Tạp chí Cộng sản - G20
là nhóm những quốc gia mạnh nhất thế giới, chiếm 85% nền kinh tế thế giới. G20
được thành lập năm 1999, sau khủng hoảng tài chính châu Á, để bàn về hợp tác
quốc tế giữa các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng Trung ương.
Các nước thành viên chính thức của
G20 gồm: Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-li-a, Bra-xin, Ca-na-đa, Trung Quốc, Pháp, Đức,
Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, I-ta-li-a, Nhật Bản, Mê-hi-cô, Nga, A-rập Xê-út, Nam Phi,
Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU).
Trước đây, khi xảy ra khủng hoảng,
nhóm các quốc gia giàu có, tập hợp trong câu lạc bộ G7 gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức,
Ý, Ca-na-đa và Nhật Bản, tự trao cho mình vai trò độc quyền “chữa cháy” cho thế
giới. Ngày nay mọi chuyện đã khác. Bên cạnh G7, tại Oa-sinh-tơn còn hiện diện 4
nền kinh tế mới nổi BRIC: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Bra-xin, cùng với
Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-li-a, In-đô-nê-xi-a, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Việc các nền
kinh tế mới nổi ngồi chung bàn hội nghị với các siêu cường phản ánh một thực tế
không thể chối cãi: các quốc gia đang cất cánh sẽ đóng vai trò đầu tàu cho nền
kinh tế thế giới trong tương lai, trong khi đó Mỹ, EU và nhiều quốc gia công
nghiệp khác đang lún sâu vào suy thoái kinh tế. Việc các quốc gia đang cất cánh
góp mặt với G7 báo hiệu thời đại mà vai trò của G7 dần dần lu mờ, nhường chỗ
cho một định chế mới là G20, trong đó Trung Quốc, Bra-xin, Ấn Độ và Nga có
tiếng nói và trọng lượng lớn hơn hẳn.
Thêm vào đó, các nền kinh tế mới nổi
còn cho rằng, với cách tổ chức hiện nay họ không có đủ quyền đại diện tại các
thể chế kinh tế quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(WB). Chính vì vậy, theo những nước này, bất kỳ bàn thảo nào về một hệ thống
tài chính toàn cầu mới cần có sự góp mặt của họ.
Một trong những thỏa thuận quan trọng
nhất của Hội nghị G20 là việc cải tổ hai thể chế tài chính lớn nhất hiện nay
của thế giới IMF và WB, cũng như tăng thêm sự hiện diện của các nước mới nổi
tại hai thể chế tài chính này. Đây là vấn đề được đặt ra từ 3 - 4 năm nay. Các
nhà lãnh đạo G20 cũng đã nhất trí với nhau trên ba hướng làm việc chính. Thứ
nhất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới bằng cách tạo điều kiện cho các chính
sách kích thích tăng trưởng. Thứ hai, cải cách hệ thống giám sát, kiểm
soát thị trường tài chính quốc tế. Thứ ba, rà soát lại việc điều hành
toàn cầu, chủ yếu bằng việc nghiên cứu vị trí của các nước mới trỗi dậy trong
các định chế tài chính như IMF và WB. Ngoài ra, theo đề nghị của Mỹ, các nhà
lãnh đạo G20 cam kết không nhượng bộ cho chính sách bảo hộ mậu dịch.
Một trong những thỏa thuận mà G20 đạt
được là đề ra nguyên tắc các nước phải tự chịu trách nhiệm về quản lý và điều
tiết thị trường tài chính, gạt bỏ ý tưởng thành lập một cơ chế siêu quốc gia,
một “siêu hiến binh” theo dõi, điều chỉnh các hoạt động của thị trường tài
chính thế giới.
Do các thị trường tài chính có liên
hệ với nhau, G20 chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế giữa các tổ chức điều
tiết quốc gia, củng cố các chuẩn mực tài chính quốc tế để bảo đảm việc áp dụng
được thực hiện một cách hài hòa.
Tại Hội nghị Pít-bớc, Mỹ (tháng
9-2009), lãnh đạo G20 đã tiến hành trao đổi quan điểm, thảo luận cách thức hỗ
trợ tiến trình phục hồi kinh tế. Một chủ đề lớn khác được giới chuyên gia và
công luận quan tâm là việc cải thiện hệ thống quản lý, theo dõi lĩnh vực tài chính
- ngân hàng, nơi xuất phát cuộc khủng hoảng. Trong hồ sơ này, các thành viên
G20 vẫn còn những bất đồng quan trọng.
Trong bản thông cáo kết thúc Hội nghị
thượng đỉnh Pít-bớc, các nhà lãnh đạo tuyên bố sẽ cùng hợp tác để tiến tới một
mô hình cân đối hơn cho tăng trưởng kinh tế thế giới.
Các nhà lãnh đạo G20 cũng cam kết sẽ
áp dụng những chuẩn mực quốc tế chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng trong các
đại công ty đa quốc gia để chấm dứt những tình trạng chấp nhận rủi ro quá đáng.
Bản thông cáo của G20 cũng cho biết
sẽ dân chủ hóa các thể chế như IMF hay WB, để các nước đang trỗi dậy chiếm một
trọng lượng lớn hơn trong các định chế tài chính đa quốc gia này.
Tham vọng của G20 là thiết lập một
trật tự kinh tế toàn cầu mới. Nhưng các tổ chức bảo vệ quyền lợi của các nước
nghèo lấy làm tiếc là G20 đã không đưa ra được biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ
các nước nghèo. Đó là bản dự thảo thông cáo không hề nói đến 50 tỉ USD mà các
nhà lãnh đạo này đã hứa cho các nước nghèo tại cuộc họp thượng đỉnh diễn ra vào
tháng 4-2009 ở Luân-đôn.
Hội nghị thượng đỉnh G20 đề cập đến
vấn đề gia tăng viện trợ - nhưng một cách tự nguyện - cho các nước nghèo để các
nước này có được năng lượng sạch. Ngoài ra, các tuyên bố của G20 về việc cải tổ
IMF để các nước đang nổi lên có được một vai trò xứng đáng cũng bị đánh giá là
còn quá yếu.
Do vậy, nếu IMF không thay đổi luật
lệ để các nước nghèo thật sự có quyền phát biểu về cách quản lý IMF, thì tổ
chức tài chính quốc tế này tiếp tục chỉ là một câu lạc bộ của những nước
giàu./.
Từ thực tiễn
công tác dân vận ở cơ sở tại Nam Bộ
TCCS - Là vùng đất trù phú, có những nét đặc
thù riêng, nhờ thực hiện tốt công tác dân vận, những năm vừa qua các tỉnh Nam
Bộ đã phát huy thế mạnh của mình, góp sức vào những thành tựu chung phát triển
đất nước. Để công tác dân vận thực hiện ngày càng tốt hơn, cần phải phát huy
những mặt mạnh và nhìn thẳng vào những hạn chế, yếu kém để sửa chữa tiến bộ.
Vài nét về công tác dân vận ở các
tỉnh, thành Nam Bộ
Gần đây, công tác dân vận tại các
tỉnh, thành trong khu vực không ngừng được nâng cao. Các cấp ủy đặc biệt quan
tâm đến công tác kiểm tra, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng liên quan đến công tác dân vận. Qua đó nắm bắt, giải quyết kịp
thời hoặc kiến nghị Trung ương những bức xúc từ cơ sở, đồng thời phát hiện
những mô hình hay, cách làm giỏi để nhân rộng, nhất là mô hình “Dân vận
khéo”. Căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương, các tỉnh, thành ủy
đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận ở cơ sở.
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã tổ chức nghiên cứu, đầu tư xây dựng các mô
hình tổ chức dân vận ở ấp, khóm. Ở An Giang có ban công tác vận động quần chúng
ấp; Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vĩnh Long có tổ dân vận ấp; ở Tiền Giang có khối dân
vận ấp..., đội ngũ làm công tác dân vận ấp đều được hưởng chế độ phụ cấp hằng
tháng từ nguồn kinh phí địa phương. Những mô hình này xuất hiện đầu tiên trong
cả nước, bước đầu phát huy tác dụng, là nét mới trong công tác dân vận ở các
tỉnh Nam Bộ.
Được sự quan tâm của các cấp ủy cùng
việc giúp đỡ của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân
ngày càng đổi mới phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, dân chủ, sát cơ
sở, kết hợp hài hòa giữa vận động với chăm lo lợi ích cho đoàn viên, hội viên.
Thực hiện quan điểm “đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng” của
Đảng, ngoài các tổ chức chính trị - xã hội truyền thống, hàng ngàn tổ chức quần
chúng trong khu vực nhanh chóng được thành lập, hầu hết đều chấp hành tốt đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đã góp phần tích cực vào sự phát triển đất
nước. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2008 có khoảng 5.000 hội (đội, nhóm,
câu lạc bộ) đang hoạt động, trong đó có 553 hội được Ủy ban nhân dân Thành phố
cấp phép.
Từ khi Chính phủ ban hành Chỉ thị 18,
ngày 21-9-2000, về “Tăng cường công tác dân vận của các cấp chính quyền”,
công tác dân vận của vùng có nhiều tiến bộ, các cấp chính quyền chú trọng thực
hiện quy chế dân chủ trong các loại hình cơ sở, nhất là công tác cải cách thủ
tục hành chính nhằm giảm bớt phiền hà cho nhân dân, phát huy dân chủ, phối hợp
với Mặt trận và các tổ chức đoàn thể trong giải quyết nhiều vấn đề ở địa
phương. Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương... hằng năm đã tổ chức tốt các
cuộc đối thoại giữa lãnh đạo địa phương với nhân dân, tạo được sự thông hiểu
giữa chính quyền với dân trong giải quyết những vấn đề bức xúc của dân.
Bên cạnh những tiến bộ vẫn còn không
ít hạn chế. Một số cấp ủy nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của công tác
dân vận trong tình hình hiện nay nên thiếu quan tâm, buông lỏng hoặc lúng túng
trong lãnh đạo công tác này. Ở một số địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chậm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, chưa làm tốt công tác
tham mưu, chậm phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân
cho Đảng. Trong giải quyết các điểm nóng tại các địa bàn xung yếu (vùng dân
tộc, tôn giáo, biên giới, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài), vận động các đối tượng đặc thù (chức sắc tôn giáo,
người có uy tín trong cộng đồng dân tộc, trí thức, sinh viên, tiểu thương, giới
chủ...) thì vai trò của Mặt trận và các đoàn thể còn hạn chế. Trình độ học vấn,
chính trị, kỹ năng vận động quần chúng của phần lớn cán bộ Mặt trận và các đoàn
thể chưa đồng đều. Tỷ lệ đoàn viên, hội viên trong nhân dân còn thấp, chất
lượng chưa cao, lực lượng nòng cốt trong các đoàn thể còn mỏng.
Công tác dân vận của các cấp chính
quyền còn nhiều hạn chế, phẩm chất và năng lực của một bộ phận cán bộ, công
chức chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thủ tục hành chính còn nhiêu khê, tạo kẽ
hở cho những hành vi tiêu cực. Một số cơ quan nhà nước có biểu hiện mất dân chủ
trong giải quyết những vấn đề nội bộ và những vấn đề liên quan đến lợi ích
người dân. Thời gian qua, nhiều công chức (hầu hết là trí thức) bỏ các cơ quan
nhà nước ra ngoài, các vụ khiếu kiện xảy ra... một phần bắt nguồn từ nguyên
nhân này.
Những bài học kinh nghiệm bước đầu
từ thực tiễn
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối
đổi mới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, các địa phương trong
khu vực đã thực sự quan tâm nhiều đến công tác “dân vận chính quyền”, coi đó là
bộ phận quan trọng nhất trong công tác dân vận của hệ thống chính trị hiện nay.
Bài học này xuất phát từ quan điểm “quan hệ giữa Đảng và nhân dân chủ yếu thông
qua chính quyền và bằng chính quyền”. Điều đó cũng có nghĩa, trong công tác dân
vận của hệ thống chính trị hiện nay vai trò của chính quyền rất quan trọng, cần
được đặt lên hàng đầu.
Tại Thành phố Hồ
Chí Minh, đến năm 2008 có khoảng 5.000 hội (đội, nhóm, câu lạc bộ) đang hoạt
động, trong đó có 553 hội được Ủy ban nhân dân Thành phố cấp phép.
|
Để chính quyền có cơ sở làm tốt công
tác dân vận trước tiên phải xuất phát từ đường lối của Đảng. Đường lối của Đảng
là căn cứ để chính quyền đề ra chính sách. Đường lối của Đảng đúng, tự nó đã
chứa đựng và bao hàm yếu tố dân vận. Đơn cử như trên mặt trận nông nghiệp, cuối
thập niên 70 và gần hết thập niên 80 của thế kỷ XX, chúng ta loay hoay mãi trong
cơ chế quản lý cũ nên dân vẫn thiếu ăn, hằng năm phải nhập hàng trăm ngàn tấn
lương thực. Nhưng năm 1989, chỉ sau 1 năm chính quyền các cấp tổ chức thực hiện
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, ban hành ngày 05-4-1988, “Về đổi mới kinh tế
nông nghiệp”, trong đó xác định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, đã tạo ra
một cuộc cách mạng thực sự trong nông nghiệp. Không cần vận động nông dân
nhiều, chúng ta đạt 21,5 triệu tấn lương thực, không những đáp ứng đủ nhu cầu
trong nước mà còn xuất khẩu 1,1 triệu tấn gạo, trong đó vựa lúa đồng bằng sông
Cửu Long đóng vai trò to lớn.
Thứ hai, từ thực tiễn ở Nam
Bộ, cần hướng mạnh công tác dân vận về cơ sở, trước hết là địa bàn khóm, ấp,
phum, sóc, khu phố (gọi chung là ấp); coi công tác dân vận ở ấp quyết định sự
thành bại của việc đưa chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước
vào cuộc sống. Quy mô ấp Nam Bộ trung bình có từ 300 đến 350 hộ, khoảng từ
1.500 - 2.000 nhân khẩu được sinh hoạt hầu hết trong các tổ chức tự quản. Tuy
không phải là một cấp hành chính, nhưng trong thực tế, ấp hình thành một bộ máy
tương đối hoàn chỉnh, có chi bộ đảng; trưởng ấp (và ban tự quản ấp) do dân trực
tiếp bầu ra, vừa đại diện cho xã, vừa đại diện cho dân; công an ấp và ấp đội;
ban công tác mặt trận và các chi hội đoàn thể; cùng với các đại diện trên còn
có sự hiện diện của các hội quần chúng. Các loại hình tổ chức này, do chi bộ ấp
trực tiếp lãnh đạo. Không phải là cấp xã, mà là ở ấp nơi trực tiếp tập hợp quần
chúng, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực trên các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng. Và ấp là nơi các đoàn thể gần gũi, sâu sát với đoàn
viên, hội viên và quần chúng nhân dân, nắm bắt chính xác, kịp thời diễn biến tư
tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh kịp thời cho Đảng
và Nhà nước điều chỉnh, bổ sung đường lối, chính sách...
Thứ ba, học tập và làm theo
lời Bác Hồ dạy “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Qua tổng kết, tổ
chức hội thi “Dân vận khéo” từ cơ sở đến cấp tỉnh, thành vào dịp 15 tháng 10
hằng năm (Ngày Truyền thống công tác dân vận) tại các địa phương đã có tác dụng
giáo dục rất hiệu quả trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đây
cũng là dịp các địa phương, đơn vị xây dựng các mô hình, điển hình tiên tiến
trong công tác dân vận để nhân rộng.
Thứ tư, địa phương nào quan
tâm đến cán bộ dân vận, tạo điều kiện cho công tác dân vận hoạt động, thì nơi
đó phong trào quần chúng có nhiều khởi sắc. Cán bộ làm công tác dân vận ngoài
có tâm, có tầm, phải có sở trường, năng khiếu, đặc biệt nhiệt tình với công tác
dân vận. Qua thực tiễn cho thấy, ở đâu không có cán bộ phù hợp thì ở đó không
có phong trào mạnh. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề đó, các địa phương
trong khu vực đã luôn luôn coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ, củng
cố bộ máy, tạo kinh phí và phương tiện làm công tác dân vận ở các cấp, đặc biệt
là địa bàn khóm, ấp. Nhờ đó năng lực đội ngũ làm công tác dân vận trong khu vực
ngày càng được nâng lên.
Để tiếp tục làm tốt công tác dân
vận trong thời kỳ mới
Một là, tiếp tục nâng cao nhận
thức về tầm quan trọng của công tác dân vận trong thời kỳ mới. Tổ chức học tập,
quán triệt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân các quan điểm, đường
lối của Đảng về công tác dân vận, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa VI, ngày 27-3-1990, “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đồng thời chú trọng đến các nghị quyết về đại
đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, tôn giáo, công nhân, nông dân, trí
thức ban hành thời gian gần đây. Nam Bộ có nét đặc thù: vừa trải qua hai cuộc
chiến tranh chưa lâu; tình hình dân tộc, tôn giáo, trí thức, sinh viên, công
nhân phong phú và phức tạp nên càng đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận
và các đoàn thể trong khu vực càng phải nhận thức bài học trên một cách thật
sâu sắc.
Vấn đề mấu chốt
trong đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng là xây dựng lực lượng nòng
cốt của các đoàn thể đủ mạnh, bảo đảm vai trò “hạt nhân” để tổ chức và phong
trào phát triển mạnh mẽ đúng hướng.
|
Hai là, tăng cường thực hiện
đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, kết hợp với xây dựng lực lượng
xung kích nòng cốt. Quan điểm vận động quần chúng cơ bản nêu trong Nghị quyết
Trung ương 8B là thực hiện đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng. Gần 25
năm thực hiện đường lối đổi mới, ngoài các đoàn thể truyền thống, trên thực tế
ở khu vực Nam Bộ đã ra đời hàng ngàn hội quần chúng ở cơ sở, nhất là ở các
thành phố lớn. Vấn đề mấu chốt trong đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần
chúng là xây dựng lực lượng nòng cốt của các đoàn thể đủ mạnh, bảo đảm vai trò
“hạt nhân” để tổ chức và phong trào phát triển mạnh mẽ đúng hướng. Nói một cách
khác, các đoàn thể vừa tập hợp quần chúng rộng rãi, vừa phải có nòng cốt vững
chắc, tránh rơi vào tình trạng cực đoan, hẹp hòi, cô độc, hoặc mở rộng tràn lan
mà không có nòng cốt. Nòng cốt của đoàn thể thường phân làm hai loại, nòng cốt
phong trào và nòng cốt chính trị. Nòng cốt phong trào giữ vai trò xung kích
trong các phong trào hành động cách mạng của Mặt trận và các đoàn thể, bao gồm
chủ yếu là đoàn viên, hội viên và quần chúng tích cực. Nòng cốt chính trị là
nòng cốt trong các địa bàn trọng điểm, các đối tượng đặc thù sinh hoạt bên
trong các tập hợp quần chúng (như vùng dân tộc, tôn giáo, người đứng đầu các
dân tộc, chức sắc tôn giáo...). Vừa qua, trong khu vực còn xảy ra nhiều điểm
nóng, một phần do chúng ta chưa xây dựng được nòng cốt chắc chắn.
Ba là, đẩy mạnh phong trào vận
động cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, phát huy dân chủ, nhất là ở cơ sở và
địa bàn ấp. Đẩy mạnh vận động các phong trào này sẽ đem lại lợi ích thiết thực
cho các tầng lớp nhân dân. Nam Bộ là vùng đất giàu tiềm năng vào bậc nhất đất
nước, nhưng người dân còn nghèo, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực
thấp so với mặt bằng chung của cả nước; tình trạng mất dân chủ vẫn diễn ra
không ít nơi. Nên phong trào cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, phát huy dân
chủ phải được đề cao hơn và phải trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Bốn là, cấp ủy các cấp đặc
biệt coi trọng công tác dân vận của các cấp chính quyền và coi đây là điểm mấu
chốt của công tác dân vận. Điều chỉnh lòng dân qua chính sách, kết quả cải cách
thủ tục hành chính, tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ đối với nhân dân, sẽ
giúp hóa giải nhiều bức xúc của người dân đối với chính quyền. Các cấp chính quyền
phát huy dân chủ, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong các loại hình cơ
sở. Bởi lẽ, “Dân chủ là chìa khóa vạn năng, việc gì dù khó mấy nếu dân chủ bàn
bạc đều làm được”. Chính quyền phải phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Mặt trận và
các đoàn thể trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc ở địa phương, qua đó
chính quyền sẽ làm tốt hơn công tác dân vận của chính mình./.
Về chiến lược
rút khỏi Áp-ga-ni-xtan của Tổng thống Mỹ
TCCSĐT - Ngày 1-12-2009, Tổng thống Mỹ Ba-rắc
Ô-ba-ma chính thức tuyên bố về chiến lược mới của Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan, theo đó,
Mỹ sẽ tăng thêm 30.000 quân cho chiến trường này và bắt đầu rút quân khỏi đây
từ năm 2011. Ngay lập tức, tuyên bố của Tổng thống B. Ô-ba-ma đã thu hút sự
quan tâm đặc biệt của dư luận Mỹ và thế giới.
Triển vọng mờ mịt của chiến lược
“ba con cá voi”
Trong tuyên bố của mình, Tổng thống
B. Ô-ba-ma khẳng định: “Chúng ta sẽ theo đuổi các mục tiêu, tận diệt hang ổ
cuối cùng của tổ chức khủng bố An Kê-đa; giành thế chủ động trước Ta-li-ban và
loại bỏ khả năng trở lại cầm quyền của chúng ở Áp-ga-ni-xtan; giúp đỡ các cơ
quan an ninh và chính phủ Áp-ga-ni-xtan tự chịu trách nhiệm trước tương lai và
vận mệnh của mình”.
Để thực hiện các mục tiêu đó, Tổng
thống B. Ô-ba-ma cho rằng, Mỹ sẽ dựa trên sức mạnh của “ba con cá voi”, đó là:
hoạt động quân sự chống lại Ta-li-ban; hợp tác với Liên hợp quốc, các đối tác
quốc tế và nhân dân Áp-ga-ni-xtan; hợp tác chặt chẽ với Pa-ki-xtan. Hồi tháng
8-2009, Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ và NATO tại Áp-ga-ni-xtan, Tướng Xten-li
Mác-cri-xtơn (Stanley McChrystal) đã từng cảnh báo, nếu Mỹ không gửi ít nhất
40.000 quân đến Áp-ga-ni-xtan thì Oa-sinh-tơn có thể sẽ gánh chịu thất bại
trong cuộc chiến với Ta-li-ban ở quốc gia Trung Á này.
Theo thông báo chính thức của Chính
phủ Mỹ, việc gửi thêm quân tham chiến đến Áp-ga-ni-xtan sẽ tiêu tốn từ 25-30 tỉ
USD trong ngân sách quốc gia Mỹ năm 2010. Nhưng giới phân tích cho rằng, chi
phí cho chiến tranh là chuyện không ai nói trước được. Thí dụ, ở I-rắc, chi phí
cho chiến tranh đã vượt quá mức dự kiến và lên tới 300 tỉ USD. Vậy nên, con số
30 tỉ USD cho chiến trường Áp-ga-ni-xtan chỉ mới là “những giọt dầu bôi trơn”
ban đầu cho cỗ máy chiến tranh của Mỹ tiếp tục vận hành.
Theo Tổng thống B. Ô-ba-ma, Mỹ dự
kiến sẽ bắt đầu rút quân khỏi Áp-ga-ni-xtan sau 18 tháng, kể từ khi tăng viện
lần này. Lần đầu tiên, trong lịch sử chiến tranh, Tổng thống B. Ô-ba-ma là
người tuyên bố trước thời hạn rút quân khi đưa ra quyết định về một chiến lược
chiến tranh mới. Nhiều chuyên gia phân tích quân sự cho rằng, tuyên bố của Tổng
thống B. Ô-ba-ma giống với kịch bản phim Hô-li-út, hoặc trò chơi điện tử trên
máy tính, hơn là một chiến lược quân sự.
Phản ứng từ các đồng minh của Mỹ
trong khối NATO
Ngày 2-12-2009, Tổng thư ký NATO, ông
An-đrê Phốc Ra-xmu-xen (Anders Fogh Rasmussen) tuyên bố rằng, đây không phải là
cuộc chiến của riêng nước Mỹ. Do đó, trong năm 2010, NATO có kế hoạch sẽ tăng
cường thêm 5.000 quân cho các lực lượng quốc tế tại Áp-ga-ni-xtan. Tổng thư ký
NATO tuyên bố vậy thôi, chứ cam kết tăng viện cho các lực lượng của liên minh
này ở Áp-ga-ni-xtan là một nhiệm vụ khó khăn, bởi chính phủ nhiều nước liên
minh của Mỹ trong NATO đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế với thâm
hụt ngân sách lớn. Các cuộc thăm dò cho thấy, hầu hết người dân châu Âu phản đối
việc tăng quân cho chiến trường Áp-ga-ni-xtan, cũng không ít người coi cuộc
chiến tranh ở Áp-ga-ni-xtan là “vô nghĩa” và không có triển vọng giành chiến
thắng. Đó là chưa kể tới tình hình quân đội các nước NATO tranh giành nhau các
khu vực ít xảy ra chiến sự, bởi không ai muốn rơi vào những vùng được mệnh danh
là “chiếc cối xay thịt” như ở Áp-ga-ni-xtan. Tại thời điểm này, chỉ có Anh, Ba
Lan, Xlô-va-li-a, Thổ Nhĩ Kỳ, Gru-di-a, Hàn Quốc và Mông-tê-nê-grô có tín hiệu
sẵn sàng điều động thêm binh lính gia nhập lực lượng liên minh do Mỹ chỉ huy ở
Áp-ga-ni-xtan. Nhật Bản tuyên bố sẽ không gửi quân tham gia, còn Đức và Pháp
đang “cân nhắc”.
Theo tin của hãng thông tấn “Novosti”
(Nga), mặc dù đại diện của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao của
Áp-ga-ni-xtan ra tuyên bố cho rằng, chiến lược của Tổng thống B. Ô-ba-ma là “có
lợi” cho quốc gia này, rằng mối quan hệ chiến lược giữa Mỹ và Áp-ga-ni-xtan
mang tính lâu dài, cho phép tăng cường đáng kể tiềm lực quân đội quốc gia và
lực lượng an ninh, nhưng nhiều nghị sĩ của Nghị viện Áp-ga-ni-xtan không mấy vồ
vập với chiến lược mới này của Mỹ.
Đáng chú ý nhất là ý kiến của bà
Su-ri-a Ba-ra-dai (Shukria Barakzai), Nghị sĩ Áp-ga-ni-xtan. Bà nhận xét: “Đây
là chiến lược tốt đối với Mỹ, chứ không phải với chúng tôi. Trong chiến lược
này không có từ nào nói về bảo vệ quyền con người hay phát triển chế độ dân chủ
tại Áp-ga-ni-xtan. Mỹ và châu Âu, những quốc gia nắm trong tay lực lượng quân
đội, tài chính, quyền lực chính trị và nhiều thứ khác không thể bảo đảm hòa
bình và an ninh trên lãnh thổ Áp-ga-ni-xtan trong suốt 8 năm qua, nay lại muốn
đẩy trách nhiệm này cho lực lượng an ninh và quân đội Áp-ga-ni-xtan”.
Trong bài phát biểu ngày 2-12-2009,
tại cuộc “Tọa đàm bàn tròn” của kênh truyền hình tư nhân “Tô-lô” ở
Áp-ga-ni-xtan, bà Su-ri-a Ba-ra-dai khẳng định, hiện nay lực lượng an ninh và
quân đội Áp-ga-ni-xtan vẫn chưa sẵn sàng nhận sự chuyển giao trách nhiệm từ
phía Mỹ. Chiến lược của Mỹ tại Áp-ga-ni-xtan không thể là tạm thời, chóng vánh,
mà phải là một chiến lược lâu dài. Theo bà Su-ri-a Ba-ra-dai, các giải pháp của
cả hai phía (Mỹ và chính phủ ở Ca-bun) đối với vấn đề Áp-ga-ni-xtan vẫn còn
“non tay”. Năm 2001, Áp-ga-ni-xtan không có hệ thống vận hành quốc gia hiệu
quả. Hiện nay vẫn vậy. Bà Su-ri-a Ba-ra-dai nhận xét, Mỹ đã không lựa chọn sự
hợp tác chính trị với Áp-ga-ni-xtan theo hệ thống mà chỉ hợp tác với các cá
nhân riêng biệt và đang tiếp tục làm như thế mặc dù những cá nhân đó không phải
lúc nào cũng cần thiết cho Áp-ga-ni-xtan. Bà tuyên bố: “Đến năm 2011, chúng tôi
hiểu rõ trách nhiệm của mình, nhưng chiến lược mới của Tổng thống B. Ô-ba-ma
tạo ra nguy cơ chiến tranh rõ rệt cho nhân dân và Chính phủ Áp-ga-ni-xtan”.
Một nghị sĩ khác của Áp-ga-ni-xtan,
ông Đa-út Xun-tan-dâu (Daoud Sultanzoy), nhận xét: “Chiến lược mới của Tổng
thống B. Ô-ba-ma là chiến lược nhanh chóng rút quân khỏi Áp-ga-ni-xtan, trong
khi việc rút quân này vẫn còn quá sớm”. Theo ông, cùng với chiến lược mới, Tổng
thống B. Ô-ba-ma phải ra lời kêu gọi tiến hành cuộc chiến chống nạn tham nhũng
ở Áp-ga-ni-xtan, bởi nạn tham nhũng trong chính quyền ở Ca-bun là trở ngại
chính của mọi vấn đề, từ phát triển kinh tế đến bảo đảm an ninh.
Các chuyên gia quân sự phương Tây
nói gì?
Nhận xét về chiến lược mới ở
Áp-ga-ni-xtan của Tổng thống B. Ô-ba-ma, các chuyên gia quân sự phương Tây cho
rằng, để quân đội và cảnh sát Áp-ga-ni-xtan có thể kiểm soát được tình hình an
ninh trong nước, quốc gia này phải có quân đội với quân số khoảng 400.000 quân.
Tuy nhiên, hiện nay lực lượng vũ trang của Áp-ga-ni-xtan chưa thể gọi là một
đội quân cần có các lực lượng thông thường và thiết yếu nhất như không quân,
pháo binh, các thiết bị kỹ thiết giáp, tên lửa.
Áp-ga-ni-xtan đã từng có quân đội
chính quy được trang bị và huấn luyện khá tốt sau ngày 15-2-1989, khi Liên Xô
rút quân về nước. Lực lượng vũ trang khá mạnh đó đã cho phép quân đội của ông
Mô-ha-mát Na-gia-bu-lát (Mohammad Najibullah), Tổng thống Áp-ga-ni-xtan khi đó,
đánh bại các cuộc tấn công của lực lượng phản cách mạng và các lực lượng xâm
nhập từ phía Pa-ki-xtan trong thời gian 3 năm. Chỉ sau khi Liên Xô tan rã và
không còn viện trợ quân sự cho Áp-ga-ni-xtan, chế độ cầm quyền ở Áp-ga-ni-xtan
mới bị lật đổ.
Còn hiện nay, với một lực lượng quân
sự và an ninh có sức chiến đấu được trợ giúp bằng sức mạnh quân sự và kinh tế
của Mỹ như ở Áp-ga-ni-xtan, thì liệu trong 18 tháng, Mỹ và liên quân có phép
màu nào huấn luyện được một đội quân đủ sức bảo đảm an ninh cho sự tồn tại của
một chính phủ sau khi quân Mỹ và liên quân rút đi. Rõ ràng, đây là bài toán
chưa có lời giải. Nhiều chuyên gia quân sự đã từng bàn tới một thất bại của Mỹ
ở Áp-ga-ni-xtan giống như Liên Xô trước đây.
Người Mỹ nói gì?
Theo kết quả điều tra dư luận gần đây
của hãng thống tấn CNN và hãng thăm dò ý kiến Opinion research company, hiện
chỉ có 45 % người Mỹ được hỏi ý kiến tỏ ra ủng hộ cuộc chiến tranh ở
Áp-ga-ni-xtan, thấp hơn nhiều so với con số 90% năm 2001.
Ngay sau khi Tổng thống B. Ô-ba-ma
tuyên bố kế hoạch tăng quân để rút khỏi Áp-ga-ni-xtan, nhiều nghị sĩ trong Quốc
hội Mỹ đã lên tiếng chỉ trích gay gắt kế hoạch bắt đầu rút lính Mỹ khỏi
Áp-ga-ni-xtan vào tháng 7-2011. Hầu hết các thành viên Đảng Cộng hòa đều ủng hộ
quyết định gửi thêm quân tới nhưng họ cho rằng, Tổng thống B. Ô-ba-ma đang chơi
trò chính trị khi đưa ra hạn chót rút quân theo kiểu “tùy hứng” mà lẽ ra, kế
hoạch này phải dựa trên thực tế tình hình lúc đó ở Áp-ga-ni-xtan. Một số thành
viên của Đảng Dân chủ thì tỏ ý lo ngại, liệu quyết định của Tổng thống B.
Ô-ba-ma tăng viện cho chiến trường Áp-ga-ni-xtan có thể mang lại chiến thắng
hay không? Ông Cô-ni-e Mác (Connie Mack), người của Đảng Cộng hòa và là thành
viên Ủy ban Phụ trách các vấn đề đối ngoại của Quốc hội Mỹ tuyên bố, ông không
tán thành quyết định của Tổng thống B. Ô-ba-ma về cách ứng xử như thế với kẻ
thù của nước Mỹ. Theo ông, khi Mỹ thực hiện kế hoạch tăng viện để rút quân,
Ta-li-ban có thể tập hợp lại và tái kiểm soát lãnh thổ Áp-ga-ni-xtan. Thượng
nghị sĩ Giôn Mác-kên, đối thủ của ông B. Ô-ba-ma trong cuộc đua vào Nhà Trắng,
thì tuyên bố: “Quyết định tăng viện được đưa ra đồng thời với tuyên bố về thời
điểm chính xác bắt đầu rút quân Mỹ là hai tuyên bố không phù hợp với nhau”.
Ta-li-ban đang chuẩn bị “nghênh
tiếp” quân Mỹ tăng viện
Các lực lượng thuộc Phong trào
Ta-li-ban đã từng gây sóng gió và chết chóc cho quân đội Mỹ và liên quân ở
Áp-ga-ni-xtan trong 8 năm qua, sau khi nghe tin Tổng thống B. Ô-ba-ma tuyên bố
chiến lược mới chống khủng bố, đang tỏ ra “háo hức” chuẩn bị để “nghênh tiếp”
lực lượng Mỹ sắp tăng viện.
Theo tuyên bố của một trong các thủ
lĩnh Ta-li-ban ở tỉnh Va-đắc (Áp-ga-ni-xtan) với hãng thông tấn BBC, ở miền
đông Áp-ga-ni-xtan, các lực lượng Ta-li-ban không hề hạ vũ khí và mất sức chiến
đấu sau hai lần Mỹ tăng viện cho các lực lượng kiểm soát tại đây trong năm
2009. Họ cũng không chấp nhận đàm phán hòa bình với Mỹ. Theo viên chỉ huy này,
Ta-li-ban chỉ hạ vũ khí một khi quân nước ngoài chiếm đóng rút khỏi
Áp-ga-ni-xtan. Thậm chí, y tuyên bố, việc Tổng thống B. Ô-ba-ma quyết định tăng
viện cho chiến trường Áp-ga-ni-xtan chỉ tạo điều kiện cho Ta-li-ban tiêu diệt
được nhiều quân Mỹ hơn! Ngay cả với những lực lượng hạn chế, Ta-li-ban vẫn có
thể gây thiệt hại nhiều hơn đối với Mỹ, bởi họ có ưu thế “chơi trên sân nhà” và
thuộc lòng địa hình địa vật vô cùng hiểm trở ở quốc gia Trung Á đầy bí ẩn này.
Áp-ga-ni-xtan không phải là I-rắc chỉ
có phần lớn là sa mạc mênh mông. Áp-ga-ni-xtan là một “mê cung” mà người ngoại
bang dường như không thể thấu hiểu. Năm 2009 là năm để lại tổn thất nhiều nhất
cho quân Mỹ và NATO ở Áp-ga-ni-xtan kể từ năm 2001. Trong năm, có tới 486 lính
thiệt mạng, trong đó quân Mỹ chiếm 299 người, Anh chiếm 99 người./.
Những “bức
tường” mới mọc lên sau khi Bức tường Béc-linh sụp đổ
TCCSĐT - Kể
từ khi Bức tường Béc-linh sụp đổ, sự cạnh tranh và xung đột mới về địa - chính
trị, xung đột sắc tộc - tôn giáo và mâu thuẫn do khoảng cách giàu - nghèo ở
nhiều khu vực khác nhau trên thế giới ngày càng gia tăng. Những “bức tường” mới
mọc lên trong 20 năm qua khó có thể được dỡ bỏ trong một sớm một chiều, thậm
chí có thể phải cần tới hàng thế kỷ.
Là biểu tượng của “chiến tranh lạnh”,
sự kiện Bức tường Béc-linh sụp đổ ngày 9-11-1989 được coi là dấu mốc kết thúc
sự đối đầu giữa hai hệ thống chính trị thế giới và giữa hai khối quân sự lớn
nhất hành tinh - khối NATO và khối Vác-xa-va, đồng thời mở đầu cho những thay
đổi không chỉ ở Đức mà cả châu Âu. Ban đầu, dư luận cho rằng, từ đây không còn
phân tuyến chia cắt châu Âu, nhưng trên thực tế đã không diễn ra như vậy.
Sau khi Bức tường Béc-linh sụp đổ,
Liên minh quân sự của Hiệp ước Vác-xa-va giải thể nhưng Tổ chức Hiệp ước quân
sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) vẫn tồn tại. Cựu Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ (cha) hứa
với cựu Tổng thống Liên Xô M. Goóc-ba-chốp rằng, “NATO sẽ không tiến về phía
Đông dù chỉ là một mét”! Nhưng lời hứa đó “không cánh mà bay”. Theo chủ trương
chiến lược từ Oa-sinh-tơn, các nước trước đây đã từng là thành viên khối
Vác-xa-va được kết nạp vào NATO, trong đó có các nước cộng hoà thuộc Liên Xô
trước đây như Lít-va, Lát-vi-a và E-xtô-ni-a. Giờ đây, cả U-crai-na và Gru-di-a
đang “xếp hàng” để đến lượt được kết nạp vào NATO.
Mỹ chủ trương dựng lên một “bức
tường” khác nhằm chia cắt châu Âu. Chủ trương đó đã dẫn tới hai nhóm mâu thuẫn:
Một là, mâu thuẫn giữa các
nước “châu Âu cũ” gồm Đức, Pháp, Tây Ban Nha, I-ta-li-a, v.v. đang có xu hướng
“ly khai” khỏi quỹ đạo của Mỹ, với các nước trong khối “châu Âu mới” gồm các
nước Đông Âu vừa mới gia nhập NATO như Ba Lan và Cộng hoà Séc, v.v. có xu hướng
gắn bó ngày càng chặt chẽ với Mỹ. Trong khi các nước “châu Âu cũ” từng phản đối
cuộc chiến tranh của Mỹ ở I-rắc, thì các nước “châu Âu mới” nhiệt tình ủng hộ
cuộc chiến này.
Hai là, mâu thuẫn giữa các
nước “châu Âu cũ” và “châu Âu mới” với Nga. Trong đó, các nước “châu Âu mới”
một thời đã từng là đồng minh của Nga thì nay mâu thuẫn gay gắt hơn nhiều so
với mâu thuẫn giữa các nước “châu Âu cũ” với Nga. Để hiểu được “điều kỳ lạ”
này, phải nhớ lại tuyên bố “nổi tiếng” của cựu Tổng thống G.W. Bu-sơ rằng, châu
Âu bị chia rẽ sẽ dễ “cai quản” hơn một châu Âu thống nhất, hơn thế, lại là một
châu Âu có Nga gia nhập. Vì thế, kế hoạch xây dựng hệ thống lá chắn tên lửa đạn
đạo do cựu Tổng thống G.W.Bu-sơ đề xướng bố trí trên lãnh thổ hai nước Ba Lan
và Cộng hòa Séc thuộc khối “châu Âu mới” mà không cần tham khảo ý kiến của các
đồng minh trong “châu Âu cũ”, được ví như “cái gai” không chỉ nhằm chia rẽ hai
khối đồng minh của Mỹ ở châu Âu, mà còn khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các nước
“châu Âu mới” với Nga. Việc Oa-sinh-tơn lập luận rằng, lá chắn tên lửa ở Đông
Âu nhằm đối phó với nguy cơ tiến công bằng tên lửa tầm xa từ phía I-ran, theo
giới phân tích, chỉ là sự ngụy biện, còn thực chất là dùng cái “ô an ninh” như
thời “chiến tranh lạnh” để tập hợp các nước “châu Âu mới” trong vòng ảnh hưởng
của Mỹ.
Trong bối cảnh đó, ở châu Âu còn hình
thành một “bức tường” mới, gọi là “bức tường Shen-gen” (thực chất là Hiệp ước
Shen-gen), theo đó, các công dân thuộc các nước Ba Lan, Cộng hòa Séc,
Hung-ga-ri, các nước vùng Ban-tích được quyền tự do đi lại trên lãnh thổ các
nước châu Âu, còn công dân các nước Nga và U-crai-na không có được quyền đó. Để
có thể xuất nhập cảnh vào các nước châu Âu, công dân Nga và U-crai-na cần phải
xin phép để được cấp thị thực nhập cảnh mà người ta gọi là “visa Shen-gen”. Như
vậy, sau 20 năm Bức tường Béc-linh sụp đổ, ở châu Âu đang tồn tại những “bức tường”
ngăn cách khác, khiến người ta có cảm nhận rằng, “chiến tranh lạnh” chưa bao
giờ kết thúc đối với nước Nga. Đằng sau những “bức tường” mới đó là một cuộc
chiến tranh khác biến tướng từ “chiến tranh lạnh”. Đó là cuộc chiến tranh địa -
chính trị và địa - kinh tế ở châu Âu và nhiều khu vực khác trên thế giới.
Thực hiện chiến lược chiến tranh địa
- chính trị, vừa đúng hai tháng sau khi Bức tường Béc-linh sụp đổ, cựu Tổng
thống G.Bu-sơ (cha) ra lệnh điều 26 nghìn quân xâm lược Pa-na-ma, mở đầu chính
sách sử dụng sức mạnh quân sự để giành giật lợi ích chiến lược về địa - chính
trị. Năm 1991, Mỹ phát động cuộc chiến tranh vùng Vịnh Péc-xích lần thứ nhất và
đến năm 2003, phát động cuộc chiến tranh vùng Vịnh Péc-xích lần thứ hai. Cả hai
cuộc chiến tranh đều nhằm vào I-rắc. Giữa hai cuộc chiến tranh đó, Mỹ và NATO
đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tư vào cuối năm 1998, đầu năm 1999.
Sau cuộc chiến tranh này, Mỹ đã dựng lên một nhà nước mới ở Cô-xô-vô - lãnh thổ
thiêng liêng của người Xéc-bi ở Nam Tư. Năm 2001, mượn cớ tiến hành “cuộc chiến
tranh toàn cầu chống khủng bố”, Mỹ phát động cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan và
tới nay vẫn còn bị sa lầy ở đó. Đồng thời, chính quyền của cựu Tổng thống G.W.
Bu-sơ đã tuyên bố rút khỏi Hiệp ước phòng thủ tên lửa đã từng ký với Liên Xô
năm 1972 - một hiệp ước đóng vai trò cực kỳ quan trọng bảo đảm an ninh và hoà
bình trong quan hệ Mỹ - Liên Xô trước đây và Mỹ - Nga sau này.
Có thể thấy, những cuộc chiến tranh
do Mỹ phát động trong 20 năm qua đều gắn liến với chiến lược địa - chính trị
của Oa-sinh-tơn ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Đó là các khu vực
Trung Đông (tâm điểm là I-rắc và I-ran), Trung Á (tâm điểm là Áp-ga-ni-xtan và
các nước cộng hoà Xô-viết trước đây), Ban-căng (tâm điểm là Cô-xô-vô), biển
Ca-xpi (tâm điểm là Gru-di-a), Bắc Cực, châu Phi, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, v.v..
Trong đó, “nóng” nhất vẫn là các khu vực Trung Đông, Ban-căng, Trung Á, biển
Ca-xpi, châu Phi và Bắc Cực.
Ngoài những “bức tường” mọc lên do
những toan tính về địa - chính trị, sau khi Bức tường Béc-linh sụp đổ, trên thế
giới đang hình thành những “bức tường” do các thế lực phản động lợi dụng chủ
nghĩa dân tộc dựng lên. Giôn Miếc-sây-mơ (John Mirsaymer), một
đại diện của trường phái chủ nghĩa hiện thực chính trị mới và là một trong
những người có thái độ dè chừng trước sự kiện Bức tường Béc-linh sụp đổ năm
1989 đã từng dự báo, trong không khí sôi động năm 1989, ít ai nghĩ rằng sự kiện
Bức tường Béc-linh sụp đổ mở đầu sự thống nhất nước Đức sẽ để lại hậu quả chia
rẽ thế giới đến kinh ngạc trong những năm sau đó. Trong 20 năm qua, ở châu Âu
hình thành mới 20 quốc gia và ít nhất có 5 vùng lãnh thổ đang đòi thành lập nhà
nước có chủ quyền. Trong gần một nửa trường hợp thành lập quốc gia mới đó đều
kéo theo các cuộc xung đột đẫm máu, gây hận thù dân tộc và hình thành hố ngăn
cách về chính trị - xã hội giữa các dân tộc đã từng cùng chung sống. Biểu tượng
chia rẽ dân tộc đáng chú ý nhất là những chiếc cầu. Đó là cây cầu bắc qua sông
I-bơ (Ibar) ở vùng Mi-trô-vi-xa của Cô-xô-vô chia cắt phần lãnh thổ của người
An-ba-ni với người Xéc-bi chiếm đa số; cây cầu bắc qua sông In-gu-ri ngăn cách
người Gru-di-a với người Áp-kha-di-a. Bốn cuộc chiến tranh ở Ban-căng, trong đó
có sự tham gia của NATO và năm cuộc xung đột vũ trang trong không gian hậu
Xô-viết, phần lớn là do xung đột dân tộc - sắc tộc bị các thế lực phản động xúi
giục, kích động mà bùng phát.
Ngoài ra, còn một “bức tường” ngăn
cách ngày một cao giữa cái giàu và cái nghèo của thế giới. Hai mươi năm
qua, mặc dù quá trình toàn cầu hoá đã mang lại nhiều kết quả cho sự phát triển
của thế giới nhưng vẫn chưa thể khắc phục được hố ngăn cách giàu - nghèo về
chất lượng sống và mức sống ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Từ đó
sinh ra những bức tường ngăn cách. Cách đây 20 năm, không ai nghĩ rằng nước Mỹ
luôn tự cho mình cái quyền giương cao lá cờ “dân chủ” và “thị trường tự do” để
chinh phục phần còn lại của thế giới, lại dựng lên những bức tường rào ngăn
cách Mỹ với các nước láng giềng. Năm 2006, cựu Tổng thống Mỹ G.W. Bu-sơ ký đạo
luật an ninh nội địa, theo đó, Mỹ chi 1,2 tỉ USD để xây dựng bức tường nhằm
ngăn chặn dòng người nhập cư bất hợp pháp từ nước Mê-hi-cô láng giềng. Đến nay,
bức tường đó vẫn đang tiếp tục được xây dựng và ngày một dài thêm. Cũng phải kể
đến bức tường cao 6 mét nhằm ngăn chặn dòng người từ Ma-rốc tràn sang khu vực
của người Tây Ban Nha sinh sống ở Xe-út tại Bắc Phi./.
Đánh giá và
trả lương dựa trên thực thi công việc: Kinh nghiệm của các nước OECD
TCCS - Sự “bao trùm dài hạn” của phương thức
trả lương chung cho nhiều đối tượng lao động trong khu vực nhà nước theo ngạch,
bậc dẫn đến sự “thích nghi” lâu dài đối với hệ thống trả lương truyền thống
này. Tăng lương theo kiểu “đến hẹn lại lên” mà không căn cứ vào chất lượng thực
thi công việc dẫn đến tình trạng thực thi trung bình phổ biến và rất khó cải
thiện trong khu vực nhà nước. Bài viết giới thiệu kinh nghiệm của các nước
thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) trong việc tạo nên những
thay đổi quan trọng trong quản lý thực thi và khuyến khích lao động thông qua
mô hình đánh giá và trả lương dựa trên kết quả thực thi.
Lịch sử phát triển của mô hình
Mô hình “trả lương dựa trên thực thi
công việc” (performance related pay) hay còn được gọi là “trả lương theo kết
quả thực thi” hoặc “trả lương theo thực thi”, được một số nước OECD bắt đầu áp
dụng vào giữa thập niên 70 của thế kỷ XX trong bối cảnh khó khăn về kinh tế và
tài chính nhằm tiết kiệm nguồn tài chính công và nâng cao hiệu quả thực thi
công việc.
Trong nhiều thập niên, việc trả lương
gia tăng truyền thống theo hệ thống ngạch, bậc đã được xem là hiển nhiên và phổ
biến trong nền công vụ của nhiều nước. “Sự thăng tiến trong chức nghiệp” đã là
một sự khích lệ không nhỏ đối với một bộ phận công chức. Tuy nhiên, sức ép của
sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu đối với các loại khích
lệ khác ngoài sự thăng tiến này. Việc trả lương xứng đáng đã được nhiều nước
OECD xem là một phương án thay thế hoặc là một sự bổ sung cần thiết, song song
với “sự thăng tiến trong chức nghiệp” nhằm tạo động cơ làm việc cho công chức,
đồng thời bảo đảm sự công bằng trong công vụ.
Làn sóng đầu tiên thực hiện chính
sách đánh giá và trả lương dựa trên thực thi công việc được thực hiện ở các
nước thành viên OECD vào cuối thập niên 80. Chính phủ Đan Mạch, Niu Di-lân, Tây
Ban Nha, Thụy Điển, Anh và Mỹ đã thông qua việc trả lương dựa trên thực thi
công việc dưới các hình thức khác nhau. Trong một số tổ chức công ở Phần Lan và
hệ thống bưu điện của Đức, chính sách đánh giá và trả lương theo thực thi cũng
được thử nghiệm vào cuối thập niên 80.
Làn sóng phát triển thứ hai được thực
hiện vào những năm đầu thập niên 90 khi các nước Ô-xtrây-li-a, Phần Lan, Ai-len
và I-ta-li-a đồng loạt thông qua các chính sách đánh giá và trả lương theo thực
thi công việc.
Từ cuối thập niên 90 đến những năm
gần đây, các nước như Đức, Hàn Quốc, Thụy Sĩ và một số nước ở Đông Âu (Séc,
Hung-ga-ry, Ba Lan, Xlô-va-ki-a) đã chính thức thực hiện cơ chế trả lương theo
thực thi ở nhiều lĩnh vực thuộc khu vực công. Ở Pháp, việc chính thức áp
dụng hệ thống đánh giá và trả lương dựa trên kết quả thực thi đối với các công
chức cấp cao được chính thức tuyên bố vào đầu tháng 10-2003.
Đánh giá và trả lương dựa trên
thực thi công việc
Khái niệm “trả lương dựa trên thực
thi công việc” chỉ đề cập đến phần có thể biến thiên của tiền lương, được trả
theo năm hoặc theo một khoảng thời gian định kỳ nào đó. Lương trả theo kết quả
thực thi công việc không bao gồm: (i) bất kỳ một khoản tiền tăng tự động nào
trong cơ cấu lương do được đề bạt/thăng tiến hoặc các khoản gia tăng theo thâm
niên (mà không liên quan đến kết quả thực thi); (ii) các loại tiền thưởng, tiền
phụ cấp khác nhau gắn liền với vị trí chức danh hoặc điều kiện làm việc (làm
việc thêm giờ, phụ cấp vì làm việc tại các địa bàn đặc biệt, môi trường độc
hại...).
Theo mô hình này, việc đánh giá và
trả lương đều dựa trên một mẫu số chung là kết quả thực thi công việc. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc đánh giá thực thi không phải lúc nào cũng được thực
hiện trong mối liên hệ trực tiếp với trả lương. Trong một thời gian tương đối
dài, ở nhiều nền công vụ, người ta vẫn thực hiện đánh giá thực thi để phân loại
nhân viên mà không gắn nó với việc trả lương. Trong những trường hợp như vậy,
kết quả đánh giá thực thi thường chỉ được sử dụng làm cơ sở cho đề bạt hoặc
khen thưởng.
Nhìn chung, việc trả lương theo thực
thi chỉ có thể phát huy được tác dụng khích lệ người lao động khi dựa trên một
tiến trình đánh giá thực thi rõ ràng và trong một khuôn khổ chiến lược quản lý
thực thi rộng lớn(1).
Điều này cũng có nghĩa là mô hình đánh giá và trả lương dựa trên kết quả thực
thi chỉ có thể được áp dụng ở nơi mà hệ thống quản lý thực thi được đặc biệt
chú trọng.
Về mặt lý thuyết, đánh giá thực thi
là khái niệm quen thuộc trong quản lý nguồn nhân lực. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy “việc đo lường kết quả thực thi của người lao động trong khu vực nhà nước
rất khó khăn!”(2).
Thông thường, người lao động được đánh giá và phân loại theo nhiều tiêu chí.
Các tiêu chí đánh giá được xác định theo các mức độ nhấn mạnh khác nhau xung
quanh 4 nhóm yếu tố: Nhóm yếu tố đầu ra - kết quả thực hiện các mục
tiêu/thành tích đạt được. Nhóm yếu tố đầu vào - các chứng nhận về năng
lực, sự tuân thủ kỷ luật, sự theo đuổi các giá trị. Nhóm yếu tố liên quan
đến sự hoàn thiện (tăng dần) của mỗi nhân viên trong quá trình làm việc
(thâm niên). Nhóm yếu tố liên quan đến các kỹ năng “mềm” - các kỹ năng
và khả năng quan hệ, các kỹ năng lãnh đạo, quản lý.
Kết quả đánh giá sẽ toàn diện khi bao
hàm cả 4 nhóm yếu tố trên. Song, trên thực tế, các phương pháp đánh giá hiện
hành chỉ có thể chú trọng và xác định được giá trị của từng cặp nhóm yếu tố nói
trên mà thôi.
Mặt khác, sự chú trọng kết quả thực
thi (nhóm yếu tố đầu ra) trong các nền hành chính cũng được thể hiện dưới các
hình thức khác nhau. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, sự
chú trọng nhiều hơn vào kết quả thực thi thường được “truyền cảm hứng” trực
tiếp từ các phương pháp quản lý của khu vực tư.
Có thể phân tích ưu thế của mô hình
đánh giá và trả lương dựa trên thực thi công việc thông qua lăng kính của ba lý
thuyết chính: lý thuyết tâm lý về sự mong đợi; lý thuyết về sự tác động trung
gian và lý thuyết về sự thiết lập mục tiêu. Sự kết hợp các khía cạnh của cả ba
lý thuyết này sẽ làm sáng tỏ tác dụng đánh giá và khuyến khích của chính sách
trả lương theo thực thi.
Lý thuyết tâm lý về sự mong đợi đưa
ra mối quan hệ giữa giá trị phần thưởng cho thực thi đối với người lao động và
khả năng đạt được nó nếu họ có đủ nỗ lực cần thiết. Đạt được phần thưởng nhờ nỗ
lực, người lao động sẽ cố gắng hoàn thành kết quả thực thi cao hơn.
Theo lý thuyết về “sự tác động trung
gian”, các động lực thúc đẩy thực thi là cần thiết khi chủ sử dụng lao động
không thể dễ dàng kiểm soát được nỗ lực làm việc của nhân viên. Các nhân viên
nỗ lực rất ít vì họ có thể từ bỏ công việc hiện tại để tìm những cơ hội khác.
Lý thuyết này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm cho hệ thống khuyến khích
phù hợp với mức độ không thích mạo hiểm của nhân viên.
Lý thuyết về sự “thiết lập mục tiêu”
chú trọng mối liên hệ giữa quá trình thiết lập mục tiêu và kết quả thực thi.
Cách mà người lao động tiếp cận các mục tiêu (đặc biệt là mức độ tham gia
trực tiếp để lựa chọn chúng) được xem là có ảnh hưởng lớn đến sự cố gắng
đạt được các mục tiêu. Nói cách khác, được tham gia nhiều hơn vào quá trình
thiết lập mục tiêu sẽ khích lệ người lao động tích cực hơn trong việc thực hiện
các mục tiêu đó.
Ba cách tiếp cận trên tuy khác nhau ở
điểm nhấn, nhưng đều chỉ ra những vấn đề cơ bản như nhau đối với việc phân tích
các hệ thống đánh giá và trả lương theo thực thi: Một mặt, là sự đền bù cho sức
lao động bỏ ra và thúc đẩy nhân viên; mặt khác, là xác định và đánh giá được
các mục tiêu.
Tác động thực tế của mô hình
Theo các nghiên cứu và báo cáo của các
nước thành viên OECD, lý do áp dụng mô hình đánh giá và trả lương dựa trên thực
thi công việc trong công vụ ở các nước rất khác nhau. Song, lý do chính là tạo
động lực thúc đẩy từ bên ngoài dưới hình thức trả lương xứng đáng và động lực
thúc đẩy từ bên trong (nội tâm) thông qua sự công nhận những nỗ lực và thành
công của người lao động. Những tác động thực tế mà mô hình đánh giá và trả
lương dựa trên thực thi công việc trong công vụ của các nước OECD được thể hiện
ở chỗ:
Thứ nhất, tạo động lực làm việc.
Trong các hệ thống trả lương truyền thống, việc khích lệ nhân viên được tạo nên
bởi sự kết hợp giữa việc trả lương theo mức độ tăng dần dựa vào thâm niên và
một số cơ hội cho việc thăng tiến. Tuy nhiên, với tư cách là một động lực thúc
đẩy, sự thăng tiến cũng có mặt hạn chế. Trong khu vực công, vì yêu cầu ổn định
trong công vụ, sự thăng tiến cũng có thể diễn ra rất chậm chạp. Thêm vào đó, do
“sự cản trở” của nhiều cấp độ quản lý trong các tổ chức, sự chậm chạp này lại
càng “sâu sắc” và làm giảm đáng kể các cơ hội thăng tiến. Vì những lý do này,
một lượng lớn công chức hầu như đã đứng yên ở một mức lương hoặc ở trong khuôn
khổ các bậc lương hạn chế, và các nhà quản lý có rất ít khả năng để khích lệ họ
bằng tài chính(3).
Thứ hai, thu hút và duy trì những
nhân viên tài năng và năng động. Ở một số nước thành viên OECD, các cấp độ
trả lương cho các nhà quản lý cấp cao khu vực công thấp hơn so với lương của
cấp này ở các khu vực tư trong thập niên 80 vào khoảng 30% - 50%(4).
Vì vậy, việc áp dụng chính sách đánh giá và trả lương theo thực thi ở khu vực
công, nhất là đối với cấp quản lý, được xem là cần thiết để cạnh tranh một cách
hiệu quả với khu vực tư trong việc thu hút và duy trì các nhân viên tài năng.
Thông thường, các tổ chức nhà nước thường hấp dẫn những người không thích mạo
hiểm (ở một mức độ nào đó), mặc dầu họ rất có năng lực. Hình thức trả lương
theo thang bậc gia tăng tỷ lệ thuận với thâm niên có thể phù hợp với những
người đánh giá cao sự an toàn và ổn định của việc làm trong khu vực công. Đặc
biệt, đối với những công việc đòi hỏi các quyết định mạo hiểm (như ở vị trí
quản lý cấp cao), việc trả lương theo thực thi có vai trò rất quan trọng trong
việc tuyển chọn các ứng viên phù hợp. Để thu hút nhân lực có chất lượng từ khu
vực tư đáp ứng các yêu cầu năng lực cần thiết thì điều quan trọng không phải là
chỉ trả mức lương thỏa đáng mà còn chấp nhận thực hiện đồng thời cả các hình
thức khen thưởng, khích lệ khác nữa.
Thứ ba, hỗ trợ quản lý sự thay
đổi. Trả lương theo thực thi có thể cũng được xem là một cách để hỗ trợ
quản lý sự thay đổi khi xuất hiện các mục tiêu ưu tiên mới. Có ba điểm được
nhiều nước OECD đề cập đến khi thực hiện đánh giá và trả lương dựa trên thực
thi công việc: Một là, trả lương theo thực thi là một sự khuyến khích
đối với việc tăng cường phát triển nguồn nhân lực. Ví dụ, các tổ chức có thể
đưa ra yêu cầu buộc các cá nhân phải hoàn thành một khóa đào tạo mới nếu muốn
nhận được tiền thưởng theo kết quả thực thi. Hai là, trả lương theo thực
thi được một số nước (Phần lan, Hung-ga-ry, I-ta-li-a) xem như một cách giới
thiệu các phương pháp làm việc mới và tổ chức lại công việc để bước đầu làm
quen với các loại dịch vụ có tính linh hoạt và yêu cầu có trách nhiệm cao đối
với công dân. Ba là, trả lương theo thực thi còn được xem là một đòn bẩy
đối với việc hoàn thiện phong cách lãnh đạo, quản lý thông qua việc khuyến
khích đổi mới và mạo hiểm. Đây là một kinh nghiệm được các nước như Ca-na-đa,
Đan Mạch, Pháp và Đức áp dụng.
Thứ tư, kiểm soát quỹ lương.
Việc áp dụng mô hình đánh giá và trả lương theo thực thi có thể xuất phát từ
nhiều mục đích khác nhau. Chính phủ có thể xem việc trả lương theo kết quả thực
thi là một cách để kiềm chế quỹ lương thông qua việc cắt giảm sự gia tăng một
cách tự động của lương theo thang bậc và thâm niên trong khi hiệu quả công việc
của tổ chức không được nâng cao. Mặt khác, trả lương theo thực thi có thể là
phương thức mới giúp chuyển đổi cách trả lương trần tổng thể khi các mức lương
này được xem là thấp hơn so với khu vực tư. Việc tăng lương theo chính sách
đánh giá và trả lương theo thực thi có thể được xem như sự đền bù cho tính an
toàn thấp khi người lao động trong khu vực công bắt đầu thực hiện công việc
theo hợp đồng. Việc áp dụng trả lương theo thực thi cũng có thể được xem là một
phương thức hấp dẫn để tăng lương mà không gây ảnh hưởng đến lương hưu hoặc
lương ổn định lâu dài (trong trường hợp các khoản thưởng một lần không được bù
vào chế độ lương hưu). Sự gia tăng chi phí tiền lương trong khu vực công là vô
cùng lớn. Một hệ thống trả lương theo thực thi có thể đưa ra một cơ chế mới cho
việc kiểm soát tình hình và vì vậy có thể làm giảm bớt tâm lý lo sợ của những
người đóng thuế.
Thứ năm, làm cho trách nhiệm giải
trình trở nên hiện hữu. Hệ thống đánh giá và trả lương theo thực thi còn là
một dấu hiệu chứng tỏ rằng các công chức, nhất là các nhà quản lý, có trách
nhiệm giải trình và chất lượng thực thi của họ cũng bị giám sát rất chặt chẽ.
Đây là một điểm quan trọng trong “cuộc chiến” với các ý tưởng truyền thống cho
rằng người lao động trong công vụ (công chức) không có trách nhiệm giải trình
và được trả lương quá cao. Trong các hệ thống công vụ dựa trên chức nghiệp,
việc trả lương theo thực thi cũng có thể là cầu nối cho khoảng hụt hẫng tồn tại
giữa khu vực công và khu vực tư, khi khu vực công được xem là “thế giới của sự
an toàn” mà ở đó người ta có thể có một công việc suốt đời và lương của họ tự
động tăng theo thâm niên, khác hẳn với khu vực tư. Việc áp dụng cách trả lương
theo thực thi trong khu vực công là một cuộc cải cách phổ biến ở nhiều nước.
Đây là một nguyên nhân chính cho sự lựa chọn hệ thống đánh giá và trả lương dựa
trên thực thi để thay thế hệ thống trả lương cũ, vốn tăng theo thâm niên bất kể
kết quả thực thi ra sao.
Thứ sáu, tăng cường ủy quyền trách
nhiệm quản lý ngân sách và nguồn nhân lực. Báo cáo điều tra về quản lý
nguồn nhân lực của OECD (năm 2004) đã chỉ ra hai khuynh hướng rõ rệt trong quản
lý nguồn nhân lực trong thập niên 90, khi các nước OECD thực hiện mô hình đánh
giá và trả lương dựa trên thực thi công việc, đó là: tăng cường phân quyền
trách nhiệm quản lý ngân sách và nguồn nhân lực cho từng bộ, từng cơ quan và
đặc biệt là cho cấp quản lý trực tiếp người lao động; và cá nhân hóa quản lý
nguồn nhân lực - quản lý nhân viên với tư cách là những cá nhân chứ không phải
chỉ đơn giản là phân loại họ. Trong khi các hệ thống công vụ dựa trên chức nghiệp
không có xu hướng cá nhân hóa và ủy quyền quản lý nguồn nhân lực, thì các hệ
thống công vụ dựa trên vị trí việc làm lại có một thực tế quản lý nguồn nhân
lực linh hoạt và được cá nhân hóa cao. Bản thân các nước OECD cũng đang đứng
giữa sự lựa chọn giữa hai hệ thống. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước thực
hiện thành công mô hình đánh giá và trả lương dựa trên thực thi công việc đã
cho thấy xu hướng ủy quyền quản lý nguồn nhân lực và cá nhân hóa quản lý nhân
sự là cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện đánh giá và trả lương theo thực
thi một cách hiệu quả. Chính sự ủy quyền quản lý ngân sách đã tạo nền móng quan
trọng cho việc ủy quyền quản lý nguồn nhân lực theo những nội dung quan trọng
như: biên chế, phân loại, đánh giá thực thi, cho điểm và trả lương...
Nghiên cứu sự
phát triển của mô hình đánh giá và trả lương dựa trên thực thi công việc đã cho
thấy, các hệ thống công vụ dựa theo vị trí việc làm, với sự bảo đảm mức độ ủy
quyền quản lý cao là những nơi đầu tiên áp dụng rộng rãi mô hình trả lương theo
thực thi. Chính trách nhiệm giải trình được cá nhân hóa mạnh mẽ trong các hệ
thống này đã tạo điều kiện đưa hệ thống trả lương theo thực thi cá nhân vào áp
dụng. Điều này đã tạo nên một sự thay đổi cơ bản trong các hệ thống công vụ
truyền thống vốn chủ yếu dựa trên sự đề bạt/thăng tiến về chức vụ như một hình
thức tạo động cơ làm việc./.
---------------------------------------------
(1) Quản lý thực thi đòi hỏi
mối liên hệ giữa các mục tiêu của đơn vị/bộ phận với các mục tiêu chiến lược
của tổ chức. Các hệ thống quản lý thực thi có mục đích liên kết việc quản lý
con người với các mục tiêu và các chiến lược của tổ chức
(2) Báo cáo của OECD, 2004
(3) Trong công vụ của Anh,
vào thập niên 80, một chuyên viên - cấp đầu tiên với những trách nhiệm quản lý
cơ bản, phải chờ trung bình đến 20 năm để được thăng tiến lên vị trí công chức
cấp cao. Nghiên cứu chính sách trả lương ở Anh vào thập niên 90, Sheehy Inquiry
đã phát hiện ra rằng khoảng 42% nhân viên ở các cấp bậc “không thể chờ đợi để
được thăng tiến”
(4) Báo cáo của OECD, 2004
“Trung Đông -
2020”
TCCSĐT - Trong 3 ngày, từ ngày 20 đến ngày
22-12-2009, Câu lạc bộ “Van-dai” (“Valdai”), Cục Thông tin Quốc tế của Hãng
thông tấn Nga “Novosti”, Hội đồng Phụ trách chính sách đối ngoại và quốc phòng
Nga đã tổ chức Hội nghị quốc tế về Trung Đông với chủ đề “Trung Đông: năm 2020”
tại Gioóc-đa-ni.
Chương trình nghị sự của Hội nghị đã
bàn về triển vọng dàn xếp cuộc xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, vai trò
của các nước ngoài khu vực trong nền chính trị ở Trung Đông, vấn đề an ninh
năng lượng và không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Được thành lập năm 2004 bởi Hội đồng
Phụ trách chính sách đối ngoại và quốc phòng Nga, Báo “Tin tức Mát-xcơ-va”
(“The Moscow News”), Tạp chí “Nước Nga trong nền chính trị toàn cầu” (“Russia
In The Global Affairs”) và Tạp chí “Hình bóng nước Nga” (“Russia Profile”), Câu
lạc bộ “Van-đai” hằng năm đã mời gọi hàng trăm chính khách và các chuyên gia
nghiên cứu chính trị từ nhiều nước khác nhau để thảo luận các chủ đề liên quan
tới nước Nga và thế giới. Khoảng 70% đại biểu tham dự các cuộc hội thảo là
khách mời thường xuyên của Câu lạc bộ. Đây là lần đầu tiên một hội nghị quốc tế
về Trung Đông được tổ chức ở Nga với sự tham gia của các chính khách, nhà báo,
chuyên gia và các nhà khoa học đến từ Pa-le-xtin, I-xra-en, Ai-cập, I-ran,
Sy-ri, A-rập Xê-út, Bác-khranh, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Anh, Mỹ và Pháp. Khách mời
danh dự có Thứ trưởng Bộ ngoại giao Nga A. Xan-tan-nốp, Viện sĩ E. Pri-ma-cốp
và đại diện Hoàng gia Gioóc-đa-ni.
Bối cảnh tổ chức Hội nghị quốc tế
về Trung Đông
Hội nghị quốc tế về Trung Đông lần
này diễn ra trong bối cảnh tiến trình hòa bình Trung Đông đang rơi vào bế tắc.
Hiện chưa có dấu hiệu níu kéo Pa-le-xtin và I-xra-en ngồi vào bàn đàm phán và
cộng đồng quốc tế đang rất cần đưa ra các biện pháp khẩn cấp để buộc các bên
phải thực hiện các cam kết mà họ đã từng chấp nhận trước đây. Trước đó, ngày
24-11-2009, Trợ lý phụ trách chính trị của Tổng Thư ký Liên hợp quốc tuyên bố
tại Hội nghị của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc rằng, dấu hiệu đáng lo ngại nhất
đối với tiến trình hoà bình Trung Đông là việc I-xra-en tiếp tục xây dựng trái
phép các khu định cư của người Do Thái trên phần lãnh thổ chiếm đóng của người
Pa-le-xtin, vi phạm tất cả các cam kết của họ sau khi Tổng thống Pa-le-xtin
Ma-mút A-bát đã có sự nhân nhượng là không ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc cũng đã từng thông qua Nghị quyết số 1860, yêu cầu các bên
ngừng chiến ở dải Ga-da, theo đó, I-xra-en phải rút hết quân ra khỏi các vùng
lãnh thổ chiếm đóng của người Pa-le-xtin và mở cửa ranh giới tại các trạm kiểm
soát dọc theo dải Ga-da, nhưng cả I-xra-en và Phong trào Hồi giáo Ha-mát đều
phản đối Nghị quyết này. Từ đó tới cuối năm 2009, các bên vẫn không ngừng các
cuộc pháo kích và trả đũa lẫn nhau. Tiến trình hoà bình Trung Đông rơi vào bế
tắc. Rõ ràng, các nỗ lực chính trị nhằm tìm kiếm giải pháp có thể chấp nhận
được về sự tồn tại của hai nhà nước I-xra-en và Pa-le-xtin đã hoàn toàn trở nên
vô vọng.
Trong bối cảnh đó, người Pa-le-xtin
đã không còn hy vọng vào sự giúp đỡ của Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma, người đã
từng đưa ra tuyên bố trong những ngày đầu bước vào Nhà Trắng rằng, dàn xếp tiến
trình hoà bình Trung Đông là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của ông. Nếu trong những ngày mới lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma
yêu cầu I-xra-en phải hoàn toàn chấm dứt các hoạt động xây dựng khu định cư
trên các vùng đất chiếm đóng của người Pa-le-xtin thì nay, ông lại đồng ý với
đề nghị của Thủ tướng I-xra-en Na-ta-ni-a-hu là chỉ tạm thời ngừng xây dựng trong
vòng 10 tháng. Điều này đã bị phía Pa-le-xtin hoàn toàn bác bỏ. Ngoài tiến
trình hoà bình Trung Đông, tình hình I-rắc cũng đang bất ổn và vấn đề hạt nhân
của I-ran thì bế tắc, chưa có lời giải đáp. Tê-hê-ran đứng trước nguy cơ bị áp
dụng lệnh trừng phạt mới cứng rắn hơn. Thêm vào đó, tình hình biên giới giữa
Cộng hòa Y-ê-men và A-rập Xê-út đang trở nên căng thẳng.
Nội dung bàn thảo tại Hội nghị
quốc tế về Trung Đông
Phát biểu tham luận tại Hội nghị có
ông Ép-ghe-nhi Pri-ma-cốp, Viện sĩ Nga, Chủ tịch Hội đồng Thương mại và Công
nghiệp Nga, cựu Thủ tướng Nga; cựu Thủ tướng Pa-le-xtin A-khmét Cu-rây; nhiều
đại diện đến từ Nga, Pa-le-xtin, I-rắc, Ai-cập, Li-băng, Gioóc-đa-ni, Sy-ri,
A-rập Xê-út, Thổn Nhĩ Kỳ, Ba-khrây, Anh, Pháp và Mỹ. Phiên kết thúc Hội nghị
với nội dung “Trung Đông những năm 2010 - 2020: đi về đâu?”, đặc phái
viên của Tổng thống Nga Đ.Mét-vê-đép và Thứ trưởng Bộ ngoại giao Nga A.
Xan-tan-nốp đã có bài phát biểu.
Những người tham dự Hội nghị quốc tế
về Trung Đông lần này cố gắng định hình triển vọng xây dựng không gian an ninh
và ổn định ở Trung Đông trong tương lai có thể dự báo được, nhưng không thể hy
vọng giải quyết được các vấn đề then chốt của khu vực trong vài năm tới. Các
tác giả của một bản báo cáo phân tích trình bày tại Hội nghị khẳng định, ở
Trung Đông tích tụ quá nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết, lại đan xen với
các mâu thuẫn và những khó khăn mới, làm gia tăng bạo lực và xung đột. Do đó,
chưa thể có triển vọng giải quyết thỏa đáng tiến trình hoà bình Trung Đông và
ngăn chặn nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân tại khu vực này.
Cựu Thủ tướng Pa-le-xtin, ông A-khmét
Cu-rây, trong bài phát biểu tại Hội nghị cho rằng, ngồi vào bàn đàm phán với
I-xra-en để giải quyết toàn bộ vấn đề trong tiến trình hoà bình Trung Đông
trong điều kiện hiện này là “một sai lầm lớn nhất và nghiêm trọng nhất”. Nhiều
người, trong đó có các bạn bè của người Pa-le-xtin ở Nga, kêu gọi phía
Pa-le-xtin ngồi vào bàn đàm phán với I-xra-en, nhưng rõ ràng là chưa có đủ điều
kiện để làm điều đó. Ông A-khmét Cu-rây khẳng định, tiến hành đàm phán trong
giai đoạn hiện nay chỉ là hành động che đậy kế hoạch của I-xra-en đơn phương
thực hiện chủ trương của họ nhằm giữ nguyên hiện trạng và từng bước “gặm nhấm”
các phần lãnh thổ khác của người Pa-le-xtin trên bờ tây sông Gioóc-đan. Người
Pa-le-xtin đang phải chứng kiến cảnh tượng nhà cửa và làng mạc của họ bị phía
Pa-le-xtin tàn phá để xây dựng khu định cư cho người I-xra-en ở Giê-ru-sa-lem.
Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi ngay trong hàng ngũ những người
Pa-le-xtin còn có sự chi rẽ. Trong thời gian gần đây, Phong trảo Pha-ta và
Phong trào Ha-mát của Pa-le-xtin luôn có sự xung đột, thiếu thống nhất quan
điểm về một số vấn đề trong chính sách đối nội và đối ngoại.
Về triển vọng xây dựng một
Trung Đông không có vũ khí hạt nhân, các chuyên gia Nga cho rằng, trong
điều kiện không thể ngăn chặn quá trình phổ biến vũ khí hạt nhân ở Trung Đông,
còn I-ran đã tiến tới chỗ có đầy đủ tiềm năng để phát triển vũ khí hạt nhân,
thì cộng đồng quốc tế nên sử dụng tiềm năng vũ khí hạt nhân như một yếu tố đóng
vai trò ổn định và kiềm chế. Thí dụ, xây dựng “ô an ninh” ở khu vực này với sự
tham gia của các cường quốc hạt nhân như Nga và Mỹ. Một phương án khác là xây
dựng lá chắn tên lửa tập thể trong khu vực hoặc chấp nhận khả năng “răn đe lẫn
nhau” như trường hợp Ấn Độ và Pa-ki-xtan - hai quốc gia hạt nhân đang xung đột
nhau trong các cuộc tranh chấp biên giới chưa được giải quyết. Rõ ràng, theo
các chuyên gia phân tích đến từ Nga, trong điều kiện hiện nay, khó có thể hy
vọng xây dựng một khu vực Trung Đông phi hạt nhân, một khi I-xra-en đã sở hữu
vũ khí hạt nhân nhưng lại chưa tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
(NPT). Trong điều kiện không ngăn chặn được thì nên có biện pháp kiềm chế nhằm
tạo ra sự ổn định tương đổi.
Về kịch bản tiến công quân sự nhằm
vào I-ran mà trong thời gian qua đã được đề cập ở Mỹ, các chuyên gia Nga,
trước hết là Viện sĩ E. Pri-ma-cốp, người được mệnh danh là “giáo trưởng” chính
sách Trung Đông của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, khẳng định rằng, giải pháp
tiến công quân sự nhằm vào các mục tiêu hạt nhân của I-ran có thể để lại hậu
quả khủng khiếp, không thể dự đoán trước được, không những không thể loại bỏ
được nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân mà còn làm trầm trọng thêm nguy cơ này.
Theo ông E. Pri-ma-cốp, giải pháp quân sự đối với vấn đề hạt nhân của I-ran chỉ
có thể làm chậm lại khả năng I-ran sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng lại củng cố
quyết tâm của I-ran phát triển loại vũ khí này. Đây là điều hết sức nguy hiểm
vì hiện nay I-ran vẫn tuyên bố rằng, họ không có ý định sở hữu vũ khí hạt nhân.
Lối thoát nào cho tình hình Trung
Đông?
Cựu Thủ tướng Pa-le-xtin, ông A-khmét
Cu-rây, trong bài phát biểu tại diễn đàn Hội nghị cho rằng, chung sống hoà bình
với người I-xra-en là sự lựa chọn chiến lược của người Pa-le-xtin và cuối cùng
các bên sẽ tìm ra giải pháp công bằng để giải quyết cuộc xung đột này. Đa số
các chính khách, các chuyên gia, các nhà báo đều nhận xét, cuối đường hầm trong
tiến trình hoà bình Trung Đông vẫn còn ánh sáng dẫn tới hy vọng tìm ra lối thoát.
Cuộc xung đột giữa Pa-le-xtin và I-xra-en kéo dài đã 60 năm, biết bao nhiêu máu
và sinh mạng dân thường đã đổ và cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ lực không nhỏ
nhằm đạt được hoà bình. Theo Viện sĩ E. Pri-ma-cốp và nhiều đại biểu phát biểu
tham luận, có thể có một số giải pháp nhằm giải thoát cho tình hình này.
Một là, I-xra-en phải hoàn
toàn chấm dứt hoạt động xây dựng các khu định cư trên các vùng lãnh thổ chiếm
đóng của Pa-le-xtin; Mỹ công khai thể hiện rõ quan điểm không chấp nhận
hiện trạng tình hình ở Trung Đông; còn “bộ tứ” gồm Liên hợp quốc, Liên minh
châu Âu (EU), Nga và Mỹ thúc đẩy tiến trình hoà bình Trung Đông nhằm đưa ra một
kế hoạch khung mà trong đó cả Pa-le-xtin và I-xra-en đều sẽ có sự nhân nhượng.
Trong kế hoạch này sẽ phải xác định rõ khung pháp lý để giải quyết các vấn đề
chủ yếu trong cuộc xung đột giữa Pa-le-xtin và I-xra-en. Theo Viện sĩ E.
Pri-ma-cốp, nguyên tắc chủ yếu của kế hoạch này là xây dựng nhà nước Pa-le-xtin
có biên giới, bao gồm các vùng bị I-xra-en chiếm đóng ở bờ tây sông Gioóc-đan,
dải Ga-da và Đông Giê-ru-sa-lem. Kế hoạch cũng phải áp dụng nguyên tắc ổn định
cuộc sống cho những người Pa-le-xtin tị nạn, cho phép họ quay trở lại các khu
vực định cư trước đây và công nhận Giê-ru-sa-lem là thủ đô của hai nhà nước.
Việc xây dựng hai nhà nước Pa-le-xtin và I-xra-en là mục đích cơ bản của tiến
trình hoà bình Trung Đông. Trong điều kiện hiện nay, hai bên phải có sự nhân
nhượng rất lớn. Giải pháp này được gọi là “giải pháp truyền thống”, rất khó có
thể giải quyết được vấn đề hoà bình Trung Đông.
Hai là, dàn xếp bắt buộc thông qua
nỗ lực và thống nhất quan điểm của các tác nhân trung gian truyền thống,
trước hết là các nước trong “bộ tứ”. Để các bên nhân nhượng, cách dễ dàng nhất
là sử dụng áp lực tổng hợp từ bên ngoài, trong đó có các áp lực về tài chính,
như trong trường hợp Ai-cập và I-xra-en ký hết Thỏa thuận tại trại Đa-vít. Cần
nghiên cứu giải pháp này vì ngay cả sự hình thành nhà nước I-xra-en cũng dựa
trên sự áp đặt của cộng đồng quốc tế đối với các nước A-rập. Hiện nay, cộng
đồng quốc tế cũng nên có sự áp đặt đối với người I-xra-en đề hình thành nhà
nước Pa-le-xtin của người A-rập giáp giới với I-xra-en. Các chuyên gia Nga nhận
thấy, trong điều kiện hiện nay rất khó hình thành “nhóm các nước gây áp lực”
đối với I-xra-en vì Mỹ luôn muốn duy trì vị thế độc quyền của họ đối với quá
trình dàn xếp tiến trình hòa bình Trung Đông. Trong khi đó, giữa các nước trong
nhóm “bộ tứ” còn có sự chia rẽ về quan điểm và chiến thuật hành động cũng như
cạnh tranh ảnh hưởng và uy tín đối với các nước Trung Đông. Ngoài ra, hiệu lực
của các thể chế quốc tế do Liên hợp quốc đứng đầu vẫn chưa đủ ảnh hưởng để buộc
các bên thực hiện các cam kết. Bằng chứng là Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã
từng đưa ra nhiều nghị quyết trừng phạt nhưng không có tác dụng.
Ba là, giữ nguyên hiện trạng.
Những người phát biểu tại Hội nghị đã cảnh báo nguy cơ từ chủ trương thể chế
hóa hiện trạng tình hình hiện nay ở Trung Đông. Chủ trương này giành được sử
ủng hộ của một số người trong ban lãnh đạo ở I-xra-en cũng như trong phong trào
Ha-mát. Có quan điểm cho rằng, nếu chưa đạt được một giải pháp chính trị cho
tiến trình hòa bình Trung Đông thì nên giữ nguyên hiện trạng nhằm tránh các
hành động bạo lực của các bên. Nhưng đa số các chuyên gia Nga cho rằng, đây là
giải pháp nguy hiểm, đẩy xung đột và mâu thuẫn phát triển tới giai đoạn cực
đoan hơn và khó quản lý hơn.
Bốn là, biện pháp đơn phương.
Do quá thất vọng trước tiến trình hoà bình Trung Đông, phía Pa-le-xtin có
thể sẽ đơn phương tuyên bố thành lập nhà nước độc lập và kêu gọi Liên hợp quốc
cũng như cộng đồng quốc tế công nhận. Tuy nhiên, giải pháp này cũng không giúp
giải quyết được căn bản những mâu thuẫn đang tồn tại giữa I-xra-en và
Pa-le-xtin.
Do đó, giải pháp còn lại duy nhất là
các bên Pa-le-xtin và I-xra-en phải nhân nhượng. Nhưng trong điều kiện hiện
nay, sự nhân nhượng đó sẽ là rất khó, thậm chí có thế không thực hiện được. Vì
thế, tiến trình hoà bình Trung Đông vẫn chưa có hy vọng tìm ra lối thoát trong
vài năm tới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét