TS. Nguyễn
Thị Hậu
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM
Thị dân là gì? Câu hỏi tưởng chừng có câu
trả lời đơn giản nhưng hóa ra lại khá phức tạp. “Thị dân” tất nhiên là người
sinh sống ở các vùng đô thị. Nhưng như thế nào là “sống” hay “lối sống” ở đô
thị, và một nơi như thế nào mới được xem là “đô thị”? Những câu hỏi tưởng chừng
đơn giản này lại được hiểu, rồi có những định nghĩa khá phức tạp bởi vì thị dân
và lối sống thị dân góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo một đô thị. Và quan
trọng hơn, lối sống thị dân sẽ quyết định “thương hiệu” của đô thị, nhìn từ góc
độ văn hoá.
Trước đây người ta hiểu “thị dân” là người
sống ở đô thị. Nhưng giờ đây với sự phát triển đa dạng của đô thị và sự phức
tạp của quá trình đô thị hoá, cách hiểu này chưa đầy đủ. Không thể định nghĩa
“thị dân” bằng cách xác định nơi sinh sống mà phải từ khía cạnh văn hóa của
người sống ở đô thị. Từ điển Đô thị (một Từ
điển mạng có tên là urbandictionary.com) đưa ra một
vài đặc điểm nhận dạng thị dân và văn hoá thị dân như sau:
“Thị dân” là người sinh sống ở một trong
những thành phố lớn trên thế giới. Là người tiêu dùng khá giả, có quan điểm
sống lạc quan và rất khác những người sống ở "thị trấn nhỏ" hoặc khu
vực nông thôn.
Văn hóa thị dân vừa là một tiểu văn hóa
(subculture), vừa là một lối sống hiện đại. Thị dân có 6 đặc điểm chính: Thiếu
thời gian, tự hào về văn hóa đô thị, có hiểu biết về truyền thông
(media-literate), có ý thức về thương hiệu hàng hóa, tiêu dùng theo thị hiếu
(trend-sensitive) và có ý thức về văn hóa”.
Ở đô thị thời trung cổ, lối sống của thị
dân thường tuân theo (và được quy định bởi) định chế ngặt nghèo về đẳng cấp của
triều đình cầm quyền và những quan niệm đạo đức của tôn giáo. Những yếu tố này
làm cho lối sống thị dân – tuy nhiều thành phần khác nhau, nghề nghiệp khác
nhau – nhưng tạo nên được những đặc điểm riêng của từng kiểu đô thị: đô thị
hành chính, chính trị khác đô thị kinh tế, thương nghiệp, đô thị trung tâm cả
nước, trung tâm vùng miền đa chức năng khác đô thị nhỏ chỉ có chức năng hành
chính của một khu vực nhỏ…
Sang thời kỳ cận – hiện đại sự hình thành
đô thị công nghiệp gắn liền với quá trình đô thị hoá, lối sống, nhịp sống thời
công nghiệp tạo nên văn hoá đô thị hiện đại. Nếu không có quá trình nhập cư
đông đúc với mật độ cao thì đô thị hiện đại không thể thực hiện vai trò là
trung tâm đa chức năng của một khu vực rộng lớn. Do vậy, văn hoá đô thị phản
ánh những ứng xử của cộng đồng người sống trong môi trường xã hội có sự khống
chế về không gian nhưng về dân cư thì luôn có xu hướng tăng nhanh và mang tính
bất thường. Nhìn từ phương diện kỹ thuật, tại đô thị luôn xuất hiện những
phương tiện vật chất mới phục vụ và giải quyết những nhu cầu của cuộc
sống hiện đại. Thói quen ứng xử với những phương tiện mới phản ánh khá chính
xác lối sống thị dân và văn hoá đô thị. Đô thị hiện đại có nhiều đặc trưng,
trong đó có hai đặc trưng quan trọng nhất là giao thông và truyền thông.
Về giao thông. Thị dân dường như luôn
thiếu thời gian cho mọi hoạt động, mọi nhu cầu của mình, vì vậy không đâu tập
trung nhiều phương tiện và đầu mối giao thông như ở đô thị, đô thị càng lớn
phương tiện giao thông càng nhiều, kéo theo hệ thống đường xá cầu cống phát
triển và hoàn thiện. Nhu cầu giao thông trong đô thị/ giữa các đô thị với nhau
là yếu tố chủ đạo cho những phát minh mới về phương tiện và kỹ thuật giao
thông, trong đó có phương tiện công cộng. Sử dụng phương tiện giao thông công
cộng là một đặc điểm của thị dân, tạo nên và củng cố thói quen đúng giờ, xếp
hàng, tuân thủ quy định về an toàn giao thông, khuyến khích hoạt động cá nhân
như đọc sách, nghe nhạc, lướt web… đồng thời hạn chế thói quen gây ảnh hưởng
đến người xung quanh như nói to, xả rác… trong không gian hẹp và đông như xe
bus hay metro. Ngay cả việc sử dụng phương tiện giao thông cá nhân cũng đòi hỏi
sự tôn trọng không gian công cộng: dừng xe đúng đèn tín hiệu, đúng vạch, đi
đúng làn đường… để bảo đảm an toàn cho mình và cho người khác. Tiến tới ứng xử
văn hoá hơn: sẵn sàng nhường đường cho người đi bộ, người khuyết tật, ở giao lộ
và khi tắc đường… Tức là tuân thủ luật pháp và sự tuân thủ ấy trở thành quy tắc
đạo đức trong hành xử hàng ngày. Khi ấy văn hoá giao thông ở đô thị là chuẩn
mực cho nhiều tiểu vùng văn hoá khác.
Về truyền thông. Ngày nay đô thị là nơi
tập trung dày đặc những con người làm việc không thể thiếu máy tính và mạng
Internet. Đây cũng là nơi thu nhận và lan toả tất cả các loại thông tin “nóng”
hay “nguội” bằng nhiều hình thức truyền thông: báo chí in, TV, đài phát thanh,
Internet (báo mạng, các mạng xã hội…). Sự hiểu biết về truyền thông trong xã
hội hiện đại chính là sự đòi hỏi người tiếp nhận thông tin phải có trách nhiệm
chọn lọc cho mình và cho người khác.
Gần đây từ một tờ báo mạng có câu
chuyện bịa đặt về nồi hủ tíu nấu bằng chuột cống, tin này nhanh chóng lan trên
các báo mạng khác, rồi bùng lên trên nhiều mạng xã hội. Sự việc này nói lên
điều gì về văn hoá ứng xử với thông tin của thị dân thời hiện đại? Đó là, khi
báo viết bài bịa đặt hoặc không được kiểm chứng thì thông tin đó có khả năng
gây hại cho bao nhiêu gia đình, bao nhiêu con người. Vậy nhưng nhiều
người đã tiếp tay cho loại tin tức đó khi link về Facebook của mình, bàn tán,
lên án... mà thực sự cũng chẳng biết nguồn tin thật giả thế nào. Báo mạng lá
cải và các blogger vô trách nhiệm với thông tin mình tung lên mạng xã hội. Những
tin tức như thế lan truyền trên mạng chính là những số phận con người bị vứt ra
ra giữa xa lộ thông tin.
Thế giới mạng có thể làm người ta nổi
tiếng nhưng cũng có thể làm người ta “thân bại danh liệt” chỉ trong chớp mắt.
Vì vậy ứng xử với thông tin thời hiện đại không thể bằng kiểu “dư luận” đồn
thổi của làng xã như xưa kia. Truyền thông nào xã hội ấy, và ngược lại. Nhìn
vào văn hoá đô thị qua truyền thông có thể nhận biết văn hoá của thị dân.
Nhìn từ góc độ nhân văn, trong không gian
đô thị từng cá nhân và từng gia đình ít bị ràng buộc bởi các mối quan hệ chằng
chịt như ở thôn quê. Ở nông thôn giữa hai người, hai gia đình có khi vừa là
quan hệ huyết thống, vừa là láng giềng, lại vừa có cùng lợi ích kinh tế (cùng
làm nông nghiệp hay một nghề thủ công nào đó chẳng hạn)… do đó tính cộng đồng
cao hơn. Còn ở đô thị thì mối quan hệ cùng lợi ích kinh tế là quan hệ
chính (buôn có bạn bán có phường) hoặc quan hệ chính trị như cùng giai cấp/
đẳng cấp. Quan hệ láng giềng hay huyết thống vẫn duy trì nhưng là thứ yếu và
không phổ biến. Vì vậy, quan hệ của thị dân làm sao vừa giữ được tính truyền
thông trong sự quan tâm giúp đỡ nhau, đồng thời cũng cần giữ “khoảng cách” nhất
định để tôn trọng cá nhân và không gian riêng của từng người, từng gia đình,
từng cộng đồng nhỏ hơn (cùng chung tôn giáo, tín ngưỡng, chung nghề nghiệp, sở
thích…).
Bên cạnh sự điều hành của chính quyền đô
thị với những quy tắc, luật lệ phù hợp sinh hoạt và vận hành của đô thị, các tổ
chức cộng đồng xã hội cần được tạo điều kiện để phát huy trách nhiệm của mình
với sự phát triển của đô thị. Đây là điều kiện quan trọng để đô thị phát triển
bền vững.
Qua hàng chục hàng trăm năm, lối sống, văn
hóa đô thị được hình thành qua nhiều thế hệ thị dân.Tuy nhiên, khi đô thị chịu
nhiều biến động, có những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư trong một thời gian
ngắn thì không kịp di truyền và củng cố lối sống thị dân và văn hóa đô thị. Vì
vậy, giữ cho đô thị ổn định về dân cư, nhất là khu vực trung tâm, tránh những
xáo trộn lớn gây bất ổn định về tâm lý, lối sống, văn hoá… chính là một trong
những phương cách gìn giữ đặc trưng văn hoá đô thị. Như vậy thị dân mới có thể
tích luỹ những hiểu biết về văn hoá, từ đó tự hào về văn hoá đô thị, tiến tới
xây dựng thương hiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét