Hà Xuân Nguyên
Tây nguyên hiện nay gồm 05
tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng và Đăk Nông, diện tích tự nhiên là
59.754 km2 (chiếm 16,8 % diện tích cả nước), giáp biên giới
Lào và Campuchia dài 590 km, tổng số dân hiện nay hơn 4,9 triệu người.
Theo số liệu của Ban Chỉ đạo
Tây nguyên (tháng 12-2008), cơ cấu hành chính toàn vùng có 592 xã, 68
phường, 48 thị trấn thuộc 51 huyện, 04 thị xã, 04 thành phố thuộc tỉnh (trong
đó có 537 xã khó khăn, 211 xã khu vực 3 với 7.086 thôn, buôn, tổ dân phố, trong
đó 2.765 thôn buôn người dân tộc thiểu số, 1.668 thôn buôn đặc biệt khó khăn).
Đặc điểm chung nhất của Tây
nguyên là vùng đất có nhiều tiềm năng, cư dân đa số là đồng bào dân tộc thiểu
số, cư trú chủ yếu ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hiểu biết về xã
hội còn hạn chế, trình độ sản xuất kinh tế còn thấp và không đều, có truyền
thống đoàn kết, gắn bó, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau và đang có quan hệ
về mặt dân tộc, tôn giáo với một bộ phận đồng tộc đã chuyển cư ra nước ngoài
sinh sống (chủ yếu ở Lào và Campuchia).
Về chính quyền cơ sở, phổ
biến chung là trình độ cán bộ, công chức cấp xã còn yếu, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ đề ra, địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, có xã dân số đông
(vài nghìn dân), có xã dân số rất ít (khoảng một hoặc hơn nghìn dân).
Hiện nay các xã, phường, thị
trấn tuy là nơi trực tiếp giải quyết công việc cho người dân, thực hiện mọi chủ
trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhưng thực tế
việc đầu tư, chăm lo củng cố cấp hành chính cuối cùng này còn nhiều hạn chế.
Nhận thức được vấn đề này, trong thời gian qua, đảng bộ, chính quyền các cấp ở
Tây nguyên luôn chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng quản lý hành chính cho cán bộ, công chức cấp xã và nhiều
giải pháp khác nhằm củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở đủ mạnh với mục tiêu
cuối cùng là phục vụ dân, giúp người dân thoát nghèo. Có thể nêu ra một số biện
pháp sau:
Một là, tăng kinh phí đầu tư để các
xã có điều kiện triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá… ở địa phương.
Hai là, ban hành chính
sách thu hút cán bộ trẻ - nhất là những sinh viên tốt nghiệp đại học với chuyên
ngành lâm, nông, nghiệp, kinh tế, thuỷ lợi về công tác, đồng thời phân công các
sở, ban, ngành đoàn thể tỉnh, huyện nhận đỡ đầu, giúp xã gặp khó khăn. Tiên
phong trong công tác này
là tỉnh Kon Tum (trước đây Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh ban hành Nghị quyết 04 về xây dựng các xã khó khăn, mới đây, UBND tỉnh Kon
Tum ban hành Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND ngày 13-02-2009 về triển khai thực
hiện Đề án hỗ trợ cán bộ tăng cường, luân chuyển, thu hút tri thức trẻ, cán bộ
khuyến nông, khuyến lâm về công tác tại 14 xã trọng điểm đặc biệt khó khăn,
ngoài ra còn nhiều chính sách khác nữa…).
Ba là, cho dân vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh hoặc chăn
nuôi trâu, bò, dê....
Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện, tôi thấy nổi lên một số vấn đề xin được bàn thêm như sau:
- Công tác xoá đói, giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số được Đảng, Nhà nước xác định là một trong những ưu tiên hàng đầu, là
thường xuyên, liên tục, do vậy cần phải có một chiến lược tương ứng toàn diện
trên tất cả các mặt. Thế nhưng, những chương trình, dự án, đề án do tỉnh đề ra
do lấy nguồn từ ngân sách nên bao giờ cũng ấn định thời gian kết thúc (phổ
biến là 05 năm). Trong khoảng thời gian đó không đủ để một kỹ sư mới ra
trường có kinh nghiệm làm tốt mọi việc được. Còn yêu cầu đối với kỹ sư cao
tuổi, thâm niên thì số này không nhiều, nếu có thì đã làm việc trong các cơ
quan tỉnh, huyện rồi, nên ngại đến xã, nhất là xã khó khăn.
- Hiện
nay ở cấp xã đều có cán bộ các sở, ban, ngành của tỉnh và huyện, cùng với số
cán bộ 253 tăng cường, nhưng hiệu quả công việc không cao, nếu có là ở việc
hoàn thành các văn bản, các báo cáo đúng kỳ hạn, thống kê số liệu tương đối đầy
đủ, còn nội dung quan trọng nhất là giúp xã đề ra các giải pháp hữu ích, có lợi
cho dân để áp dụng thì hầu như không có. Nguyên nhân theo tôi được biết, những
cán bộ này luôn có sự thay đổi liên tục trong cùng cơ quan, cơ chế thực hiện
không rõ ràng, không gắng trách nhiệm cá nhân, không có chế độ khen thưởng, kỷ
luật cụ thể, nên tâm lý phổ biến chung là họ làm theo kiểu an phận, không nổ
lực hết mình, nhưng cũng không bỏ việc để tránh bị kiểm điểm. Hơn nữa, những
địa bàn này không có doanh nghiệp nào đến đầu tư (ngoại trừ một số địa bàn đặc
biệt), nên việc giải quyết công ăn việc làm cho người dân và các vấn đề xã hội
khác gặp khó khăn.
Mặc dù có nhiều nổ lực, song
hiệu quả đem lại chưa như ý muốn. Số hộ đói nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao (thậm chí nhiều nơi trên 50 %). Đây là
một thực trạng đáng quan tâm, nhưng đi tìm lời giải cho bài toán này không đơn
giản. Vì mỗi giải pháp nêu ra đều có những mặt tốt, mặt chưa tốt, còn đang
trong quá trình triển khai. Vì thế, tất cả mọi người cùng nên góp sức, góp ý
tưởng về giải pháp thoát nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số Tây nguyên lúc này
là việc nên làm. Với nhận thức như vậy, tôi xin đưa ra một mô hình:
|
||||||||||
|
||||||||||
Theo sơ đồ trên ta có thể
hiểu:
1. Về cán bộ kỹ
thuật: Theo tôi, mỗi xã chỉ cần 01
người là đủ. Lúc này, chúng ta không nên đặt nặng chuyện bằng cấp chuyên môn,
nhưng cần có chính sách thu hút người làm được việc, ưu tiên
tuyển chọn những người thật sự có kinh nghiệm, năng lực, nhất là những người
sinh sống tại làng lâu năm, biết tiếng dân tộc, biết phong tục tập
quán....
Về lương của cán bộ kỹ
thuật thì thực hiện theo cơ chế: Trong 01 năm đầu thì ngân sách huyện chi trả
100 % (so với trình độ chuyên môn và quy định chung của công chức xã), năm thứ
2 thì huyện trả 50 % và dân trong làng góp trả 50 % tương ứng, từ năm thứ 3 trở
về sau thì người cán bộ kỹ thuật và nhân dân trong làng tự thoả thuận, quyết
định mức thù lao theo thành quả sản xuất.
Việc để cán bộ kỹ thuật
do huyện trả lương gần 02 năm đầu có dụng ý:
Một là, khi tổ chức,
triển khai các hoạt động sản xuất cần có thời gian nhất định, giai đoạn đầu
chưa có thành quả ngay được, trong khoảng thời gian chờ đợi đó, cán bộ kỹ thuật
cũng cần có tiền để trang trải cuộc sống.
Hai là, việc đưa họ
“thành người của xã” có tiện lợi là sẽ biết được các thông tin về phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội..., cũng như có điều kiện kiến nghị với cấp trên trong
việc hỗ trợ giống, cây trồng, vật nuôi khi thực hiện thí điểm mô hình.
2. Người dân tham
gia thực hiện: Trước mắt có thể chọn
những hộ điển hình ở làng có thành tích lao động, sản xuất làm thí điểm, nếu
thành công thì nhân ra diện rộng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người dân
hiểu và tự giác thực hiện. Khi đã hiểu ra vấn đề thì để cho dân tự chựa chọn
cán bộ kỹ thuật làm đối tác để triển khai, chính quyền không được ép buộc phải
chọn lấy người này hoặc người kia.
3. Sự tư vấn, hỗ
trợ của huyện: Thể hiện ở các mặt cụ
thể:
- Cử cán bộ chuyên môn
đến hướng dẫn, tư vấn hoặc giới thiệu các mô hình đang làm ăn có hiệu quả trên
cả nước để người dân biết, tham khảo;
- Nếu dự án đang trong
quá trình triển khai thí điểm thì huyện sẽ hỗ trợ tất cả chi phí.
4. Sự lựa chọn mô
hình sản xuất phù hợp: Ở đây, việc
chọn lựa phương án sản xuất, kinh doanh do cán bộ kỹ thuật và nhân dân trong
làng tự bàn bạc, quyết định, chính quyền không nên can thiệp.
5. Về quy mô, địa bàn triển khai mô hình: Nên lấy đơn vị làng làm cơ sở thực hiện, không nên tổ chức trên phạm vi toàn xã.
Bởi vì, đối với đồng bào dân tộc thì làng là thiết chế nhỏ, nhưng bền chặt, ăn
sâu trong tâm thức người dân. Người cùng một làng mới đồng trách nhiệm, đồng
nghĩa vụ. Giữa các làng trong xã có thể khác nhau về thành phần tộc người,
huyết thống, phong tục tập quán... Do vậy, trong một xã thì nên tiến hành nhiều
loại mô hình chuyên canh theo từng làng (chẳng hạn như làng này trồng
rau thì làng khác trồng đậu, cà phê, chè….).
Để thực hiện tốt yêu
cầu trên, vấn đề đặt ra là chính quyền các cấp phải:
- Quản lý và tạo
điều kiện cho cán bộ kỹ thuật làm việc.
- Tìm kiếm thị
trường, giải quyết đầu ra của sản phẩm.
Muốn vậy, chính
quyền cơ sở các tỉnh Tây nguyên phải vững mạnh, hoạt động hiệu quả với đội ngũ
cán bộ tâm huyết, có phẩm chất, trình độ chuyên môn làm nòng cốt, cùng với việc
triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm giúp người dân thay đổi tư duy về kinh
tế, tạo động lực phát triển toàn diện các mặt; nếu ngược lại, sẽ tạo sức ỳ,
nhiều hệ luỵ mà ngày nay chúng ta thường biết đến đó là tính bảo thủ, trì trệ,
cục bộ địa phương, phe cánh mà người gánh hậu quả nhiều nhất là nhân dân.
Những vấn đề
trên có thể chưa đúng hoặc còn thiếu sót, mong độc giả góp ý kiến./.
=====
[1]
Đến nay tỉnh Lâm Đồng cơ bản đã hoàn thành định canh định cư,
tỉnh Kon Tum đạt 84%, tỉnh Gia Lai 86%, tỉnh Đăk Lăk 78%.
[2] Năm học 2006-2007, tỷ lệ học sinh
người dân tộc thiểu số là 33,94%, trong đó tiểu học chiếm 41,80%, THCS chiếm
30,14%, THPT chiếm 17,83%. Năm học 2007-2008, tương ứng là 34,65% (43,12%,
30,86%, 17,58%)
[3] Trong đó, Gia Lai còn
29,82%; Kon Tum 38,63%; Lâm Đồng 23,72%; Đăk Lăk
27,55%; Đăk Nông 33,73%. Có xã, có huyện còn 60-65% hộ DTTS đói nghèo.
[4] Trong 5
năm (2002-2006), toàn vùng đã đào tạo nghề cho 112.000 người, giải quyết việc
làm cho 409 ngàn lao động, trong đó 135.600 lao động DTTS, tuyển dụng 11.300 người
vào các công ty, nông trường, đưa số lao động DTTS trong các
doanh nghiệp lên 15.568 người; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới
4,5% .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét