|
Tiến sĩ Giáp Văn Dương
|
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, thứ Năm, 8/5/2014
|
Triết lý giáo dục của hệ thống hiện thời là đào tạo
con người công cụ. Đây là cái sai nghiêm trọng nhất trong những cái sai của hệ
thống giáo dục này.
Có hay không triết lý giáo dục ?
|
Mục
đích chính của việc học hiện nay là học để thi. Thi gì thì học nấy. Trong
ảnh: đoạn đường trước một điểm thi đại học tại TPHCM. Ảnh: Kinh Luân
|
Triết lý giáo dục được
hiểu là những khái quát ngắn gọn, thường chỉ trong một câu thôi, được sử dụng
làm định hướng vận hành cho cả hệ thống giáo dục.
Như vậy, triết lý giáo
dục khác với triết học giáo dục ở chỗ, triết học giáo dục là một phân ngành
riêng của triết học, chọn giáo dục làm đối tượng nghiên cứu. Còn triết lý giáo
dục lại là tinh thần chủ đạo, là hồn cốt thần sắc, của cả một hệ thống giáo dục
và do đó của mọi hoạt động giáo dục liên quan.
Dựa vào triết lý giáo
dục, cả hệ thống giáo dục, và theo đó là các hoạt động của nó, được thiết kế,
vận hành và điều chỉnh tương ứng.
Hiện nay, triết lý giáo
dục vẫn đang được xem là điểm bế tắc của hệ thống giáo dục Việt Nam . Mọi bất
cập hiện có, và sự thất bại của các cuộc cải cách giáo dục trong mấy chục năm
qua, đều có thể truy nguyên về việc thiếu vắng một triết lý giáo dục đúng để
dẫn dắt.
Trước tình hình đó, đã có
nhiều bàn thảo và nghiên cứu về triết lý giáo dục được tiến hành, bao gồm các
đề tài nghiên cứu và các hội thảo lớn nhỏ, với mục đích tìm xem Việt Nam có
triết lý giáo dục không, và nếu có thì đó là gì.
Nhưng đến nay vẫn chưa có
câu trả lời thỏa đáng: Không một phát biểu tường minh nào về triết lý giáo dục
được tìm ra. Tất cả vẫn chỉ quanh quẩn trong những câu chữ cũ, hoặc lảng tránh
vòng vo, và cuối cùng là đều trở về các nghị quyết.
Điển hình là ngày
29-4-2014, khi trả lời báo chí trong phiên họp báo của Văn phòng Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận nói: “Tôi xin khẳng định triết lý
trực tiếp của giáo dục chúng ta là Nghị quyết 29 của trung ương”.
Tìm đọc Nghị quyết 29 thì
thấy rằng nghị quyết này dài hơn mười trang A4, nội dung được trình bày trong
hơn 7.000 từ. Vậy thì thử hỏi ai có thể nhớ được để mà vận dụng và để gọi nó là
triết lý giáo dục được?
Trên thực tế, nội dung
của Nghị quyết 29 đã được đề cập trong những nghị quyết trước đó nhiều năm.
Câu trả lời của bộ trưởng
đã cho thấy đây là một sự lảng tránh, trong nhận thức về triết lý giáo dục của
người đứng đầu ngành.
Nhưng rõ ràng bất cứ hệ
thống giáo dục nào cũng phải có một tinh thần chủ đạo, một triết lý dẫn dắt, dù
có được gọi tên hoặc thừa nhận hay không.
Nay câu chuyện về triết
lý giáo dục lại trở lại, với việc xúc tiến đề án cải cách căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, thì câu hỏi về triết lý giáo dục lại cần được đào xới trở
lại, ít nhất cũng ở mức nhận chân vấn đề, để có thể điều chỉnh kịp thời.
Vậy thì hãy một lần nhìn
thẳng vào hệ thống giáo dục hiện thời và các hoạt động của nó, để định hình xem
triết lý giáo dục đang được sử dụng là gì?
Tìm triết lý giáo dục ở đâu?
Muốn tìm triết lý giáo
dục thì câu hỏi đầu tiên đặt ra là: Tìm triết lý giáo dục ở chỗ nào?
Có hai cách trả lời cho
câu hỏi này, tùy theo cách tiếp cận: hệ thống hoặc sản phẩm. Hai cách tiếp cận
này quan hệ chặt chẽ với nhau như hai mặt của một đồng xu, nên không thể tách
rời nhau trên thực tế, vì hệ thống nào thì sản phẩm đó.
Đó thực chất chỉ là hai
diễn giải khác nhau cho cùng một vấn đề. Cụ thể:
Cách 1: Tìm ở các nguyên
tắc thiết kế hệ thống giáo dục, xem hệ thống này được thiết kế như thế nào và
để làm gì?
Cách 2: Tìm ở sản phẩm
đầu ra của hệ thống giáo dục, tức ở những phẩm tính của con người mà hệ thống
đó dự kiến đào tạo ra. Nói nôm na thì đó là việc trả lời câu hỏi: Hệ thống giáo
dục này muốn tạo ra con người nào?
Với cách tiếp cận thứ
nhất, người viết bài này đã từng đưa ra năm nguyên tắc thiết kế cho hệ thống
giáo dục: mở, sáng tạo, toàn diện, hiện đại và hội nhập. Trên cái nền hệ thống
đó, các hoạt động giáo dục sẽ diễn ra và tự điều chỉnh nhằm tạo ra những con
người sáng tạo, hiện đại và hội nhập.
Thực tế, đó cũng là một
phát biểu về triết lý giáo dục, nhưng theo cách tiếp cận về thiết kế hệ thống,
thay vì tiếp cận ở sản phẩm đầu ra, để tránh sa vào những tranh cãi bất tận về
triết lý giáo dục.
Nhưng cách tiếp cận hệ
thống này chỉ phù hợp với những nhà làm chính sách. Còn với đa số thầy cô giáo,
phụ huynh và học sinh thì đây là những vấn đề quá xa vời. Cái họ cần hơn, và
gần gũi hơn, là một hình dung về kết quả của việc học, về sản phẩm của giáo
dục, để ước định sau nhiều năm đi học, thì học sinh của họ, con cái họ, và bản
thân họ, sẽ trở thành người như thế nào.
Những người tham gia giáo
dục cần một minh định như thế, để định hướng và điều phối mọi hoạt động giáo
dục của mình. Cái minh định đó, không là gì khác hơn là triết lý giáo dục được
tìm ra trong cách tiếp cận thứ hai, tức tiếp cận sản phẩm đầu ra.
Điển hình của cách tiếp cận
này là giáo dục Nho giáo, với hình dung rất rõ ràng về sản phẩm đầu ra: học để
làm quan, với hình mẫu tối hậu là trở thành người quân tử. Chính nhờ sự tường
minh trong mục tiêu này mà hệ thống giáo dục Nho giáo đã đứng vững hàng ngàn
năm. Chỉ đến khi nội hàm của khái niệm người quân tử không còn phù hợp nữa thì
nền giáo dục này mới sụp đổ.
Ngày nay, hình dung về
sản phẩm đầu ra không được tường minh và dõng dạc như thế, do bị ẩn giấu dưới
trùng trùng các lớp ngôn ngữ của các nghị quyết, các chỉ đạo, các khái niệm
chưa rõ ràng như khái niệm về con người mới xã hội chủ nghĩa, các luận thuyết
giáo dục và tất nhiên của muôn vàn hoạt động giáo dục riêng lẻ hàng ngày, một
cách vô thức hoặc chủ ý.
Nay nếu muốn tìm triết lý
giáo dục thì chẳng còn cách nào khác là hãy tạm thời lùi xa một bước để nhìn
thẳng vào nội dung của các hoạt động giáo dục, từ đó lần ra được điểm hội tụ
của các hoạt động này, để xem khi cộng hợp lại thì chúng sẽ hướng đến việc tạo
ra con người như thế nào. Đó chính là đầu dây mối nhợ của câu chuyện nhức đầu
này.
Triết lý giáo dục hiện thời là gì?
Quan sát các hoạt động
giáo dục đang được triển khai, có thể nhận thấy:
• Mục đích chính của việc
học là học để thi. Thi gì thì học nấy.
• Nội dung chương trình
được kiểm soát chặt chẽ dưới dạng sách giáo khoa và sách giáo viên. Thầy hiếm
khi dạy ngoài sách, trò cũng chỉ phải học thuộc sách hoặc đề cương thầy giao.
• Phương pháp dạy chủ yếu
là truyền đạt một chiều, theo kiểu đọc-chép, nặng tính áp đặt. Phương pháp học
chủ yếu là học thuộc bài mẫu hoặc dạng mẫu. Phần thảo luận để phát triển tư duy
phê phán, tư duy độc lập và tính sáng tạo không được khuyến khích. Người thầy
là trung tâm của lớp học.
• Với các môn về khoa học
xã hội, cả thầy và trò chỉ được chấp nhận một cách diễn giải chính thống. Với cuốn
sách giáo khoa trên tay, người thầy là hiện thân của chân lý.
Những đặc điểm này nói lên điều gì?
Chúng nói lên rằng, hệ
thống giáo dục hiện thời không khuyến khích học trò ra khỏi vòng kiểm soát của
nội dung chương trình. Về đại thể, trò không được phép vượt quá thầy và đi ra
ngoài sách giáo khoa.
Nó cũng không khuyến
khích người học tự tìm tòi khám phá để xây dựng kiến thức cho riêng mình mà
phải học thuộc và thừa nhận như chân lý một nội dung định trước.
Những con người được tạo
ra từ hệ thống này cũng không được trang bị đủ kiến thức cập nhật, và đặc biệt
không đủ kỹ năng để cạnh tranh trong môi trường quốc tế, vì lối học từ chương,
học thuộc, học tủ, học để thi đang là chủ đạo.
Trò giỏi theo cách học
này được hiểu là học giỏi và thi giỏi, chứ không phải là làm giỏi.
Nói một cách khác, hệ
thống giáo dục hiện thời không hướng đến việc đào tạo con người tự do và độc
lập, có tư duy phê phán, tư duy sáng tạo; mà chủ ý hình thành một người ngoan
ngoãn, thích tuân thủ và cần cầm tay chỉ việc. Đó chính là hình ảnh của con
người công cụ.
Hệ thống hiện thời được
thiết kế để tạo ra những con người như vậy. Và các hoạt động giáo dục cũng dẫn
đến kết quả như vậy. Do đó, dù nhìn từ cách tiếp cận nào thì cũng thấy đây
chính là tinh thần chủ đạo của hệ thống giáo dục hiện thời.
Vì thế có thể nói, triết
lý giáo dục hiện thời là đào tạo con người công cụ.
Điều này được cộng hưởng
mạnh mẽ với nền văn hóa truyền thống, khi sự tuân thủ trên nguyên tắc ứng xử
một chiều trên - dưới thấm đẫm trong mọi gia đình, và lối học từ chương từ xa
xưa đã được coi là một chuẩn mực.
Triết lý này cũng phù hợp
với lịch sử nhiều chiến tranh của Việt Nam, đặc biệt là trong thế kỷ 20, khi sự
tuân thủ cấp trên và thực hiện mệnh lệnh là một trong những nguyên tắc sống còn
của thời chiến.
Có sự kế thừa nền giáo
dục truyền thống, có môi trường thời chiến, hoặc tư duy của thời chiến còn rớt
lại, để sinh sôi, nên triết lý giáo dục này đã không bị phán xét hoặc phản biện
thấu đáo.
Nhưng nay hoàn cảnh đã thay đổi, ViệtNam đang bước vào thời kỳ hội nhập
toàn cầu, nhu cầu về sáng tạo và tự chủ cá nhân trở thành bức thiết, thì triết
lý giáo dục đào tạo con người tuân thủ này đã không còn phù hợp.
Nhưng nay hoàn cảnh đã thay đổi, Việt
Nó chính là nguyên nhân
trực tiếp và sâu xa làm cho nền kinh tế của Việt Nam kém cạnh tranh và do đó
đất nước rơi vào tụt hậu, mà biểu hiện cụ thể nhất là năng suất lao động của
Việt Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực đến hàng chục lần.
Vì thế, trong cuộc cải
cách lần này, triết lý giáo dục cũng cần phải chuyển sang hướng đào tạo con
người tự do, để học có thể tư duy độc lập, tư duy sáng tạo, thay vì đào tạo con
người công cụ như mục đích của hệ thống hiện thời.
Điều này cũng tương tự
như việc học để làm quan, để trở thành người quân tử theo quan niệm của Nho
giáo, đã không còn phù hợp khi làn sóng văn minh phương Tây tràn đến hồi đầu
thế kỷ 20 nên cả nền giáo dục đã phải thay đổi.
Chỉ khi nào thực hiện được sự thay đổi này thì mới có
thể đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Còn nếu không, sự thất bại
giống như các cuộc cải cách giáo dục trước đây là điều có thể dự báo trước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét