1. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
1.1. Sự hình thành của Hồi giáo
Hồi giáo là một tôn giáo độc thần phát triển dựa trên nền tảng
quan trọng nhất là Kinh Koran, một văn bản mà những người theo đức tin này cho
rằng đã ghi nhận đúng từng lời răn dạy của Chúa Allah thông qua lời truyền đạt
của Mohammed, người mà các tín đồ tin tưởng là Thiên sứ cuối cùng của Allah.
Danh từ Hồi giáo (Islam) còn có nghĩa là “sự tuân phục đối với Chúa trời”, “hòa
bình” và “con đường đi tới hòa bình”. Người tin tưởng vào Hồi giáo được gọi là
Tín đồ Hồi giáo.
Hồi giáo ra đời
vào đầu thế kỷ thứ VII tại khu vực Bán đảo Arab do nhà tiên tri Mohammed sáng
lập. Mặc dù là tôn giáo ra đời muộn nhất ở Trung Đông với niên đại vào khoảng
đầu thế kỷ VII sau Công nguyên (trong khi đó Do thái giáo được coi là tôn giáo
ra đời sớm nhất tại khu vực Trung Đông với bề dầy lịch sử phát triển tính từ
năm 2000 trước công nguyên, Thiên Chúa giáo có mặt ở Trung Đông từ thế kỷ thứ I
sau Công nguyên) nhưng Hồi giáo đã nhanh chóng phát triển, mở rộng phạm vi ảnh
hưởng và hiện nay trở thành tôn giáo có vị trí quan trọng nhất khu vực Trung
Đông và đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên toàn cầu. Lịch sử hình thành và
phát triển của Hồi giáo gắn liền với bộ kinh Koran (Qur’an). Tương truyền rằng
kinh Koran là sự nối kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo độc thần khởi đầu
từ tổ phụ Abraham, sau đó đến Maisen, qua Jesus và cuối cùng là Mohammed. Từ
2000 năm trước Công nguyên, người Arab đã biết đến Thiên Chúa của Abraham mà họ
gọi là Allah. Điều đó có nghĩa là người Arab đã thờ Allah từ 27 Thế kỷ trước
khi có Mohammed và đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với văn hoá Do Thái,
người Arab rất quen thuộc với các nhân vật của Kinh thánh Cựu ước (Torah). Từ
thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII, người Arab tiếp xúc với những người Thiên Chúa
giáo thuộc Đế quốc Byzantine rộng lớn và từ các nước láng giềng như Syria, Ai
Cập… Mặc dù có rất ít người Arab theo Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ, nhưng họ
cũng bị ảnh hưởng phần nào từ Thiên Chúa giáo. Trước khi kinh Koran ra đời, sự
thiếu hụt của một nền tảng văn hóa và đức tin chung làm chỗ dựa cho quá trình
phát triển xã hội khiến cho các cộng đồng người Arab tại Trung Đông đã gặp
nhiều khó khăn trong tạo lập sức mạnh đoàn kết chống lại các thế lực áp bức bên
ngoài cũng như chống lại sự lấn át về văn hóa của các nền văn minh khác.
Khi kinh Koran
xuất hiện vào thế kỷ thứ VII, người Arab tự hào vì họ có một Thánh kinh viết
riêng bằng tiếng Arab. Người Arab đã đón nhận kinh Koran và đạo Hồi với một
tinh thần dân tộc và văn hoá Arab, khiến đạo Hồi sau đó được lan truyền nhanh
chóng và kinh Koran trở thành chất keo gắn kết các bộ lạc Arab lại với nhau,
biến khối Arab trở thành một khối đại đoàn kết. Sau khi kinh Koran và đạo Hồi
ra đời, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ XIII và giai đoạn này được đánh giá là Thời đại hoàng kim (The
Golden Age) của những người Hồi giáo Trung Đông. Vào thời điểm này, người Arab
rất quan tâm học hỏi từ nền văn hoá Hy Lạp và họ chú trọng đến nghiên cứu toán
học, thiên văn, khoa học thực nghiệm. Đầu thế kỷ VIII, trường Đại học đầu tiên của
thế giới Hồi giáo đã được xây dựng tại Baghdad (Iraq ) và thành
phố này đã nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm văn hoá lớn nhất thế
giới. Trong các thế kỷ sau đó, nhiều tác phẩm triết học, y khoa, toán học, văn
học… của người Hy Lạp được dịch sang tiếng Arab. Người Arab cũng đã đạt được
những tiến bộ lớn về khoa học, kỹ thuật và đóng góp cho nhân loại nhiều phát
minh, sáng chế quý báu, đặc biệt trong lĩnh vực y khoa. Do ham chuộng khoa học,
tín đồ Hồi giáo và khu vực Trung Đông nơi tôn giáo này hình thành, phát triển
từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XII được đánh giá là khu vực văn minh trên
thế giới.
1.2.
Những giáo lý cơ bản của Hồi giáo.
Những giáo lý cơ
bản của Hồi giáo được gắn liền với tên tuổi của Giáo chủ Mohammed (570 – 632)
là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca .
Tục truyền rằng thánh Allah (Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền
đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho Mohammed chân lý của kinh Koran
khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh” để tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho
và bắt đầu công cuộc truyền bá đạo Hồi. Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền
đạo, Mohammed còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực
còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là
một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Các quan điểm
và giáo lý của Hồi giáo như được thể hiện trong kinh Koran cho đến nay vẫn có
ảnh hưởng rất mạnh tại các khu vực có cộng đồng Hồi giáo sinh sống và là nền
tảng lý luận quan trọng giúp cho thế giới bên ngoài có cách nhìn và đánh giá
đúng mực về tôn giáo này.
Kinh Koran là một
quyển kinh gồm có 114 chương và 6236 câu thơ (verses). Sự phân bố các câu thơ
trong các chương không đều nhau, chương dài nhất có 287 câu thơ, chương ngắn
nhất chỉ có 3 câu thơ. Phần lớn kinh Koran được Mohammed viết tại thánh địa Mecca , số còn lại viết tại thánh địa Medina . Mohammed viết kinh Koran trên lá cọ
khô và trên những tấm da súc vật phơi khô. Cuốn kinh sau này lưu giữ được là
nhờ cố gắng sao chép và phục hồi của nhiều vị vua khác nhau trị vì trên khu vực
bán đảo Arab, trong đó phải kể đến công của vị vua Uthman (644-657). Khác với
Kinh thánh Cựu ước (Torah), Kinh Koran ngoài việc đề cập đến những vấn đề
thiêng liêng và lịch sử, còn đề cập đến những giáo lý cơ bản dành riêng cho
người Hồi giáo. Đây có thể được đánh giá là bộ luật đầu tiên và cao nhất của
người Hồi giáo. Ví dụ: Cấm cho vay nặng lãi (Koran, chương 2, câu 275); Cấm cờ
bạc (Koran, chương 5 câu 90); Cấm săn bắn trong thời gian hành hương về Mecca
(Koran, chương 5 câu 93); Phải ăn chay trong tháng Ramadan (Koran, chương 2
câu182); Phụ nữ ngoại tình bị ném đá cho chết (Koran chương 4 câu 15); Bị đóng
đinh hoặc chặt hết chân tay nếu chống Thiên Chúa Alla và thiên sứ Mohammed
(Koran, chương 5 câu 3).
Kinh Koran đồng
thời cũng liệt kê ra 10 điều răn bao gồm: (1) Chỉ tôn thờ thiên chúa Alla; (2)
Vinh danh và kính trọng cha mẹ; (3) Tôn trọng quyền của người khác; (4) Hãy bố
thí rộng rãi cho người nghèo; (5) Cấm giết người trừ những trường hợp đặc biệt;
(6) Cấm ngọai tình; (7) Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi; (8) Hãy cư xử công
bằng với mọi người; (9) Hãy trong sạch về tình cảm và tinh thần; (10) Hãy khiêm
tốn.
Ngoài những giáo
lý trên, Kinh Koran còn đề ra 5 nghĩa vụ căn bản buộc mọi người Hồi giáo phải
thực hiện, đó là: niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây được coi là 5 trụ cột cơ bản
của Hồi giáo, cụ thể là:
(1) Niệm: Tín đồ
phải thường xuyên tụng niệm câu Sahadah “Không có Thiên Chúa nào khác ngoài
Allah và sứ giả của người là Mohammed, La ila ha il allah”.
(2) Lễ: Mỗi tín đồ
hàng ngày phải hành lễ 5 lần về phía thánh địa Mecca
(Salah: Turning to Mecca
to pray 5 times a day);
(3) Trai: tức trai
giới. Trong tháng ăn chay Ramadan, mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tình dục
từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. (Sawn: Fasting during daylight hours
through the month of Ramadan);
(4) Khoá: Mọi tín
đồ phải tham gia hoạt động bố thí, từ thiện bằng cách trích 2,5% thu nhập của
mình cho những người Hồi giáo khác (Zakat: Setting aside 2,5% of income to
benifit the Muslim community);
(5) Triều: Các tín
đồ phải hành hương về thánh địa Mecca ít nhất 1
lần trong đời (Hajj: A one –in-a lifetime pilgrimage to Mecca ).
Nghiên cứu về Hồi
giáo qua Kinh Koran cho thấy tôn giáo này có nhiều ưu điểm thể hiện rõ trong
các lời răn dạy và trong 5 trụ cột của tôn giáo. Những ưu điểm này đã đưa xã
hội Hồi giáo (chủ yếu ở khu vực Trung Đông) bước vào thời đại hoàng kim từ thế
kỷ VIII đến thế kỷ XII. Kể từ khi kinh Koran ra đời, Hồi giáo trở thành một sức
mạnh chính trị và tinh thần vô cùng quan trọng đối với toàn thể tín đồ Hồi giáo
và ngay tại quê hướng của Hồi giáo là Bán đảo Arab, tôn giáo này trở thành chỗ
dựa vững chắc cho người dân. Sự phát triển và hoàn thiện từng bước của giáo lý
đạo Hồi đã đóng vai trò quan trọng giúp cho những người tin theo tôn giáo này
có được chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần và sức mạnh tinh thần đó trong nhiều
trường hợp đã được hiện thực hóa thành sức mạnh kinh tế, chính trị để các quốc
gia Arab xây dựng các vương triều hùng mạnh. Do xuất hiện với tư cách là một
tôn giáo độc thần, người Arab cảm thấy đạo Hồi dễ thuyết phục hơn các điều kiện
nặng nề phức tạp của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Đạo Hồi chỉ yêu cầu các
tín đồ trung thành đi theo một thánh thần duy nhất và tuân theo 5 trụ cột cơ
bản. Hơn thế nữa, những luân lý của đạo Hồi đã thúc đẩy việc xây dựng xã hội
Hồi giáo có những chuẩn mực đạo đức hết sức chặt chẽ. Chính những ưu điểm trên
của đạo Hồi đã khiến người Arab trong những thế kỷ đầu tiên tiếp nhận Kinh
Koran có ý thức xã hội, dân tộc và tinh thần đoàn kết, học hỏi không ngừng
những tiến bộ của nền văn minh nhân loại.
2.
KHUYNH HƯỚNG BIẾN ĐỘNG CỦA HỒI GIÁO HIỆN ĐẠI
2.1.
Biến động tín đồ Hồi giáo trên thế giới.
Nghiên cứu về Hồi
giáo cho thấy đến giai đoạn hiện nay, tôn giáo này đã nhanh chóng trở thành một
trong hai tôn giáo lớn nhất thế giới[1] với tốc độ tăng trưởng tín đồ rất cao
và hiện hữu tại mọi vùng, miền, mọi châu lục. Nghiên cứu mới đây của Pew Research
Center [2] đã đưa ra thông tin mang tính tổng thể
về sự phát triển mạnh mẽ của Hồi giáo thể hiện ở số lượng tín đồ Hồi giáo tăng
nhanh tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khảo sát tại hơn 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ đã cho kết quả là tính đến năm 2009, toàn thế giới có khoảng 1,57
tỷ tín đồ Hồi giáo thuộc mọi thành phần dân số, mọi lứa tuổi và số lượng tín đồ
này chiếm tới 23% dân số toàn cầu ước tính 6,8 tỷ người.
Số liệu về tín đồ
Hồi giáo cập nhật mới nhất cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng cũng như
phạm vi ảnh hưởng của tôn giáo này trên khắp thế giới khi so sánh với một số
ước tính trong thập niên 1990 cho rằng tín đồ Hồi giáo giai đoạn này có dưới 1
tỷ người. Khuynh hướng biến động của Hồi giáo nhìn nhận từ góc độ số lượng tín
đồ cũng cho thấy nhiều đặc điểm đáng chú ý bao gồm:
- Trong khi tín đồ
Hồi giáo hiện diện ở tất cả 5 lục địa lớn trên thế giới thì có tới hơn 60%
trong số họ tập trung ở châu Á và khoảng 20% sinh sống tại khu vực Trung Đông
và Bắc Phi (MENA)[3]. MENA cũng là
khu vực tập trung cao nhất các quốc gia có Hồi giáo là quốc giáo và tín đồ Hồi
giáo chiếm đa số trong dân chúng với số liệu cụ thể là hơn một nửa trong số
khoảng 20 quốc gia, vùng lãnh thổ tại MENA có người theo đạo hồi chiếm hơn 95%
dân số.
- Một số lượng lớn
tín đồ Hồi giáo, ước tính hơn 300 triệu người hoặc 1/5 tổng số tín đồ Hồi giáo
trên thế giới đang sống tại các quốc gia mà Hồi giáo không phải là tôn giáo
chính. Đây thường là các quốc gia có dân số rất đông, đa dạng về sắc tộc, tín
ngưỡng và Hồi giáo chỉ là một trong rất nhiều tôn giáo đang tồn tại ở các quốc
gia này. Có thể lấy ví dụ như Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới
và cũng là nơi có cộng đồng Hồi giáo đông thứ 3 toàn cầu. Trung Quốc có nhiều
tín đồ Hồi giáo hơn toàn bộ tín đồ Hồi giáo tại Syria ,
Liên bang Nga có đông người Hồi giáo hơn so với cả Jordan
và Libya
cộng lại.
Bảng 1. Phân bổ
tín đồ Hồi giáo trên thế giới
|
Số lượng
(ngàn người)
|
% trong dân số
|
% trong tổng số tín đồ Hồi giáo
|
Châu Á-Thái Bình Dương
|
972 537
|
24,1%
|
61,9%
|
Trung Đông và Bắc Phi
|
315 322
|
91,2%
|
20,1%
|
Châu Phi cận
|
240 632
|
30,1%
|
15,3%
|
Châu Âu
|
38 112
|
5,2$
|
2,4%
|
Châu Mỹ
|
4 596
|
0,5%
|
0,3%
|
Toàn thế giới
|
1 571 198
|
22,9%
|
100,0%
|
Nguồn: Pew Research
Center ’s Forum on
Religion & Public Life, Mapping the Global Muslim Population, October 2009
Số liệu trong bảng
1 đưa ra minh họa rõ ràng về tình hình tín đồ Hồi giáo trên thế giới với tổng
số ước tính trên 1,5 tỷ người. Số liệu thống kê cho thấy phần lớn tín đồ Hồi
giáo (61,9%) sống tập trung tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương[4] và khu vực Trung Đông – Bắc Phi
(20,1%) và châu lục có ít người Hồi giáo sinh sống nhất là châu Mỹ với tỷ lệ
chiếm khoảng 0,3% tổng số tín đồ. Sự phân bổ tín đồ Hồi giáo trên thế giới như
vậy đã phản ánh đúng thực tế về quá trình phát triển của tôn giáo này trong
giai đoạn nhiều thế kỷ trong đó Trung Đông – nơi Hồi giáo ra đời đến nay vẫn là
nơi sinh sống của đa số tín đồ và hầu hết đều ở các quốc gia có Hồi giáo là
quốc giáo với số lượng tín đồ chiếm đa số trong dân chúng.
Khuynh hướng biến
động của Hồi giáo và tín đồ Hồi giáo trong thời gian tới được dự báo là sẽ rất
mạnh với diễn biến chủ đạo là sự gia tăng nhanh về số lượng tín đồ cũng như về
sự hiện diện trên mọi vùng miền của thế giới. Nghiên cứu đầu năm 2011 về Tương
lai của dân số Hồi giáo toàn cầu[5] đã đưa ra nhận định rằng số lượng tín
đồ Hồi giáo sẽ tăng khoảng 35% trong vòng 20 năm tới và đạt khoảng 2,2 tỷ người
vào năm 2030.
Bảng 2. Dự báo số
lượng tín đồ Hồi giáo năm 2030
|
Số lượng (ngàn người)
|
% trong tổng số tín đồ
|
Châu Á – Thái Bình Dương
|
1 295 625
|
59,2%
|
Trung Đông – Bắc Phi
|
439 453
|
20,1%
|
Châu Phi cận
|
385 939
|
17,6%
|
Châu Âu
|
58 209
|
2,7%
|
Châu Mỹ
|
10 927
|
0,5%
|
Thế giới
|
2 190 154
|
100,0%
|
Nguồn: PEW Research
Center , The future of the
Global Islam Population, Analysis, January 27, 2011.
Chú
thích :
[1] Hồi giáo và Thiên Chúa giáo hiện nay được xác
định là hai tôn giáo lớn nhất thế giới (xét về số lượng tín đồ). Tuy nhiên,
chưa có số liệu thống kê nào thực sự chính xác và đáng tin cậy để xác định đâu
là tôn giáo có đông tín đồ hơn.
[2] Pew Research Center ’s Forum on Religion & Public Life,
Mapping the Global Muslim Population, October 2009
[3] Khu vực MENA – Middle East and Nord Africa là
phân vùng riêng thường được sử dụng khi nghiên cứu về Hồi giáo và thế giới Arab
bao gồm một bộ phận của châu Á và phần phía bắc của châu Phi.
[4] Châu Á – Thái Bình Dương trong nghiên cứu này
bao gồm một vùng rộng lớn từ các nước phía cực Tây (Thổ Nhĩ Kỳ) đến các nước
phía Đông (Trung Quốc, Nhật Bản).
[5] PEW research, The future of the Global Islam
Population, Analysis, January 27, 2011.
Dự báo về biến
động số lượng tín đồ Hồi giáo cho thấy trong thời gian từ nay đến năm 2030, số
lượng tín đồ Hồi giáo đang và sẽ tăng với tốc độ nhanh gấp đôi tốc độ tăng
trưởng dân số không theo Hồi giáo và PEW Research Center đưa ra tốc độ tăng
trưởng trung bình hàng năm giai đoạn 2010 – 2030 của tín đồ Hồi giáo là 1,5% so
với 0,7% của dân số không theo đạo Hồi và với tốc độ tăng dự kiến như vậy thì
vào năm 2030, tín đồ Hồi giáo sẽ chiếm tới 26,4% trong tổng số 8,3 tỷ dân số
toàn cầu.
Các quốc gia có
trên 1 triệu người Hồi giáo
Nguồn: Pew Research
Center ’s Forum on
Religion & Public Life, Mapping the Global Muslim Population, October 2009.
2.2.
Hồi giáo dòng Sunni và Hồi giáo dòng Shia.
Trong quá trình
phát triển của mình, Hồi giáo ngày càng vươn xa tới nhiều vùng, miền khác nhau
trên thế giới và qua mỗi thời kỳ, tôn giào này đã có những điều chỉnh nhất định
để thích nghi với bối cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa tại các địa phương. Dù vậy,
một trong những biến động lớn của Hồi giáo là sự kiện Nhà tiên tri Mohammed mất
(năm 632) và các tranh cãi về quyền kế thừa đã khiến cho Hồi giáo tách thành
hai dòng lớn: Hồi giáo dòng Sunni và Hồi giáo dòng Shia (còn gọi là Hồi giáo
Shiite). Mặc dù sự phân tách theo hai dòng Hồi giáo như trên có nguyên nhân
lịch sử từ nhiều thế kỷ trước đây nhưng các khuynh hướng phát triển Hồi giáo
hiện đại lại thể hiện nhiều đặc điểm mới khiến cho sự chia tách như vậy đang
trở thành vấn đề sâu xa đằng sau nhiều sự kiện biến động nổi bật của giai đoạn
hiện nay.
Người Hồi giáo
Sunni tự coi mình là dòng chính thống và truyền thống của đạo Hồi. Từ Sunni
xuất phát từ cụm từ “ahl al-Sunna”, nghĩa là con người của truyền thống. Người
Hồi giáo Sunni sùng kính tất cả các đấng tiên tri được nêu trong kinh Koran,
đặc biệt là Mohammed. Trong khi đó, người Hồi giáo Shia theo nghĩa đầy đủ là
“Shiat Ali” tự coi mình là nhóm thừa hưởng các quyền lợi của Ali, con rể Mohammed
và họ tự coi họ là những người đi theo đường lối chính trị, nối dõi trong việc
lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo. Cả hai dòng Hồi giáo này đều tôn thờ thánh Alla và
Muhammed, cùng thực hiện 5 trụ cột cơ bản của Hồi giáo. Tuy nhiên, ngay sau khi
Nhà tiên tri Mohammed mất, hai dòng Hồi giáo trên đã có những xung đột liên
quan đến việc ai sẽ là người lãnh đạo đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ phát triển, sự
khác biệt giữa hai dòng Hồi giáo ngày càng gia tăng với những tranh cãi liên
quan tới quan điểm chính trị, những khác biệt về lý luận logic và một số khác
biệt khác về cách thức thực hiện nghi lễ tôn giáo.
Bảng 3. Phân biệt
giữa Hồi giáo dòng Sunni và Hồi giáo dòng Shia
Hồi giáo dòng Sunni là dòng Hồi giáo lớn
nhất và các tín đồ Hồi giáo Sunni thường được coi là “những người của truyền
thống Mohammed và của cộng đồng”. Hồi giáo Sunni được coi là dòng chính thống
và danh từ “Sunni” có từ nguyên là Sunnah để chỉ những lời răn rạy và hành
động của Thánh Mohammed được ghi lại trong Sách thánh Hadith[1]. Tín đồ Hồi
giáo Sunni coi Sahih al-Bukharivà Sahih Muslim là
Sách thánh Hadith chính thức của mình.Hồi giáo dòng Sunni có 4 trường phái tư
tưởng chính thức (gọi là cácmadh’hab) được chấp nhận rộng rãi bao gồm: (1)
Trường phái Hanafi; (2) Trường phái Maliki; (3) Trường phái Shafi’i và (4)
Trường phái Hanbali. Cả 4 trường phái này đều nghiên cứu về các tập quán tôn
giáo, việc thực thi các nghi lễ tín ngưỡng và về các Hadith do vị Imam[2] thứ 6 là Jaffar Al-Sadiq (cháu nội
của nhà tiên tri Mohammed) kể lại. Hồi giáo dòng Sunni chỉ chấp nhận 4 vị
Caliph[3] đầu tiên là người kế thừa chính trị
hợp pháp của Mohammed và chấp nhận các Hadith do những Sahabah [4] của Mohammed kể lạiHồi giáo dòng
Shia là dòng Hồi giáo lớn thứ hai sau Hồi giáo Sunni. Những tín đồ Hồi giáo
Shia được gọi là những người Hồi giáo Shi’ites hoặc Shias. Shia là chữ viết
tắt của cụm từ Shi’atu ‘Ali có nghĩa là người tin theo Ali hoặc Trường phái
Ali. Hồi giáo Shia cho rằng gia đình của Mohammed (với tên gọi Ahl al-Bayt)
và một số thành viên nhất định trong số những người kế thừa của ngài (gọi là
các Imam) là những người có đầy đủ thần quyền và thế quyền để cai trị cộng
đồng Hồi giáo. Các tín đồ Hồi giáo Shia cũng tin rằng Ali (con rể của
Mohammed) là người đầu tiên trong những Imam này và do vậy là người kế thừa
chính thức của Mohammed. Điều này có nghĩa là Hồi giáo Shia phủ nhận tính hợp
pháp của 3 vị Caliph khác.
Tín đồ Hồi giáo Shias coi Ali là lãnh
đạo tôn giáo quan trọng thứ hai sau Nhà tiên tri Mohammed và họ cũng cho rằng
Mohammed đã nhiều lần chỉ ra rằng Ali sẽ là người kế thừa vị trí lãnh đạo
cộng đồng Hồi giáo sau khi ngài mất. Ali với tư cách người kế thừa của
Mohammed không chỉ nắm quyền lãnh đạo mà còn có quyền diễn giải Luật Sharia
và những hàm ý bí truyền của luật này. Ali được coi là vị Imam đầu tiên, là
người “hoàn hảo” và tín đồ Hồi giáo Shia chỉ chấp nhận các Hadith về Mohammed
và các Imam (chứ không chấp nhận các Hadith của người đồng hành Sahabah như
đối với Hồi giáo Sunni)
Sự khác biệt trong chấp nhận các Hadith
được coi là một trong những khác biệt và mâu thuẫn lớn giữa Hồi giáo Sunni và
Hồi giáo Shia.
|
Nguồn: Tổng hợp
thông tin của tác giả.
Nghiên cứu năm
2009 của PEW Research Center đã đưa ra những số liệu mới nhất về thực trạng
biến động số lượng tín đồ Hồi giáo Sunni và Shia trên thế giới trong đó xác
định rằng đại đa số người Hồi giáo trên thế giới là thuộc dòng Sunni và chỉ
khoảng 10% đến 13% là thuộc dòng Shia. Điều này có nghĩa là tổng số tín đồ Hồi
giáo Shia trên thế giới là vào khoảng 154 đến 200 triệu người. Số liệu khảo sát
thực tế cũng cho biết khoảng ¾ tổng số tín đồ Hồi giáo Shia đang sinh sống tại
châu Á với con số từ 116 đến 147 triệu người. Một bộ phận tương đối lớn khác
tín đồ dòng Shia (khoảng ¼) hiện sinh sống tại Trung Đông – Bắc Phi.
Một đặc điểm quan
trọng nữa liên quan đến sự khác biệt giữa hai dòng Hồi giáo là dòng Shia tuy
chiếm số lượng ít hơn nhưng thường có vị trí rất quan trọng và nắm quyền lãnh
đạo tại một số quốc gia Hồi giáo lớn. Số liệu nghiên cứu cho thấy phần lớn
người Shia (từ 68% đến 80%) hiện sống tại 4 quốc gia là Iran, Pakistan, Ấn Độ
và Iraq. Cộng hòa Hồi giáo Iran là nơi sinh sống của từ 66 đến 70 triệu tín đồ
Hồi giáo Shia, tương đương với 37% – 40% tổng số tín đồ dòng Shia trên thế giới.
Sự khác biệt của
hai dòng Hồi giáo Sunni và Shia cho đến nay vẫn thể hiện một khuynh hướng biến
động quan trọng của Hồi giáo nói chung và trở thành lý do đằng sau những sự
kiện mâu thuẫn, xung đột ngay trong nội tại thế giới Hồi giáo. Một số vấn đề về
Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Shia có thể được đề cập bao gồm:
- Kể từ khi cuộc
Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979 thành công, nhà nước Iran và các nhà lãnh đạo
tôn giáo đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự Hồi giáo Shia cấp tiến,
đặt ra thách thức về thần học và tư tưởng đối với chế độ bảo thủ của phái
Sunni, đặc biệt ở khu vực vùng Vịnh Ba Tư.
- Tại Lebanon,
người Hồi giáo Shia được trọng vọng và có tiếng nói chính trị mạnh mẽ. Tuy
nhiên, ở nhiều nước khác, sự xung đột giữa Hồi giáo Sunni và Shia ngày càng sâu
sắc. Một số luận thuyết bảo thủ của người Sunni đã chủ trương hận thù người
Shia. Tại Pakistan
cũng đã từng có những giai đoạn lịch sử xung đột đẫm máu giữa người Shia và
người Sunni trong thập kỷ 1980. Tại Iraq, cuộc chiến tôn giáo giữa người Shia
và người Sunni vẫn đang tiếp diễn và tình hình Iraq cho tới hiện tại đang diễn
biến ngày càng phức tạp với những vấn đề mâu thuẫn đan xen: mâu thuẫn giữa dân
bản địa với sự hiện diện của binh lính nước ngoài, mâu thuận giữa hai dòng Hồi
giáo trong quan hệ với bên ngoài và trong quan hệ với nhau.
- Kể từ đầu năm
2011, các sự kiện về bạo loạn, biểu tình chống chính phủ tại hàng loạt các quốc
gia Trung Đông – Bắc Phi cũng có phần liên quan tới mâu thuẫn giữa Hồi giáo
dòng Sunni và dòng Shia với trường hợp tiêu biểu là tại Bahrain khi người Hồi
giào dòng Shia chiếm đa số nhưng nhà nước lại do dòng Sunni lãnh đạo, dẫn tới
những mâu thuẫn sâu sắc cả về quyền lợi kinh tế lẫn tư tưởng, đường lối tôn
giáo. Điều này khiến cho Bahrain
trở thành một trong những điểm nóng của biểu tình, bạo loạn chống chính phủ.
Như vậy có thể
thấy những rạn nứt giữa người Sunni và người Shia đang tạo nên một sự chia rẽ
rất khó hàn gắn ngay trong nội tại đạo Hồi. Sự chia cắt giữa các dòng tôn giáo,
các trường phái tư tưởng trong nội tại đạo Hồi sau khi Mohammed mất đã làm suy
giảm khả năng liên kết thành một khối thống nhất mạnh mẽ của người dân Arab.
Trong thời kỳ phát triển hiện đại, khuynh hướng phân tách giữa hai dòng Hồi
giáo chủ yếu vẫn đang nổi lên ngày càng mạnh và được coi như một trong những lý
do tạo ra những nhìn nhận tiêu cực của thế giới bên ngoài đối với các tín đồ
Hồi giáo. Các vấn đề của hai dòng Hồi giáo cũng góp phần làm đẩy nhanh quá trình
phân hóa bên trong tôn giáo này để tạo ra các trào lưu Hồi giáo tự do, Hồi giáo
ôn hòa cũng như Hồi giáo cấp tiến, Hồi giáo cực đoan.
2.3.
Biến động của các trào lưu Hồi giáo.
Một khuynh hướng
nổi bật trong quá trình phát triển của Hồi giáo hiện đại là sự biến động của
đức tin Hồi giáo, sự hình thành của các trường phái tư tưởng Hồi giáo mang tính
chất “cải cách” và hướng tới tạo ra cho thế giới bên ngoài nhìn nhận tích cực
và thiện cảm hơn về các tín đồ Hồi giáo. Cùng lúc đó, một khuynh hướng khác
cũng đang diễn ra: quá trình Hồi giáo và các luật lệ tôn giáo bị siết chặt hơn,
đẩy tôn giáo này vào xu thế quay lại với trào lưu chính thống, hình thành Hồi
giáo cấp tiến hoặc “cực đoan hóa” để trở thành Hồi giáo cực đoan.
*
Hồi giáo tự do (Liberal Islam).
Mặc dù một trong
những khuynh hướng chủ đạo của Hồi giáo trong thời kỳ phát triển hiện đại là
Hồi giáo theo trào lưu chính thống (Fundamentalist Islam) nhưng trong nội tại
quá trình phát triển của tôn giáo này vẫn có một số các khuynh hướng phát triển
theo hướng tự do để tìm tòi cách cách thức thay thế khác nhau giúp cho đức tin
Hồi giáo có thể thích ứng với bối cảnh của thế giới thời hiện đại. Các khuynh
hướng phát triển này được biết tới với tên gọi Hồi giáo tự do (Liberal Islam).
Các truyền thống
Hồi giáo được hình thành từ một số nguồn bao gồm: Kinh Koran, các truyện kể
Hadith và diễn giải hai văn bản này (được coi là các Sách Mặc Khải) của các học
giả. Trong quá trình phát triển nhiều thế kỷ của Hồi giáo, các khuynh hướng chủ
đạo vẫn là sự nổi trội của trào lưu Hồi giáo chính thống với khẳng định rằng
việc diễn giải các sách Mặc Khải là không thể thay đổi, ngay cả đối với những
văn bản mang đặc tính tôn giáo dân gian không xác định được là có liên hệ trực
tiếp tới nhà tiên tri Mohammed. Tuy nhiên, một khuynh hướng biến động đáng quan
tâm trong thời hiện đại là việc nhìn nhận lại cách thức tiếp cận các sách thánh
đó của Hồi giáo cũng như nhìn nhận, diễn giải về các luật lệ Hồi giáo mà điển
hình là Luật Sharia. Những người đi theo khuynh hướng tiếp cận mới này được coi
là theo trào lưu Hồi giáo tự do.
Hồi giáo tự do
nhìn chung được xác định trong khuôn khổ việc diễn giải về tôn giáo với quan
tâm đặc biệt tới các vấn đề như dân chủ, tách biệt tôn giáo khỏi hoạt động
chính trị, quyền của phụ nữ, tự do tư tưởng và thúc đẩy tiến bộ của con người.
Những người theo trào lưu Hồi giáo tự do cho rằng luật Hồi giáo Sharia có tính
chất linh hoạt hơn rất nhiều so với những yếu tố đang được hệ thống pháp lý Hồi
giáo chính thống quy định và nhiều học giả Hồi giáo hiện đại tin rằng luật này
cần được đổi mới, các nhà luật học cổ điển không nên bảo lưu những thẩm quyền
đặc biệt của mình. Quan điểm như vậy đòi hỏi phải tạo lập cách thức thực thi
luật mới phù hợp với thế giới hiện đại và áp dụng luật trong bối cảnh phát
triển mới. Trào lưu Hồi giáo tự do không tìm cách thách thức các giá trị nền
tảng của Hồi giáo mà tìm cách làm rõ, xóa bỏ các diễn giải sai lầm để từ đó tạo
điều kiện cho việc đổi mới địa vị của thế giới Hồi giáo với vai trò một trung
tâm tư tưởng hiện đại, tự do.
Bảng 4. Đồng thuận
cơ bản của Hồi giáo tự do
Các tín đồ Hồi giáo tự do về cơ bản đã
thống nhất ở một số đức tin và nguyên tắc tôn giáo tạo cho họ sự khác biệt so
với Hồi giáo truyền thống:- Phản đối chế độ nô lệ và đa thê (đây là điều được
chấp nhận vào thời đại của Mohammed)- Quan tâm tới nhân quyền và câu truyện
về Adam trong kinh Koran đôi khi được diễn giải để bảo vệ nhân quyền
- Coi trọng nữ quyền, chỉ trích Hồi giáo
truyền thống về chế độ đa thê và khẳng định rằng phụ nữ có thể giữ các chức
danh lãnh đạo tôn giáo, có thể lãnh đạo nhà nước và không cần phải tách biệt
khỏi nam giới trong sinh hoạt xã hội cũng như trong nhà thờ, không cần dùng
mạng che mặt
- Ủng hộ xây dựng xã hội dân chủ, hiện
đại, tách biệt thần quyền khỏi thế quyền
- Đồng thuận về việc diễn giải kinh
Koran và các sách Mặc Khải khác theo cách thức có thể dễ được chấp nhận hơn
trong xã hội hiện đại
- Chống lại ý tưởng đấu tranh có vũ
trang – chẳng hạn như thánh chiến Jihad và ủng hộ các biện pháp hòa bình, phi
bạo lực.
- Nghi ngờ về độ tin cậy và khả năng áp
dụng các sách Hadith trong cuộc sống thực tế
|
Nguồn: Tổng hợp
thông tin của tác giả
Như vậy, trào lưu
Hồi giáo tự do đang được thúc đẩy để thực hiện cải cách tôn giáo và điều chỉnh
những nội dung mà họ cho là được diễn giải sai. Phương pháp cải cách về căn bản
được chia thành hai loại:
(1) Cách thứ nhất
là cải cách bằng phương pháp diễn giải lại văn bản sách truyền thống là nguồn
để tạo lập ra bộ luật Hồi giáo[5]. Phương pháp này
được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau: từ những khác biệt nhỏ so với
cách thức diễn giải truyền thống đến những diễn giải tự do hơn, chỉ coi ý nghĩa
của kinh Koran như một nguồn cảm xúc thần thánh trong khi từng từ ngữ của cuốn
sách thánh này được tin rằng chỉ có ý nghĩa là các lời răn dạy của nhà tiên tri
Mohammed, chỉ phù hợp với thời đại của ngài và bối cảnh cuộc sống lúc đó. Điều
này có nghĩa là các câu thơ trong kinh Koran khi diễn giải vào thời hiện đại
thì chỉ mang tính chất phúng dụ hoặc thậm chí là không cần phải diễn giải nữa.
(2) Cách thức thứ
hai đặt ra nghi ngờ về tính chất xác thực của các văn bản sách thánh truyền
thống của đạo Hồi, do các học giả Hồi giáo truyền thống áp dụng. Cách thức cải
cách này dẫn tới kết quả là hình thành trào lưu Hồi giáo tự do ở mức độ cao
nhất có tên gọi là Qur’an Alone (chỉ duy nhất kinh Koran là đúng). Đây là trào
lưu Hồi giáo tự do của những tín đồ chỉ tin theo kinh Koran và coi đây là sách
thánh duy nhất của Hồi giáo. Những tín đồ này không công nhận các sách Mặc Khải
khác như Hadith vàSunnah[6].
Bảng 5. Sáu Đức
tin Hồi giáo
Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo đều
đồng nhất tóm lược tất cả các tín điều căn bản (fundamental beliefs) thành 6
điều chính yếu được gọi là Sáu Đức tin Hồi giáo1. Tin có một Thiên Chúa Duy
Nhất (The Only God).2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ
3. Tin các sách Mặc Khải (Books of
Revelation)
4. Tin các vị Thiên Sứ
(Messengers/Prophets)
5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ chết sống
lại, mọi người sẽ được Thiên Chúa xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng
6. Mọi việc đều do Thiên Chúa tiền định
nhưng mọi người đểu có ý chí tự do
|
Nguồn: Tổng hợp
thông tin của tác giả
Trong giai đoạn
phát triển thời hiện đại, các xu hướng phát triển tự do đã hiện hữu và được
thúc đẩy mạnh mẽ ngay bên trong thế giới Hồi giáo và từ đó, kinh Koran cùng các
Hadith đã được diễn giải theo bối cảnh cụ thể của mỗi nhóm dân cư, mỗi cộng
đồng Hồi giáo chứ không còn dựa theo quan điểm truyền thống của Hồi giáo thời
trung cổ nữa. Tín đồ Hồi giáo tự do tuyên bố rằng họ vẫn hoàn toàn tin tưởng
vào những giáo lý căn bản của đạo Hồi, chẳng hạn như sự thừa nhận đối với Năm
trụ cột của Hồi giáo và Sáu đức tin. Dù vậy, người Hồi giáo tự do cho rằng họ
đang quay trở lại với những nguyên tắc căn bản của cộng đồng Hồi giáo giai đoạn
đầu tiên, trước khi các nguyên tắc này bị làm cho biến đổi vào thời trung cổ.
Sự khác biệt chủ yếu của trào lưu tự do chính là ở cách nhận thức, nắm bắt và
áp dụng các giá trị Hồi giáo cốt lõi vào cuộc sống thời hiện đại.
*
Hồi giáo cấp tiến và Chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo (Radical Islam and Islamic
Extremism).
Một khuynh hướng
đáng chú ý khác của Hồi giáo thời kỳ phát triển hiện đại là sự nhấn mạnh tới
các giá trị được cho là “giá trị Hồi giáo chính thống” của các tín đồ và khuy
hướng này được biết tới với tên gọi Hồi giáo cấp tiến. Trong khi đa số tín đồ
Hồi giáo đang tin theo những dạng thức tôn giáo hòa bình thì một bộ phận nhỏ các
tín đồ Hồi giáo cấp tiến muốn xây dựng một xã hội dựa hoàn toàn vào kinh Koran
và sách thánh Hadith, phủ nhận cách thức diễn giải kinh sách hiện đại được coi
là kết quả của nhiều thế kỷ đổi mới và điều chỉnh[7]. Các tín đồ Hồi
giáo cấp tiến lập luận rằng những ảnh hưởng thế tục của ngoại bang đang làm sai
lệch và đầu độc xã hội Hồi giáo và do vậy cần phải gây sức ép để tất cải phải
quay lại với nhận thức ban đầu về Hồi giáo. Thánh chiến (Jihad) và đòi hỏi cải
giáo theo đạo Hồi (Dawa) là cách thức để đạt tới mục đích này
Bảng 6. Jihad và
các dạng thức chủ yếu
Jihad trong ngôn ngữ của đạo Hồi được
hiểu là cuộc Thánh chiến, cuộc đấu tranh có vũ trang của người Hồi giáo thực
hiện với 3 dạng thức chủ yếu:- Đấu tranh nội bộ (Internal Jihad): là cuộc
thánh chiến để chống lại các chế độ về hình thức là Hồi giáo nhưng bị cho là
nghịch đạo, không kính Chúa và do vậy trở thành đối tượng đấu tranh, lật đổ-
Thánh chiến để phục hồi lãnh thổ (Irredentist Jihad): Đấu tranh, thánh chiến
để đòi lại các vùng đất được coi là thuộc về thế giới Hồi giáo nhưng bị các
thế lực phi Hồi giáo hoặc tà đạo chiếm đóng (đã và đang diễn ra tại các nơi
như Afghanistan, Chechnya, Kashmir, Mindanao và đặc biệt là Palestine)
- Thánh chiến toàn cầu (Global Jihad):
Đây là chủ đề của thời kỳ phát triển hiện đại khi cuộc Thánh chiến được kêu
gọi để các tín đồ Hồi giáo cấp tiến chống lại phương Tây hoặc cụ thể hơn nữa
là chống lại Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này (tập trung nhiều nhất là
chống lại Israel). Cuộc Thánh chiến toàn cầu được coi là do tổ chức Hồi giáo
cực đoan al-Qaeda đi tiên phong, phát động kể từ năm 1998 và sau đó được
nhiều mạng lưới Hồi giáo độc lập khác hưởng ứng, trở thành một phong trào lan
rộng cho tới hiện nay.
|
Nguồn: Tổng hợp
thông tin của tác giả
Phong trào Hồi
giáo cấp tiến đã đặt ra những yêu cầu và cách thức hành động cụ thể để tác động
tới người Hồi giáo cũng như toàn thể thế giới. Các tín đồ Hồi giáo cấp tiến
nhấn mạnh tới sự cần thiết phải áp dụng Luật Hồi giáo Sharia cho toàn thể xã
hội hiện đại. Họ cũng phát triển ý tưởng về việc xây dựng một thế giới Hồi giáo
mở rộng và xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của phương Tây trong thế giới Hồi giáo.
Đối với các tín đồ Hồi giáo cấp tiến, mục tiêu cuối cùng là khôi phục Caliphate
– một nhà nước Hồi giáo nhất nguyên do một lãnh đạo tối cao là Caliph cai quản.
Đây được coi là nhà nước Hồi giáo có khả năng phát triển đạo Hồi ra toàn thế
giới và bắt toàn bộ các quốc gia khác phải quy phục.
Một dạng thức được
đẩy lên mức cao nhất của Hồi giáo cấp tiến được biết tới với tên gọi Chủ nghĩa
cực đoan Hồi giáo. Khuynh hướng phát triển này của Hồi giáo đặc biệt được nhắc
tới trong giai đoạn phát triển của thế giới thời hiện đại sau sự kiện khủng bổ
11/9/2001 tại Hoa Kỳ và tiếp nối sau đó là cuộc đấu tranh chống khủng bố do Hoa
Kỳ phát động trên toàn cầu. Về cơ bản, chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo có thể được
coi như một khuynh hướng phát triển của Hồi giáo hiện đại và bao hàm hai nội
dung chính:
(1) Chủ nghĩa cực
đoan Hồi giáo thể hiện ở quan điểm bảo thủ đến mức cực đoantrong áp dụng, thực
thi các giáo lý của đạo Hồi. Việc giữ quan điểm bảo thủ cực đoan không nhất
thiết bao hàm các hành động bạo lực nhưng chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực
trong quy định về các hành vi, lối sống của các tín đồ Hồi giáo và các nhà nước
Hồi giáo
(2) Chủ nghĩa cực
đoan Hồi giáo thể hiện ở việc sử dụng các phương thức đấu tranh cực đoan và bạo
lực như khủng bố, đánh bom tự sát…vv để đạt tới các mục tiêu tôn giáo.
Hồi giáo cực đoan
phát triển rất mạnh kể từ năm 1996 khi Osama Bin Laden[8]đưa ra Fatwah -
một quyết định tôn giáo chính thức kêu gọi những người Hồi giáo giết lính Mỹ
đang đóng quân ở Saudi Arabia. Năm 1998, Fatwah viết “Giết những người Mỹ và
đồng minh của chúng – cả lực lượng dân sự và quân đội – là nghĩa vụ thiêng
liêng của mỗi người Hồi giáo, những người có thể làm một điều gì đó cho đất
nước của mình”; và “Tự do cho al-Aqsa Mosque và xoá sạch quân đội Mỹ và đồng
minh trên những mảnh đất của người Hồi giáo”[9]. Bin Laden đã
thành lập tổ chức cực đoan al-Qaeda với mục tiêu “Xoá bỏ mọi ảnh hưởng của tư
tưởng nước ngoài trong các nước Hồi giáo, và hình thành những nhà nước Hồi giáo
mới”[10]. Al-Qaeda đã
phát động phong trào Jihad trên khắp thế giới để chống lại phương Tây và các
tôn giáo khác và gây ra nhiều vụ khủng bố lớn, chẳng hạn như sự kiện khác
- Nguy cơ Hồi giáo
hóa xã hội: Các nhóm Hồi giáo cấp tiến tập trung vào thúc đẩyDawa - việc cải
giáo theo đạo Hồi, coi đó là cách để mở rộng hệ tư tưởng Hồi giáo cấp tiến ra
toàn xã hội. Việc cải giáo có thể là tự nguyện nhưng cũng có thể là cưỡng bức
và một trong những trọng tâm được tín đồ Hồi giáo cấp tiến chú ý là tăng cường
ảnh hưởng tại các cộng đồng Hồi giáo thiểu số đang sinh sống tại các quốc gia
phương Tây, tuyên truyền về việc giúp họ thoát khỏi “áp bức” và không bị “tẩy
não” bởi bàn tay của những kẻ ngoại đạo. Đây được coi như một dạng thánh chiến
về văn hóa dẫn tới xu hướng “cấp tiến hóa” và “cực đoan hóa” các cộng đồng Hồi
giáo thiểu số, gây ra những nguy cơ lớn tới an ninh và ổn định của nhiều quốc
gia.
- Bạo lực và khủng
bố: Đây là nguy cơ nhãn tiền của Hồi giáo cấp tiến và các tổ chức cực đoan Hồi
giáo. Thánh chiến Jihad được thúc đẩy hết mức để các tín đồ Hồi giáo cấp tiến
đấu tranh bạo lực chống lại những “kẻ thù” của đạo Hồi. Các tổ chức chủ trương
thánh chiến, khủng bố, bạo lực thường được nhắc tới là al-Qaeda, Hamas…đã và
đang sử dụng các biện pháp cực đoan và biến những nguy cơ lớn này trở thành sự
hủy hoại thực sự trong nhiều trường hợp
3.
MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ.
Hồi giáo là một
tôn giáo lớn với vai trò và tầm ảnh hưởng quan trọng hàng đầu trên thế giới
trong giai đoạn phát triển thời hiện đại. Với số lượng tín đồ khoảng hơn 1,5 tỷ
người và tốc độ tăng nhanh nhất trong tương quan với các tôn giáo khác, dự kiến
trong thời gian 10 năm tới Hồi giáo chắc chắn sẽ khẳng định được vị trị là tôn
giáo lớn nhất thế giới xét về số lượng tín đồ. Tìm hiểu về quá trình hình
thành, phát triển của Hồi giáo cũng như các khuynh hướng phát triển của tôn
giáo này trong thời hiện đại đã cho thấy một số nét đáng chú ý:
- Hồi giáo là tôn
giáo được biết tới nhiều nhất trong giai đoạn phát triển ngày nay do hầu hết
những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trên thế giới đều có
liên quan tới yếu tố tôn giáo và có sự can dự của các tín đồ Hồi giáo.
- Trung Đông là
khu vực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tôn giáo lớn trên thế giới
và là nơi cả Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hình thành phát triển. Với
đặc điểm là nơi khởi nguồn của các tôn giáo lớn như vậy đã khiến cho Trung Đông
trở thành khu vực rất nhạy cảm về tôn giáo và trên thực tế Hồi giáo đã có ảnh
hưởng vô cùng to lớn tới các quốc gia Trung Đông, trong nhiều trường hợp Hồi
giáo đã giữ vai trò kiểm soát cả về thế quyền và thần quyền tại các quốc gia
này. Như vậy, mỗi biến động trong khuynh hướng phát triển của Hồi giáo đều có
tác động trực tiếp tới các quốc gia Trung Đông và tác động đó có khả năng lan
tỏa ra khắp cộng đồng các tín đồ Hồi giáo cũng như tới thế giới bên ngoài.
- Khuynh hướng
phát triển hiện đại cho thấy sự tách biệt giữa hai dòng Hồi giáo Sunni và Shia
dường như đang mạnh hơn, rõ nét hơn và trong nhiều trường hợp những mâu thuẫn
giữa hai trào lưu bên trong một tôn giáo đã là nguyên nhân của xung đột và bạo
lực. Khuynh hướng phát triển này của Hồi giáo thời hiện đại khiến cho tính chất
bất ổn tôn giáo có xu hướng gia tăng và cần được theo dõi chặt chẽ để giảm
thiểu các tác động tiêu cực có thể có
- Giai đoạn phát
triển thời hiện đại cũng cho thấy Hồi giáo và các tín đồ Hồi giáo đang chịu sức
ép rất lớn từ thế giới bên ngoài với lý do cho rằng một số trào lưu phát triển
của tôn giáo này đang tiềm ẩn những nguy cơ nhất định đối với an ninh, ổn định
và phát triển của thế giới. Trong khi trào lưu Hồi giáo tự do với nhiều quan
điểm tiến bộ, phù hợp với bối cảnh phát triển mới đang được thế giới bên ngoài
ghi nhận với nhiều thiện cảm thì xu hướng “cấp tiến hóa” và chủ nghĩa cực đoan
Hồi giáo đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, an ninh trên toàn
cầu. Khuynh hướng phát triển của Hồi giáo theo hướng cực đoan đã bị cả thể giới
lên án do khuynh hướng này luôn gắn với hàng loạt các sự kiện khủng bố, đánh
bom tự sát, bạo lực, xung đột vũ trang…vv. Đây thực sự là một hướng biến động
tiêu cực và thực tế cho thấy khuynh hướng này vẫn đang diễn ra một cách mạnh mẽ
cả về chiều rộng và chiều sâu bất chấp các nỗ lực của cộng đông quốc tế tìm
cách ngăn chặn trào lưu cực đoan này.
- Sự phát triển
tương đối nhanh của Hồi giáo cấp tiến và sự lớn mạnh của chủ nghĩa cực đoan Hồi
giáo với các tác động tiêu cực tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa,
chính trị, tôn giáo…vv của nhiều quốc gia trong mọi trường hợp vẫn cần được coi
là mang tính tất yếu và là một khuynh hướng phát triển không thể tránh khỏi
trong môi trường quốc tế hết sức bất ổn và biến động khó dự đoán giai đoạn hiện
nay. Hồi giáo cấp tiến và xu hướng cực đoan hóa cần được lý giải với các nguyên
nhân sâu xa về kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử tồn tại bên trong các xã hội
Hồi giáo trong đó chủ yếu có thể kể tới lý do (1) kinh tế khó khăn của một bộ
phận lớn người dân tại các quốc gia Hồi giáo khiến họ mất phương hướng trong
cuộc sống và dễ bị lôi kéo vào các phong trào Hồi giáo cực đoan để tìm đường
giải thoát cho bản thân và gia đình và (2) sự can thiệp của nước ngoài vào các
vấn đề của xã hội Hồi giáo khiến tâm lý chống phương Tây, chống Mỹ càng thêm
gay gắt.
Tóm lại, tìm hiểu
về thực trạng Hồi giáo và các khuynh hướng phát triển của tôn giáo này cho thấy
Hồi giáo thực sự là một vấn đề phát triển mang đủ các sắc thái kinh tế, chính
trị cũng như văn hóa, tư tưởng với các tác động to lớn tới mọi mặt đời sống của
người dân trên toàn thế giới. Với số lượng tín đồ đang tăng rất nhanh và các tư
tưởng tôn giáo đang mở rộng ra nhiều cộng đồng dân cư, rõ ràng Hồi giáo đang
ngày càng bành trướng phạm vi ảnh hưởng và mở rộng tới các không gian địa lý,
văn hóa, tinh thần vô cùng rộng lớn. Xét về mặt lịch sử, các tôn giáo lớn của thế
giới như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo… đều có chung một nguồn gốc:
được khởi nguồn từ tổ phụ Abraham, cùng có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong kinh
Koran của người Hồi giáo, hay kinh Torah của người Do Thái và Kinh Thánh của
người Thiên Chúa giáo đều xác định nguồn gốc này. Tuy nhiên, khuynh hướng mở
rộng phạm vi ảnh hưởng của Hồi giáo như hiện nay cùng với những tác động của
hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và các quan điểm khác nhau về đức
tin, lối sống khiến cho tại nhiều nơi trên thế giới và đặc biệt là tại khu vực
Trung Đông đã có những cuộc xung đột tôn giáo lớn. Hầu hết các đánh giá đều cho
rằng dường như chưa thể có giải pháp nào thực sự hữu hiệu có thể giải quyết
triệt để các vấn đề mâu thuẫn, xung đột phát sinh trong quan hệ giữa các nhóm
tôn giáo với vai trò nổi bật của Hồi giáo.
Tìm hiểu về Hồi
giáo và các vấn đề phát triển, tác động của tôn giáo này trên thế giới luôn là
vấn đề phức tạp, vấn đề “nóng”, vấn đề “nhạy cảm”. Mặc dù vậy, đây là vấn đề
không thể bỏ qua đối với tất cả các quốc gia đang cùng tồn tại, phát triển
trong thời đại toàn cầu hóa với những mối liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau
rất chặt chẽ.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Nhật Quang (chủ biên),
“Những vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật của Trung Đông và xu hướng đến năm
2020”, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2011.
3. Charles Kurzman, “Liberal Islam:
Prospects and Challenges”, Middle East Review
of International Affairs Vol. 3, No. 3, September 1999.
4. Egdūnas Račius, “The Multiple Nature of the
Islamic Da’wa”, Academic Dissertation, University of Helsinki, October 2004.
5. “Islam In The Modern World”,
Religion and Spiritual Beliefs Resource, important.ca
6. “Understanding Islamism”,
International Crisis Group, Middle East/North Africa Report N°37 – 2 March
2005.
7. “Understanding Radical
Islam”, Radicalislam.org, Clarion Fund, 2009.
Nguồn: nghiencuulichsu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét