng thăm Moscow của
Chu n Lai và Bành Đức Hoài bị từ chối. Kéo theo đó, kế hoạch phát triển hạm đội
chung bị “đóng băng”.
Sau này, Moscow bắt đầu đặt câu hỏi về một số kiểm
soát của Liên Xô đối với ngành công nghiệp hạt nhân và lực lượng vũ trang Trung
Quốc. Ngày 31/7/1958, Khrushchev đến Bắc Kinh và gặp Mao Trạch Đông. Trong cuộc
hội đàm Khrushchev đưa ra lời khuyên, bom nguyên tử đối với Trung Quốc không
phải là quá cần thiết, bởi Liên Xô sẽ sẵn sàng bảo vệ “hàng xóm” như “chính bản
thân mình”. Thế nhưng Mao đã khẳng định, Trung Quốc là nước rộng lớn, độc lập
và có chủ quyền. Do đó cần phải có vũ khí hạt nhân để tự bảo vệ mình trong trường
hợp có chiến tranh. Ngoài ra, Mao đòi Liên Xô chuẩn bị chuyển giao vũ khí hạt
nhân hoặc công nghệ để chế tạo bom nguyên tử cho Trung Quốc.
Nhằm dàn xếp các bất đồng, vào
mùa hè năm 1958, Mao và Khrushchev gặp nhau một lần nữa. Trong cuộc gặp này, các
nhà lãnh đạo Liên Xô cố gắng khai thông ý tưởng phát triển hạm đội chung và căn
cứ cho các tàu ngầm của Liên Xô ở Trung Quốc. Thế nhưng, Mao Trạch Đông không
đồng ý vì “trong quá khứ, đã nhiều năm Trung Quốc bị người Anh và một số nước
khác chiếm đóng”.
Mao khẳng định, khi có
chiến tranh, Bắc Kinh sẽ sẵn sàng cung cấp hạ tầng cơ sở ven biển, lãnh thổ của
mình cho các lực lượng vũ trang Liên Xô, tuy nhiên, việc điều hành trực tiếp
trên lãnh thổ Trung Quốc phải do người Trung Quốc. Ngoài ra, Mao còn đưa ra
điều kiện, nếu có chiến tranh, Quân đội Trung Quốc có quyền hoạt động trên lãnh
thổ Liên Xô, gồm cả Vladivostok .
Đến mùa hè năm 1959, mọi việc đã trở nên quá rõ ràng, Moscow không chuyển giao
cho Bắc Kinh công nghệ đầy đủ để chế tạo bom nguyên tử. Thủ tướng Chu n Lai đã tuyên bố, trong 8 năm Trung quốc sẽ tự chế
tạo bom nguyên tử mà không cần bất cứ trợ giúp nào?
Những năm đầu 1960, Liên Xô rút
1.292 chuyên gia từ Trung Quốc, làm cho Bắc Kinh có phần lúng túng. Thế nhưng
6.000 chuyên gia của Trung Quốc do Liên Xô giúp đỡ đào tạo đã phần nào lấp được
khoảng trống đó. Dù từ năm 1960, quan hệ Trung – Xô xấu đi nhưng Bắc Kinh vẫn
không từ bỏ tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân.
Năm năm sau (thay vì kế hoạch 8
năm), ngày 16/10/1964, Chu n Lai thay mặt Mao
Trạch Đông thông báo với nhân dân Trung Quốc về thành công của cuộc thử nghiệm
quả bom nguyên tử đầu tiên (dự án 595).
Cuộc thử nghiệm đã được diễn ra
ở bãi thử hạt nhân Lop Nor (gần hồ Lop Nor). Quả bom có đương lượng nổ 22 kT,
sử dụng Uran-235. Theo tính toán của các chuyên gia phương Tây, chi phí của
chương trình bom nguyên tử này lên đến 4,1 tỷ USD. Sau thử nghiệm, Trung quốc
chính thức trở thành quốc gia thứ năm trên thế giới sở hữu vũ khí hạt nhân, sau
Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp. Sau vụ thử nghiệm, Bắc Kinh tuyên bố học thuyết
“không sử dụng vũ khí hạt nhân trước”. Dù vậy, Bắc Kinh vẫn ưu tiên sản xuất vũ
khí nhiệt hạch, tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom chiến lược.
Ngày 14/5/1965, lần đầu tiên
Trung quốc thử nghiệm bom nguyên tử thả từ máy bay. Đến tháng 10/1966, Trung
Quốc khởi động lò phản ứng hạt nhân ở Chzhuvan để sản xuất plutonium. Vào mùa
xuân năm 1967 bắt đầu hoàn thiện thiết bị nhiệt hạch đầu tiên.
Ngày 17/6/1967, Trung Quốc tiến
hành thử nghiệm thành công bom nhiệt hạch đầu tiên chế tạo từ Uran-235,
Uran-238, Li-6 và hidro nặng. Vụ nổ được tiến hành ở bãi thử Lop Nor với công
suất 3,3 MT. Quả bom nhiệt hạch được thả xuống từ máy bay ném bom H-6 (bản sao
của Tu-16, Liên Xô) từ độ cao 2.960 m. Sau sự kiện này, Trung Quốc trở thành
quốc gia thứ tư sở hữu bom nhiệt hạch, sau Mỹ, Liên Xô và Anh. Đến ngày
27/12/1968, Trung Quốc thử nghiệm đầu đạn nhiệt hạch chế tạo từ plutonium. Ngày
23/9/1969, Trung quốc thử nghiệm vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất. Cũng trong thời
gian này, Trung quốc bắt đầu triển khai máy bay ném bom mang vũ khí hạt nhân.
VI
. CCÁC QUỐC GIA KHÁC
1/ Ấn Độ và Pakistan
Năm 1974, Ấn Độ đã làm chấn động thế giới khi
thử nghiệm thành công một “dụng cụ” nguyên tử dưới lòng đất với sức nổ tương
đối nhỏ. Nhưng đó chưa phải là một trái bom nguyên tử đúng nghĩa. Phải chờ tới
ngày 11/5/1998, Ấn Độ cho nổ 3 trái bom và ngay ngày hôm sau cho nổ tiếp 2 quả
bom.
Ngay lập tức, Pakistan , một quốc gia thù nghịch
của Ấn Độ, liền chứng tỏ khả năng nguyên tử của mình với 6 vụ nổ nguyên tử
thành công mỹ mãn.
Chương trình hạt nhân của Pakistan bắt đầu từ
thập niên 70 thế kỷ XX, và chính thức được khởi động trong cuộc chiến với Ấn Độ
năm 1971 và vụ thử đầu tiên diễn ra vào năm 1974. Vào thời kỳ đó, Ấn Độ là quốc
gia thân khối Xôviết trong khi Pakistan
theo Mỹ. Do vậy, Islamabad
khởi động một chương trình nguyên tử để cạnh tranh với quốc gia láng giềng Ấn
Độ, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Mỹ.
Quả bom nguyên tử của Pakistan được cho là có
vai trò trong việc ngăn cản tầm ảnh hưởng của Liên bang Xôviết nhất là sau khi
diễn ra cuộc nội chiến tại Afghanistan năm 1979 (giữa các lực lượng quân sự
Xôviết ủng hộ chính phủ của đảng Dân chủ nhân dân Afghanistan (PDPA) Mácxít
chống lại lực lượng Mujahideen Afghanistan chiến đấu để lật đổ chính quyền cộng
sản.
Liên bang Xôviết ủng hộ chính phủ trong khi
phe đối lập nhận được sự ủng hộ từ nhiều phía gồm Mỹ , Pakistan
và các quốc gia Hồi giáo khác trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh).
Vào thập niên 60 trong giai đoạn của chủ
nghĩa xét lại, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa tách khỏi khối Xôviết, để
trang bị cho mình một chính sách ngoại giao riêng. Do vậy, Trung Quốc và phương
Tây khi đó có nhiều quan điểm đồng nhất.
Trong bối cảnh đó, Bắc Kinh và Islamabad liên
minh trong vấn đề về Kashmire, nơi mà cả Pakistan và Trung Quốc đều đòi một
phần chủ quyền trước Ấn Độ. Chính vì thế, việc cả Ấn Độ, Trung Quốc và Pakistan
đều sở hữu vũ khí nguyên tử lại cho phép tạo được thế cân bằng tại khu vực này.
Cha đẻ của quả bom nguyên tử đầu tiên của
Pakistan là Giáo sư Abdul Qadeer Khan, người được các phương tiện truyền thông
phương Tây giới thiệu hiện nay như là một nhà bác học điên cuồng. Khan được đào
tạo năm 1976 tại Almelo
(thuộc Tập đoàn nguyên tử Urenco có trụ sở tại Đức, Bỉ và Hà Lan). Lò phản ứng
Kahuta, viên gạch đầu tiên của chương trình hạt nhân Pakistan, được xây dựng
năm 1979 với sự trợ giúp của Trung Quốc và Pháp, và đi vào hoạt động năm 1984.
Theo các phương tiện truyền thông thì sơ đồ
xây dựng lò phản ứng Kahuta đã bị Khan đánh cắp, trong khi trên thực tế, đây là
những bản thiết kế do Tập đoàn Urenco phụ trách và đã bí mật giao cho chính
quyền Pakistan thời đó sau khi được Mỹ phê chuẩn.
Từ sau khi quân đội Xôviết tràn vào thủ đô
Kabul để bảo vệ chính quyền PDPA, Mỹ đã ủy quyền cho Trung Quốc việc chuyển
giao các bản thiết kế vũ khí nguyên tử cho Pakistan để bảo vệ nước này. Nhưng
đến năm 1985, Washington Post cho rằng có thể Pakistan đã sở hữu một quả bom
nguyên tử, nhưng lại không phải do nước này chế tạo.
Sau đó Pakistan tiếp tục phát triển khả
năng làm giàu uranium với nhà máy ly tâm tại Dera Ghaza Khan.
Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng thống Zulfikar
Ali Bhutto năm 1977, tướng Zia ul Haq (1977-1988) lại nhận được sự trợ giúp
nhiều hơn từ Washington vì Mỹ coi Pakistan dưới
thời Zia ul Haq là đồng minh tốt nhất ngoài khối NATO. Nhờ đó kể từ năm 1986, Pakistan tiếp
tục chế tạo bom nguyên tử.
Năm 1988, Tổng thống Ghulam Ishaq Khan và Thủ
tướng Benazir Buttho lên nắm quyền điều hành một đất nước Pakistan đã trở nên
vô dụng sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Năm 1990, khoản tài trợ 574 triệu
USD hàng năm của Mỹ cho Pakistan
bị cúp.
Nhưng lo sợ về việc Pakistan
để lộ kỹ thuật chế tạo bom hạt nhân cho các quốc gia trong “trục ma quỷ” đã
khiến Washington
ăn ngủ không yên. Ngày 6/1/1988, nghị sĩ đảng Cộng hòa Larry Pressler, thông
báo rằng Pakistan sở hữu bom hạt nhân và ám chỉ rằng Islamabad hợp tác với
Tehran sau những chuyến thăm của Giáo sư Khan tại Iran. Tổng thống George H.
Bush (Bush- cha) đột nhiên lên tiếng tố cáo “quả bom Hồi giáo” mà cho tới trước
đó vẫn không được nhắc tới.
Bị cáo buộc tham nhũng, Thủ tướng Benazir
Buttho bị Nawaz Sharif lật đổ. Vì Nawaz Sharif thân với giới quân đội nên trung
tâm nghiên cứu tại Karachi
được hiện đại hóa và lò phản ứng Kahuta có khả năng sản xuất uranium làm giàu.
CIA tố cáo việc này nhưng cứ để cho Pakistan tiến hành, song cử nhiều
đơn vị tình báo khác theo dõi. Chương trình hạt nhân của Pakistan lúc
này đã trở nên không kiểm soát nổi và quá tham vọng.
Năm 1993, Washington dọn đường cho Benazir
Bhutto trở lại nắm quyền và Tổng thống Mỹ thời bấy giờ, Bill Clinton, thúc ép
Tổng thống Pakistan Farouq Leghari ký Hiệp ước NPT nhưng người này từ chối.
Năm 1996, bà Bhutto một lần nữa bị Nawaz
Sharif lật đổ vì tham nhũng. Giáo sư Samar Mobarik Mand, Trưởng phụ trách
chương trình hạt nhân của Pakistan dưới thời Nawaz Sharif đã cho tiến hành các
vụ thử hạt nhân chính thức đầu tiên vào ngày 28 và 30/5/1998, để đáp trả các vụ
thử hạt nhân của Ấn Độ. Và đây cũng được coi là cột mốc chính thức cho việc
Pakistan sở hữu vũ khí hạt nhân. Đối với phương Tây, vấn đề không nằm ở những
vụ thử hạt nhân của Ấn Độ mà chính là của Pakistan . Islamabad
thời đó tham vọng lãnh đạo các quốc gia Hồi giáo nên dần xa lánh quan hệ với
phương Tây, kể cả với Israel .
Chưa hết, nguy cơ về việc tiết lộ kỹ thuật chế
tạo bom hạt nhân của Pakistan
cho các nước khác như Iran
hay Libya
lại càng khiến phương Tây lo ngại. Sau nhiều hoạt động hành lang của Mỹ, cuối
cùng Pakistan
và Ấn Độ tuyên bố không phổ biến kỹ thuật hạt nhân của họ để đổi lại việc hai
quốc gia này không được công nhận là những nước sở hữu bom nguyên tử!
Năm 1999 và 2000, tướng Pervez Musharraf làm
đảo chính quân sự và lên nắm quyền Thủ tướng rồi Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh
quân đội với sự hậu thuẫn của Mỹ nhằm ổn định đất nước chống lại chủ nghĩa Hồi
giáo cực đoan.
Để buộc Libya từ bỏ giấc mơ sở hữu vũ khí
nguyên tử và khiến cộng đồng quốc tế an tâm về việc không có khả năng phổ biến
vũ khí hạt nhân bí mật, Giáo sư Khan đã bị bắt năm 2001. Người này bị kết tội
bán các bí mật hạt nhân cho Libya, Iran và CHDCND Triều Tiên, nhưng sau đó lại
được tha bổng sau khi… xin lỗi trước công luận! Mỹ khi đó đã gây sức ép buộc Pakistan nhanh
chóng kết thúc điều tra.
Từ tháng 3/2000, lò phản ứng hạt nhân Kushab
của Pakistan bắt đầu sản xuất plutonium để chế tạo từ 4 đến 5 quả bom hạt nhân
mỗi năm Cuối năm 2001, Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice coi Pakistan là đồng
minh quan trọng của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố. Và kể từ đó, vấn đề Pakistan sở hữu
bom hạt nhân không còn là đề tài gây tranh cãi. Tuy nhiên, sự thiếu thiện chí
của Islamabad sau khi Mỹ tăng cường cho mặt trận
Afghanistan
đã khiến cho đề tài trên được nhắc lại. Với hình ảnh chụp vệ tinh ngày
19/5/2009, Viện Khoa học và an ninh quốc tế (ISIS) nhấn mạnh rằng Pakistan đang
tăng cường khả năng sản xuất tại các lò phản ứng hạt nhân cũng như đầu đạn hạt
nhân.
2/ Isarel
Dù không được thừa nhận chính thức nhưng hiện
nay hầu như ai cũng biết Israel
sở hữu vũ khí hạt nhân. Cách đây 45 năm, vấn đề này lại là chuyện tuyệt mật đối
với chính phủ Mỹ. Theo các hồ sơ vừa được giải mật trong tháng 9, vào đầu năm
1969, giới chức Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và CIA đã có cuộc tranh luận nóng
bỏng về những nguy cơ từ một đất nước Israel vũ trang hạt nhân, sau khi nắm
được thông tin tình báo cho thấy Nhà nước Do Thái tiến rất gần đến việc sở hữu
loại vũ khí này.
Báo động
Theo tiết lộ từ các hồ sơ được giữ kín trong
gần nửa thế kỷ, vào tháng 2.1969, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Paul Warnke là
người đầu tiên cảnh báo Bộ trưởng Melvin Laird về nguy cơ đến từ Israel
và thúc giục Lầu Năm Góc đưa ra lập trường cứng rắn. Warnke khi đó vừa kết thúc
một vòng đàm phán với Đại sứ Israel Yitzhak Rabin về vụ bán chiến đấu cơ
Phantom cho Tel Aviv. Ông đã cố gắng đưa ra điều kiện Israel phải ký
Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) song bị khước từ. Warnke cảnh báo
chỉ có hành động quyết liệt của Mỹ, kể cả hủy bỏ thương vụ Phantom, mới có thể
ngăn chặn Israel
trở thành quốc gia hạt nhân. Giới chức Mỹ khi đó lo sợ điều này sẽ châm ngòi
cho cuộc chạy đua hạt nhân ở Trung Đông và làm phức tạp cục diện Chiến tranh
lạnh trong bối cảnh Liên Xô đang cung cấp vũ khí cho các nước Ả Rập. Bộ trưởng
Laird tán đồng quan điểm của Warnke và yêu cầu triệu tập phiên họp cấp cao của
Nhà Trắng để thảo luận. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Earle
Wheeler cũng nhấn mạnh nguy cơ từ vũ khí hạt nhân Israel và đề nghị Nhà Trắng phải
gây sức ép.
Tuy nhiên, cuộc họp do ông Laird đề xuất bị
bác. Thay vào đó, theo chỉ thị của Tổng thống Richard Nixon, Cố vấn An ninh
quốc gia Henry Kissinger đề nghị Bộ trưởng Laird, Ngoại trưởng William Rogers
và Giám đốc CIA Richard Helms tham gia một nhóm công tác mang tên NSSM 40 được
thành lập để nghiên cứu chương trình vũ khí hạt nhân Israel.
Các hồ sơ về hoạt động của NSSM 40 chính là
những tài liệu vừa được giải mật. Chúng giúp hé lộ diễn biến cuộc tranh luận
được che giấu trong nhiều thập niên và giải thích tại sao cho đến nay Washington vẫn tôn trọng
lập trường “hư hư thực thực” về hạt nhân của Tel Aviv. Theo chuyên san Foreign
Policy, các ước lượng không chính thức dựa trên tài liệu tình báo rò rỉ cho
biết Israel có thể sở hữu 80 đầu đạn và một số lượng không rõ nguyên liệu hạt
nhân ở cấp có thể sản xuất vũ khí.
Thỏa hiệp
Thoạt tiên, các cơ quan trong chính phủ Mỹ đều
nhất trí Israel phải ngưng sản xuất vũ khí hạt nhân để đổi lại việc phát triển
tên lửa đạn đạo Jechiro, phải tham gia NPT và cho phép Mỹ thanh sát thường
xuyên cơ sở hạt nhân Dimona. Tuy nhiên, họ bất đồng về cách gây sức ép với Israel cũng như
tranh cãi liệu có nên ngưng thỏa thuận bán chiến đấu cơ Phantom hay không.
Lầu Năm Góc hối thúc trừng phạt Israel , kể cả
hạn chế bán các loại vũ khí thông thường và trì hoãn chuyển giao chiến đấu cơ
Phantom, nếu nước này không tuân thủ các yêu cầu trên. Trong khi đó, Bộ Ngoại
giao muốn tiếp cận vấn đề bằng “phương pháp thuyết phục”. Rốt cuộc, Bộ trưởng
Quốc phòng Laird và các phụ tá đã thất bại trong cuộc tranh luận diễn ra vài
tháng trước chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Israel Golda Meir. Gây sức ép
dần biến thành thỏa hiệp dưới sự lèo lái của Trợ lý Ngoại trưởng về Cận Đông
Joseph Sisco. Theo đó, Washington buộc phải chấp nhận chương trình của Tel Aiv
là một hiện thực và bất kỳ áp lực nào cũng chỉ khiến đồng minh “khó chiều” này
đẩy nhanh quá trình sản xuất và mở rộng quy mô.
Theo các hồ sơ, Nhà Trắng cuối cùng đã rút lui
hoàn toàn, đồng ý chấp nhận cam kết của Israel rằng họ chỉ sở hữu “giải pháp kỹ
thuật” để sản xuất vũ khí hạt nhân. Thực tế, chính quyền Nixon đã vạch ra “mức
kép” cho Israel
trong việc trở thành quốc gia hạt nhân. Mức thứ nhất là sở hữu “giải pháp kỹ
thuật”, tức nắm trong tay mọi thứ để chế tạo vũ khí hạt nhân. Mức thứ hai là
công khai tuyên bố trở thành quốc gia hạt nhân, bằng các cách thức như thử hạt
nhân và đưa ra xác nhận với thế giới.
Điều này được thể hiện trong thỏa thuận bí mật
giữa Nixon và Meir vào ngày 26.9.1969. Theo Foreign Policy, 2 nhà lãnh đạo đồng
ý về việc ngầm công nhận thực tế Israel là một quốc gia hạt nhân
không tuyên bố. Nghĩa là Mỹ sẽ chấp nhận trạng thái hạt nhân của Israel miễn là
Tel Aviv không bao giờ công khai thừa nhận. Cho đến tận ngày nay, thỏa thuận bí
mật đó vẫn là nền tảng cho quan hệ hạt nhân giữa 2 nước, bất chấp đi ngược lại
những lợi ích không phổ biến hạt nhân của thế giới.
Giải pháp Samson
Giải pháp Samson là cụm từ được một số chuyên
gia đặt cho chiến lược răn đe hạt nhân của Israel theo tên nhân vật Samson
trong Kinh thánh, người xô đổ một ngôi đền để chết chung với hàng ngàn người
Philistine đang bắt giữ ông.
Theo đồn đại, việc sử dụng vũ khí hạt nhân để
trả đũa hàng loạt được xem là “giải pháp cuối cùng” nếu sự tồn tại của Israel
bị đe dọa. Cụ thể, vũ khí hạt nhân sẽ được dùng để tiêu diệt các thành phố lớn
trong thế giới Ả Rập theo kiểu “đồng quy ư tận” một khi Israel thất
thủ. Một số lời đồn còn nói vũ khí hạt nhân Israel thậm chí được nhắm đến hầu
hết các thành phố lớn ở châu Âu như một phần của Giải pháp Samson.
Trong cuộc chiến năm 1973, khi lực lượng Ả Rập
áp đảo Israel, Thủ tướng Golda Meir từng ra lệnh chuẩn bị sử dụng 13 quả bom
hạt nhân. Trong cuốn The Samson Option: Israel’s Nuclear Arsenal and American
Foreign Policy (Giải pháp Samson: Kho vũ khí hạt nhân Israel và chính sách đối
ngoại Mỹ), nhà báo Seymour Hersh cho biết đại diện ngoại giao Israel tại Mỹ khi
đó đã cảnh báo Tổng thống Nixon về “những kết cục rất nghiêm trọng” nếu
Washington không tiếp tế vũ khí cho Israel. Nixon đã chiều theo yêu cầu này.
Một số nhà bình luận xem đó là lần đầu tiên Tel Aviv đưa ra lời đe dọa sử dụng
Giải pháp Samson.
Bí mật quốc gia
Năm 2006, khi phát biểu tại phiên điều trần
trước quốc hội để chuẩn bị nhậm chức Bộ trưởng Quốc phòng, ông Robert Gates đã
nói Israel
là một quốc gia hạt nhân.
Cựu Tổng thống Jimmy Carter trong vài năm gần
đây thường xuyên đề cập chuyện này. Tuy nhiên, theo tờ The Atlantic, không phải
ai cũng mạnh miệng như vậy. Trên thực tế, các quan chức và nghị sĩ Mỹ thường bị
nhắc nhở không nói đến kho vũ khí hạt nhân Israel . Một số người còn bị kỷ luật
nếu vi phạm. Chẳng hạn, chuyên gia hạt nhân kỳ cựu tại Phòng Thí nghiệm quốc
gia Los Alamos James Doyle mới đây cáo buộc ông bị sa thải vì thừa nhận Israel
có vũ khí hạt nhân trong một bài viết trên tờ Survival ở Anh vào tháng 2.2013.
Tổng thống Mỹ Barack Obama cho thấy ông vẫn
duy trì chính sách giữ bí mật ngay từ cuộc họp báo đầu tiên ở Nhà Trắng vào năm
2009. Khi được hỏi có biết nước nào ở Trung Đông có vũ khí hạt nhân hay không,
ông Obama trả lời: “Tôi không muốn đồn đoán những thứ liên quan đến vũ khí hạt
nhân”.
3 / Bắc Hàn
Bắc Hàn đang gây nhiều lo ngại cho thế
giới với khả năng nguyên tử của mình.
Tính đến nay, Triều Tiên đã thực hiện ba vụ
thử hạt nhân: lần đầu tiên năm 2006, lần thứ hai năm 2009 và tiêu điểm là cuộc
thử hạt nhân gần nhất vào tháng 2 năm ngoái.
Vụ thử hạt nhân đầu tiên của Triều Tiên diễn
ra tại P’unggye-Yok, phía đông bắc Triều Tiên. Trước đó, ngày 3/10, Triều Tiên
đã đưa ra thông báo chính thức với Mỹ, Trung Quốc, trở thành quốc gia đầu tiên
đưa ra cảnh báo về vụ thử hạt nhân của mình.
Ước tính, vụ thử hạt nhân này có năng suất
khoảng 1 kiliton. Một quan chức giấu tên của Đại sứ quán Triều Tiên ở Bắc Kinh
nói: “Sản lượng vụ nổ hạt nhân này nhỏ hơn so với dự kiến”.
Đáp trả hành động táo bạo của Triều Tiên, Liên
Hiệp Quốc đã phê chuẩn các biện pháp trừng phạt kinh tế và quân sự với quốc gia
này.
Theo BBC, một năm sau cuộc đàm phán (tháng
2/2007), Triều Tiên đồng ý đóng cửa lò phản ứng hạt nhân chính ở Yongbyon để
đổi lấy viện trợ và các nhượng bộ ngoại giao.
Tuy nhiên, Triều Tiên luôn đưa ra cáo buộc về
việc các đối tác đàm phán Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc không đáp ứng
nghĩa vụ đã thỏa thuận, hãng tin BBC cho biết.
Ngày 25/5/2009
Chỉ một tháng sau khi kết thúc đàm phán quốc
tế về chương trình hạt nhân, Triều Tiên tiếp tục thử nghiệm hạt nhân lần thứ 2,
được cho là mạnh hơn so với lần đầu tiên.
Triều Tiên đã thông báo cho Mỹ và Trung Quốc
20-30 phút trước thời điểm diễn ra vụ thử hạt nhân, thông báo được gửi cho
Trung Quốc sớm hơn gửi cho Mỹ.
Các nhà khảo sát địa chất Mỹ cho biết: “Vụ thử
hạt nhân gây ra một cơn địa chấn mạnh 4,7 độ Richter lúc 9 giờ 54 phút (giờ Hàn
Quốc) tại khu vực đông bắc Triều Tiên, nơi từng diễn ra vụ thử hạt nhân lần đầu
tiên”.
Bộ Quốc phòng Nga ước tính, vụ
thử hạt nhân này có năng suất lên tới 20 kiliton, với khả năng tương tự như bom
Mỹ đã phá hủy hoàn toàn Hiroshima và Nagasaki năm 1945.
Tháng 6/2009, Triều Tiên thông báo về việc ông
Kim Jong-un được chọn làm người kế vị chức vụ lãnh đạo Triều Tiên.
Theo BBC, các nhà phân tích chính trị của Mỹ
suy đoán rằng mục đích vụ thử hạt nhân để thiết lập vị trí của Triều Tiên là
một cường quốc hạt nhân trước khi ông Kim Jong-il qua đời.
Mục đích nào cho vụ thử hạt nhân thứ 3 ?
Trong bối cảnh Hội đồng Bảo an LHQ đang cân
nhắc các biện pháp trừng phạt cứng rắn hơn nhằm đáp trả việc Triều Tiên phớt lờ
những nghị quyết trước đây sau hai vụ thử hạt nhân và năm 2006 và 2009, Triều
Tiên tuyên bố thử hạt nhân lần thứ 3 ngày 12/02 vừa qua.
Cùng ngày 12/2, đài truyền hình quốc gia Hàn
Quốc phát thông tin về một trận động đất cấp 5 xảy ra ở khu vực phía bắc Triều
Tiên.
Đồng thời, chính phủ Hàn Quốc cũng phát đi một
thông điệp: Vào lúc 11 giờ 57 phút (9 giờ 57 phút giờ Việt Nam), Triều Tiên đã
gây ra một trận “Động đất nhân tạo”.
Truyền hình Hàn Quốc còn công bố các bức ảnh
vệ tinh của công ty Digital Globe chụp cảnh bãi thử hạt nhân Punggye-ri tại vĩ
độ 38 – khu vực Kilju ở đông bắc Triều Tiên và xác nhận Triều Tiên đã thử
nghiệm hạt nhân lần thứ 3 thành công, lượng nổ ước chừng khoảng 6000 – 10000
tấn TNT.
Cùng ngày, các quan chức công nghiệp quốc
phòng Triều Tiên cũng xác nhận, họ đã thực hiện thành công thử nghiệm hạt nhân
lần thứ 3 với bom nguyên tử cỡ nhỏ, hạng nhẹ nhưng sức công phá cực lớn.
Theo KCNA, thử nghiệm đã diễn ra với “trình độ
cao, an toàn và hoàn hảo”, không gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Hãng thông tấn trung ương Triều Tiên (KCNA)
dẫn lời Quân ủy Trung ương của Đảng Lao động Triều Tiên và Ủy ban Quốc phòng
Triều Tiên nêu rõ: “Vụ thử hạt nhân dưới lòng đất ngày 12/2 là một chiến thắng
chính trị và quân sự vĩ đại. Nó khiến cộng đồng quốc tế công nhận vị thế của
Triều Tiên là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và tên lửa chiến lược.”
Thông điệp khẳng định: “Vụ thử hạt nhân này đã
đem đến sự thay đổi cơ bản trong cấu trúc chính trị thế giới và cán cân lực
lượng”.
Sự thành công của vụ thử hạt nhân lần thứ ba
đã chính thức đưa Triều Tiên trở thành nước thứ 9 sau Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung
Quốc, Israel, Ấn Độ, Pakistan bước vào “Câu lạc bộ” 9 nước sở hữu vũ khí hạt
nhân. Theo KCNA, bản đồ phân bố vũ khí hạt nhân trên thế giới phải điều chỉnh
lại một lần nữa.
Sau thành công vụ thử hạt nhân lần thứ ba, con
đường phát triển thành một cường quốc tên lửa hạt nhân thế giới của Triều Tiên
tuy còn nhiều chông gai, nhưng hiện quốc gia này đã trở thành một đối trọng mà
Mỹ và phương Tây, ngay cả đồng minh thân thiết nhất là Trung Quốc cũng phải cân
nhắc nặng nhẹ trên bàn cờ chính trị quốc tế.
Nguồn trích dẫn :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét